Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả việc rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp một qua môn tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 24 trang )

1. MỞ ĐẦU:
1.1 Lí do chọn đề tài
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng để biểu đạt tri thức ,tình
cảm,là sự khác nhau cơ bản giữa con người với động vật . Ngôn ngữ là gương
mặt thứ hai,là tấm gương phản chiếu tâm hồn. Từ lâu đời nay, dân gian đã có
câu: “Lời nói gói vàng, “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa
lòng nhau”. Trong giao tiếp hàng ngày, có người nói hoặc trình bày một vấn đề
nào đó rất dễ hiểu, thuyết phục lòng người nhưng cũng có người nói, cũng trình
bày về vấn đề đó nhưng người nghe rất khó hiểu, thậm chí không muốn nghe.
Vậy nói làm sao để người khác dễ hiểu, đi vào lòng người, thu hút người nghe.
Như vậy kĩ năng nói - giao tiếp là rất quan trọng với mỗi chúng ta.
Kĩ năng nói - giao tiếp là phương thức, công cụ cơ bản nhất để tổ chức
hoạt động dạy và học. Nếu không có nói - giao tiếp thì không thể hướng hoạt
động sư phạm của thầy và trò vào việc đạt được mục đích giáo dục. Trong các
nhà trường phổ thông luôn coi trọng đến việc rèn các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết
cho học sinh thông qua các môn học và các hoạt động giáo dục khác.
Chính vì thế để giúp HS có được ý thức, kĩ năng nói rõ ràng, gãy gọn, đủ
ý và phù hợp trong mọi tình huống là rất cần thiết. Bởi thông qua hoạt động nói,
các em sẽ phát huy được vốn ngôn ngữ mẹ đẻ, nói đúng cấu trúc ngữ pháp, mở
rộng thêm vốn từ, làm cơ sở cho việc tiếp thu tri thức sau này. Cũng nhằm hình
thành thói quen, ý thức giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần
hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho các em.
Trong thực tế dạy học, tôi thấy HS ở tất cả các bậc học còn yếu về kĩ năng
nói, nhiều em nói - diễn đạt trước tập thể còn đang lúng túng, không rõ ràng, lưu
loát vấn đề, thiếu tự tin. Đặc biệt là HS Tiểu học vốn từ của các em còn ít và nhất là
HS lớp Một, kĩ năng nói là một trong những kĩ năng mà các em còn yếu. Các em
chưa có thói quen rèn kĩ năng nói, còn nói theo người lớn, nói không đủ ý, ngôn
ngữ diễn đạt chưa logic. Nhiều học sinh nhút nhát không muốn trình bày, chia sẻ
với các bạn những điều mình nghĩ, mình biết hoặc có nói thì cũng nói trống không,
không rõ nghĩa.
Vậy, dạy như thế nào, học như thế nào để nâng cao kĩ năng nói cho


HS lớp Một, góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho các
em. Là một giáo viên nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp Một, tôi thấy mình
cần phải có trách nhiệm tích cực nghiên cứu tìm ra những biện pháp hữu
hiệu nhất góp phần vào việc nâng cao rèn kĩ năng nói cho HS.
Với phạm vi nghiên cứu của sáng kiến, tôi chỉ tập trung vào việc đưa
ra những kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả việc rèn kĩ năng
nói cho học sinh lớp Một qua môn Tiếng Việt” trong trường Tiểu học.
1.2 Mục đích nghiên cứu.

1


Tìm ra những biện pháp nhằm rèn kĩ năng nói cho HS lớp Một qua môn
Tiếng Việt và các môn học khác cũng như các hoạt động giáo dục khác để các
em có kĩ năng nói tốt, phù hợp trong mọi tình huống.
1.3 Đối tượng nghiên cứu.
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả việc rèn luyện kĩ năng nói của HS
lớp Một qua môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp trực quan, quan sát, giảng giải để giải quyết vấn đề.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp luyện tập – thực hành.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề.
2.1.1. Khái niệm về kĩ năng nói.
Kĩ năng nói là kĩ năng sử dụng lời nói trong giao tiếp, là kĩ năng để nói
sao cho đạt được hiệu quả và mục đích của cuộc giao tiếp.

2.1.2. Mục đích của việc rèn kĩ năng nói trong nhà trường
Rèn kĩ năng nói cho học sinh để khơi gợi, kích thích học sinh có hứng thú
bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình nhằm phát huy kĩ năng nói của các em, giúp trẻ
sớm có tính cách mạnh dạn, cởi mở và tự tin hơn trong quá trình giao tiếp, giúp
cho các em có khả năng ứng xử và nhận xét sự vật, sự việc. Từ đó giúp HS mở
rộng vốn từ, nói thành câu, nói lưu loát, có kĩ năng giao tiếp tốt và đạt hiệu quả
cao trong học tập.
2.1.3. Nội dung luyện nói cho học sinh ở Tiểu học.
Chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học thể hiện rất rõ việc rèn kĩ năng
nói cho HS. Ở các lớp có sự lặp lại và nâng cao trong từng kĩ năng nhỏ, thể hiện
tính hệ thống trong nội dung bài học, giúp học sinh từng bước nâng cao kĩ năng
nói của mình qua từng năm học.
Nội dung rèn kĩ năng nói được thể hiện trong nhiều bài học của môn
Tiếng Việt từ lớp 1 đến lớp 5.
Ở giai đoạn học âm - vần, các em có thời gian dành cho luyện nói theo
chủ đề. Sau đó, kĩ năng nói là mục tiêu rèn luyện của phân môn Tập đọc, Tập
làm văn, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Chính tả,...
Kĩ năng sử dụng nghi thức lời nói, HS được luyện nói trong các tình
huống giao tiếp thông thường như chào gặp mặt và đáp lời chào gặp mặt; cảm
ơn, xin lỗi và đáp lời cảm ơn, xin lỗi; nói lời mời, đề nghị, yêu cầu;...
Kĩ năng đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi, HS được rèn hỏi - đáp theo chủ đề
của bài học, trả lời câu hỏi về bản thân, người thân; trả lời câu hỏi theo tranh; trả
lời câu hỏi về bài đọc; trả lời câu hỏi về bài nghe;...
Kĩ năng thuật việc, kể chuyện, HS được luyện kể từng đoạn câu chuyện
đã nghe kể (có hình ảnh minh hoạ), kể từng đoạn câu chuyện (có đọc, có tranh,
2


có gợi ý), kể toàn bộ câu chuyện (có đọc, có tranh, có gợi ý), kể chuyện phân vai
(có tranh); tự tìm đọc truyện, tự tìm câu chuyện đã nghe kể rồi kể lại, kể lại câu

chuyện, hoạt động đã tham gia hoặc đã chứng kiến.
Kĩ năng phát biểu, thuyết trình, HS được luyện giới thiệu về bản thân, về
người thân, về đồ vật...; trao đổi, thảo luận về một chủ đề gần gũi, báo cáo về
hoạt động của tổ, trao đổi ý kiến theo chủ đề, giới thiệu địa phương; ...
Nội dung dạy học của SGK Tiếng Việt Tiểu học thể hiện quan điểm dạy
giao tiếp, theo hướng tích hợp nội dung và kĩ năng. Đây là điều kiện thuận lợi
giúp HS tiểu học được rèn luyện và phát triển kĩ năng ngôn ngữ.
2.1.4 Nội dung luyện nói cho học sinh lớp Một.
Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 1, nội dung dạy luyện nói
cho học sinh được coi như một nội dung độc lập, giúp học sinh bước đầu
hình thành và phát triển kĩ năng nói.
+ Ở giai đoạn đầu, phần luyện nói theo tranh tương đối tự do, theo
chủ đề của tranh, không gò bó trong các âm và thanh vừa học. Phần luyện
nói trong giai đoạn này là giúp các em làm quen với không khí học tập
mới, không rụt rè, nhút nhát, dám mạnh dạn nói cho các bạn nghe, nói theo
hướng dẫn của giáo viên trong môi trường giao tiếp mới - giao tiếp văn
hóa, giao tiếp học đường.
+ Ở giai đoạn tiếp theo phần dạy – học âm vần mới, phần luyện nói
dựa vào chủ đề gợi ý trong tranh, nói về chủ đề trong sách giáo khoa, chú ý
đến các từ ngữ có âm, vần mới học, từ đó mở rộng sử dụng cả những từ ngữ
có âm vần chưa học. Chú ý nói theo định hướng bằng những câu hỏi của
giáo viên, học sinh có thể nói được những câu đơn giản, có nội dung gần gũi
với cuộc sống xung quanh trẻ. Phần luyện nói thực hiện với một thời lượng
vừa phải (khoảng 5 phút)
Để thực hiện được yêu cầu trên ở chương trình mới môn Tiếng Việt 1 yêu
cầu giáo viên khi dạy phải đảm bảo mục tiêu hình thành và phát triển cho HS
đầy đủ 4 kỹ năng. Trong đó kỹ năng nói được luyện tập kết hợp trong các kỹ
năng đọc, nghe, viết. Điển hình là trong tiết 2 của một bài học vần hay tập đọc
có hẳn một hoạt động riêng cho phần luyện nói. Việc rèn kỹ năng nói đã giúp
cho học sinh có khả năng giao tiếp, biết ứng xử và nhận xét sự vật, sự việc trên

những nhận thức riêng, bằng sự cảm nhận ngây ngô của con mắt trẻ thơ. Vì thế,
để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả, giáo viên cần phải có cách tổ chức
dạy để khơi gợi, kích thích học sinh có hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ của
mình nhằm phát huy kỹ năng nói của các em, nhằm giúp trẻ sớm có tính cách
mạnh dạn, cởi mở và tự tin hơn, nói lưu loát trong quá trình giao tiếp.
Qua đây ta thấy nội dung rèn kĩ năng nói cho học sinh Tiểu học nói chung
và học sinh lớp Một nói riêng rất có hệ thống. Song để các em có một kĩ năng nói
tốt thì không đơn giản chút nào. Nếu dạy – học đúng theo quan điểm nội dung,
chương trình sách giáo khoa và linh hoạt đổi mới phương pháp, hình thức trong
quá trình dạy học thì chắc chắn sẽ giúp các em có kĩ năng nói – giao tiếp tốt.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
3


2.2.1. Thực trạng về kĩ năng nói của HS lớp 1A do tôi chủ nhiệm trong
năm học 2018- 2019.
Ngay từ tháng 8 sau khi nhận lớp tuyển sinh ,tôi thấy học sinh lớp tôi còn
rất nhiều em nói ngọng, một số em bố mẹ đưa đến trường vẫn còn khóc nhè, có
em cô giáo hỏi cứ đứng nhìn không trả lời, hoặc có nói nhưng rất nhỏ, nói lí nhí
trong miệng. Từ những thực trạng trên tôi đã tiến hành khảo sát về kĩ năng nói
của các em thông qua hình thức phỏng vấn trực tiếp các em bằng các câu hỏi
đơn giản, giáo viên hỏi - HS trả lời và kết quả như sau:
Khả năng

Số
lượng

Nói tốt
Nói chưa thành câu
Nói chưa lưu loát


3
7
6

Tỉ lệ
%

Khả năng

11,5% Nói ngọng
26,9% Đứng lên chưa dám nói
23,1% Nói nhỏ, rụt rè, thiếu tự tin

Số
lượng

Tỉ lệ
%

3
2
5

11,5%
7,7%
19,3%

2.2.2 Nguyên nhân của tình trạng HS chưa có kĩ năng nói tốt
+ Về phía giáo viên:

- Bản thân tôi và giáo viên khối Một nhiều năm trong trường ,dưới sự chỉ đạo
của chuyên môn nhà trường đã rất quan tâm đến việc rèn kĩ năng nói cho học
sinh. Song giáo viên chưa có nhiều biện pháp khuyến khích học sinh luyện nói
hiệu quả, chưa thực sự linh hoạt trong đổi mới phương pháp dạy học. Chưa triệt
để trong sửa sai cho học sinh.
+ Về phía học sinh:
- Tỉ lệ HS nói tiếng vùng quê chiếm gần 90% số HS cả lớp, gia đình
lại chưa có thói quen luyện cho các em nói tiếng phổ thông.
- Nhiều em xa bố mẹ từ rất nhỏ do bố mẹ đi làm ăn xa phải ở với
ông bà, chú, bác thiếu thốn tình cảm, sự dạy bảo của cha mẹ.
- Một lí do khiến HS lớp Một lúng túng khi nói chính là các em còn hạn
chế về vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp dẫn đến việc các em
không biết nói gì với các chủ đề luyện nói theo yêu cầu bài học.
+ Về phía phụ huynh:
- Do tập tục của địa phương là một xã nông thôn, người dân ít được giao
tiếp, các phương tiện nghe nhìn còn thiếu thốn, còn nhiều gia đình khó khăn.
- Một bộ phận gia đình phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến rèn kĩ năng
nói cho các em. Thậm chí giao tiếp của họ còn hạn chế, xưng hô chưa chuẩn
mực, nên các em bắt trước và xưng hô thiếu thiện cảm.
Từ những hạn chế và nguyên nhân như trên, với mục tiêu rèn cho HS lớp
Một có kĩ năng nói tốt góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện
cho các em. Bản thân là giáo viên dạy lớp Một, tôi đã có nhiều trăn trở và
đưa ra các biện pháp nhằm giúp học sinh lớp Một có kĩ năng nói tốt.
2.3. C¸c gi¶i ph¸p đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Giải pháp 1: Phân loại đối tượng học sinh.
Để có biện pháp rèn kĩ năng nói cho HS phù hợp với từng đối tượng, từ
khảo sát thực tế tôi đã tiến hành phân loại đối tượng học sinh.
 Phân loại học sinh qua công tác tuyển sinh.
4



Vì tâm lí HS lớp Một, ngày đầu tiên đến trường còn nhiều bỡ ngỡ, háo
hức nhưng cũng sợ sệt (vì môi trường mới). Để tạo không khí thoải mái cho các
em, đồng thời tuyên truyền đến phụ huynh về vai trò của giao tiếp, hiểu được
tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng nói cho các con trong trường học. Khi tuyển
sinh, ngoài việc tiếp nhận hồ sơ HS, để giúp các em hòa đồng nhanh với môi trường
mới, mạnh dạn, tự tin và yêu ngôi trường mà mình chuẩn bị vào học, không còn
cảm giác sợ sệt. Ban tuyển sinh nhà trường đã chuẩn bị một chương trình giao
lưu, trò chuyện với các em với những câu hỏi đơn giản, gần gũi, thân thiết bằng hình
thức giao lưu với từng em.
+ Ví dụ:
- Tên con là gì? Hôm nay con được đi đâu?
- Ai lai con đến trường ? Con thấy trường có đẹp không?
- Nhà con có mấy người? Con hãy nói tên từng người trong gia đình?....
- Ở Mầm non con được học với cô giáo nào? Cô có yêu con không?
- Con thích bài hát nào? Con hãy hát 1 bài cho cô và các bạn cùng nghe?
Ngoài ra, cũng trong buổi tuyển sinh đồng chí Hiệu trưởng đã dành 30
phút nói chuyện tập trung, giao lưu với các em rất cởi mở, thân thiện, gần gũi và
có những em mạnh dạn nói chuyện tự nhiên trước tập thể.
Mặt khác để giúp các em hiểu về trường, lớp, biết và thực hiện một số kĩ
năng cần thiết, tôi cùng với giáo viên khối Một đã lần lượt dẫn các em đến các
phòng để giới thiệu về hoạt động của từng phòng, các thầy cô trong trường, đưa
các em đến phòng vệ sinh hướng dẫn cách sử dụng,...
Qua buổi tuyển sinh, nói chuyện, giao tiếp với HS, tôi đã phần nào nắm
được các đối tượng HS và qua giao tiếp các em đã bộc lộ hết khả năng của mình.
Và đây cũng là cơ sở để nhà trường biên chế các lớp được đồng đều tất cả các
đối tượng HS.
 Phân loại học sinh qua khảo sát của giáo viên chủ nhiệm.
Ngay sau khi tuyển sinh, nhận lớp tôi đã giao tiếp với từng em và bước
đầu khảo sát được kĩ năng nói của HS. Từ đó có kế hoạch dạy – học phù hợp,

hiệu quả với từng đối tượng HS.
Từ kết quả tuyển sinh và khảo sát thực tế, tôi chia học sinh thành các
nhóm sau:
+ Nhóm 1: Học sinh nói và diễn đạt tốt: 3/26 em
+ Nhóm 2: Học sinh nói ngọng, nói chưa lưu loát: 6/26em
+ Nhóm 3: Học sinh nói nhỏ, rụt rè, thiếu tự tin, không dám nói: 8/26 em
+ Nhóm 4: Học sinh nói chưa thành câu: 9/26 em.
Sau khi phân loại được đối tượng học sinh, tôi lập ngay kế hoạch kèm cặp
giúp đỡ và bồi dưỡng theo từng nhóm:
+ Nhóm 1: Đây là nhóm HS có khả năng nói – diễn đạt tốt. Tôi thường cho
các em nói và làm mẫu cho các bạn học tập theo. Ngoài những bài luyện nói
theo yêu cầu cần đạt chuẩn, tôi luôn cho các em nói liên kết thành bài có mở
rộng các câu hỏi. Từ đó giúp các em phát huy khả năng của mình.

5


+ Nhóm 2: Với đối tượng HS này (do sự phát triển chưa hoàn thiện) nên dẫn đến
các em còn nói ngọng. Do đó tôi kết hợp cùng với phụ huynh sửa cách phát âm cho
các em bằng cách gọi học sinh trả lời nhiều, mỗi lần trả lời tôi yêu cầu các em nhắc lại
nhiều lần và phát âm theo cô. Trường hợp học sinh nói chưa lưu loát, khi trả lời biết
nhưng diễn đạt khó, không thoát được ý, không trôi chảy. Tôi thường xuyên gọi các
em trả lời và tập nói nhanh. Cho HS nói tốt làm mẫu các em nói theo. Khen động viên
mỗi khi các em có sự tiến bộ.
+ Nhóm 3: Đây là nhóm HS tôi quan tâm nhiều nhất. Bởi nhóm này còn nhiều
em rụt rè, cô hỏi không trả lời, có những em bố mẹ đưa đến lớp còn khóc, khi bố
mẹ về còn chạy theo khóc đòi về. Phụ huynh rất là lo lắng, không an tâm về con,
mua quà để dỗ con, đứng ngoài lớp ngóng con, có khi phải đứng ngoài cổng
trường chờ hết buổi học để đón con. Nhóm HS này thường là các em ngại giao
tiếp. Chính vì vậy tôi đã tìm hiểu nguyên nhân, kết hợp với gia đình để rèn các em

thể hiện nói được tự tin, mạnh dạn. Nếu không dám nói do các em sợ, nhút nhát
thì tôi thường động viên, khen các em trước tạo không khí thoải mái để các em
dám nói. Nếu không dám nói do không hiểu vấn đề thì tôi thường gợi ý câu trả lời
dễ hiểu nhất hoặc gọi HS trả lời tốt nói trước làm mẫu, sau đó các em nhắc lại.
Động viên khuyến khích để HS nói to, mạnh dạn, tự nhiên.
+ Nhóm 4: Với đối tượng HS này, trong dạy học cũng như trong giao tiếp. Tôi
thường xuyên gọi HS trả lời và sửa trực tiếp cho các em. Tuyên dương HS khi có
tiến bộ.
VD: Ở nhà em thường chơi trò chơi gì? HS thường trả lời luôn là trò chơi
lắp ghép,nhảy dây, đá cầu … Gv sửa ngay cho HS Khi nói con cần trả lời đầy đủ
câu ( Ở nhà con thường chơi trò chơi lắp ghép,nhảy dây…)
Ngoài ra, với học sinh nhóm 2, 3, 4 tôi đánh giá các em theo hướng động
viên, khuyến khích. Còn nhóm 1 tôi đánh giá theo sự sáng tạo.
Bên cạnh đó tôi chú ý luyện kĩ năng nghe cho HS cả lớp bằng cách cho
học sinh cả lớp theo dõi, lắng nghe bạn nói (trả lời) để nhận xét và vỗ tay tuyên
dương khi bạn trả lời đúng, nói đủ câu, nói to đủ nghe, nói lưu loát,...
Thực hiện biện pháp này tôi thấy phát huy được tất cả các đối tượng HS
mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp cũng như trong học tập. Đó là cơ sở để các em
có ý thức rèn kĩ năng nói tốt.
Giải pháp 2: Xây dựng nội dung, chương trình dạy – học rèn kĩ năng
sống cho học sinh mới vào lớp Một nhằm phát triển kĩ năng nói cho các em.
Trẻ vào lớp Một là bước ngoặt đầu đời của các em. Chuẩn bị tâm lí cho
các em là vô cùng quan trọng. Nếu trẻ không có tâm lí tốt thì sẽ ảnh hưởng về
quá trình học tập sau này.
Mặt khác, như đã nêu trong phần thực trạng. Trường tôi dạy là một trường
thuộc vùng nông thôn (gần 90%), các em hạn chế về giao tiếp, bất đồng về ngôn
ngữ, chưa được làm quen nhiều với Tiếng Việt, HS đến trường giao tiếp bằng
tiếng địa phương là chủ yếu.
Với mục đích để giúp các em tự tin, vững vàng làm quen Tiếng Việt, với
môi trường mới (môi trường học tập), hòa nhập, giao tiếp tốt khi vào lớp Một.

6


Sau tuyển sinh lớp Một, theo hướng dẫn của Bộ giáo dục và Đào tạo, sự chỉ
đạo của chuyên môn nhà trường, sự đồng thuận của phụ huynh. Tôi cùng với giáo
viên trong khối xây dựng và thống nhất nội dung, chương trình “Hành trang cho
trẻ chuẩn bị vào lớp Một”. Nội dung đã được soạn và dạy trong 2 tuần.
 Trích nội dung, chương trình “Hành trang cho trẻ vào lớp Một”
NỘI DUNG, CHƯƠNG TRÌNH HÀNH TRANG CHO TRẺ VÀO LỚP 1
HÈ 2018 – 2019
Tuần
Tuần 1

Tuần 2

Thứ
Thứ 2
Thứ 3
Thứ 4
Thứ 6

Ngày
22/8
23/8
24/8
26/8

Tên bài dạy rèn kĩ năng sống cho HS
Kĩ năng giới thiệu, làm quen với trường học.
Kĩ năng chào hỏi, giới thiệu bản thân

Kĩ năng ngồi học đúng tư thế. Kĩ năng giữ trật tự trong lớp học.
Kĩ năng nói lời cảm ơn. Kĩ năng nói lời xin lỗi

Thứ 2

29/8

KN tự phục vụ (biết tự mặc quần áo, tự chải tóc, tự đi giày dép, tự đi vệ
sinh)

Thứ 3

30/8

Thứ 4

1/9

Thứ 6

3/9

Phép tắc trong việc xin – cho. Kĩ năng lịch sự trong ăn uống.
Kĩ năng lịch sự trong giao tiếp (trong gia đình).trong nhà trường,
ngoài xã hội
Kĩ năng tự phục vụ - Kĩ năng ứng xử khi bị lạc

 Thảo luận về quy trình dạy một hoạt động rèn kĩ năng sống cho học sinh.
Sau khi đã thống nhất được nội dung, chương trình. Chuyên môn cùng với
giáo viên khối Một chúng tôi đã thảo luận xây dựng quy trình dạy – học rèn các

kĩ năng sống cho học sinh với hình thức “Vừa vui- Vừa học” là chính để các em
làm quen dần với môi trường học tập, tạo cho các em niềm tin trong cuộc sống.
Chính vì vậy, quy trình dạy học không cứng nhắc, chúng tôi đã vận dụng linh
hoạt, sáng tạo để phù hợp với HS.
Ví dụ:
+ Bước 1: Tổ chức cho HS xem video hoặc kể chuyện có nội dung về kĩ năng
cần học.
+ Bước 2: Tổ chức thảo luận về nội dung kĩ năng cần học
+ Bước 3: Tổ chức, hướng dẫn tìm hiểu và rút bài học từ các kĩ năng
+ Bước 4: Hướng dẫn cách thực hiện các kĩ năng
+ Bước 5: Tổ chức cho học sinh thực hành các kĩ năng
+ Bước 6: Tổng kết – đánh giá.
Để rèn các kĩ năng được hiệu quả, tôi đã sưu tầm những câu chuyện mang
tính giáo dục từ chương trình “Quà tặng cuộc sống” trên truyền hình VTV3,
những câu chuyện sinh hoạt thực tế hàng ngày của các em, tổ chức cho các em
xem video. Sau đó tổ chức cho các em tìm hiểu rút ra bài học, liên hệ bản thân,
thực hành các kĩ năng. Mỗi lần học sinh nói tôi thường chú ý sửa cách nói cho
các em (nếu nói chưa đúng với nội dung câu chuyện và nói chưa đủ ý).
Một số kĩ năng tự phục vụ, tôi thường tổ chức cho các em thực hành ngay
tại lớp, tại trường. Sau đó tôi yêu cầu học sinh nêu lại các bước làm và vận dụng
tốt các kĩ năng cho bản thân.

7


Với giải pháp này tôi thường cho nhiều học sinh được thực hành, nhiều
học sinh được nói, lưu ý đến những em còn nhút nhát, động viên các em để các
em tham gia các hoạt động được tự nhiên.
Minh họa một hoạt động khi dạy – học rèn các kĩ năng sống cho học sinh.
KĨ NĂNG LỊCH SỰ TRONG GIAO TIẾP (KHI Ở TRƯỜNG)

Bước 1: Cho HS xem video clip về lễ phép khi ở trường. (Trích từ “Quà tặng cuộc sống”)
Bước 2: Tổ chức cho học sinh tìm hiểu về nội dung video lễ phép khi ở trường.
- Đưa ra các câu hỏi gợi ý.
? Trong câu chuyện, Hoa và An đi trong sân trường đã gặp ai? (Hoa và An đi
trong sân trường đã gặp thầy Hiệu trưởng).
? Khi gặp thầy, bạn An đã làm gì? (Khi gặp thầy, bạn đứng lại khoanh tay chào thầy)
? Thầy đã nói gì với bạn? (Thầy khen bạn ngoan).
? Bạn An đã nói gì với Hoa? (Khi gặp thầy cô giáo phải đứng lại lễ phép chào thầy cô).
? Khi vào lớp, cô giáo bước vào lớp, cả lớp đã làm gì? (Cả lớp đứng dậy chào cô giáo).
? Các bạn ngồi học như thế nào? (Các bạn ngồi học nghiêm túc, đúng tư thế).
? Khi cô giáo ra về cả lớp làm gì? (Cả lớp đứng dậy chào cô).
- Mỗi lần HS trả lời, tôi lưu ý sửa sai cho HS (nội dung, diễn đạt câu), Hướng
dẫn học sinh trả lời đủ câu, nói to, rõ ràng.
Bước 3: Tổ chức cho HS rút ra bài học.
- Cho HS thảo luận nhóm đôi.
? Để luôn là em bé ngoan, lịch sự, lễ phép khi ở trường con cần phải làm gì?
- Theo dõi hướng dẫn HS thảo luận trong nhóm. GV đi đến từng nhóm giúp đỡ
những em nói nhỏ, nhút nhát hoạt động tích cực hơn.
- Các nhóm trình bày trước lớp.
- HS theo dõi nhận xét, tuyên dương các bạn
+ T chốt và tuyên dương những học sinh trả lời tốt, sửa chữa, uốn nắn cho
những em còn nói nhỏ, nói chưa đúng, chưa đủ câu.
Bước 4: Liên hệ.
- Gợi ý:
? Khi đi trên sân trường hoặc ngoài đường, gặp thầy cô giáo con làm gì?
? Khi ngồi học con ngồi như thế nào?
- Kết luận: Khi gặp thầy cô giáo phải đứng lại lễ phép chào, thầy cô bước vào
lớp phải lễ phép chào, trong giờ học phải ngồi đúng tư thế, không chụm đầu nói
chuyện, đang đi nhanh nếu gặp thầy cô phải đi chậm lại và chào hỏi.
Bước 5: Tổ chức cho HS thực hành nói lời chào thầy cô.

TH1: Khi gặp thầy cô trên sân trường.
TH2: Khi thầy cô vào lớp học và khi tan học.
- HD cho HS thực hành chào thầy cô giáo trong nhóm.
- HS thực hành theo nhóm đôi, nhóm ba.
- Nói trước lớp (CN).
- Chỉnh sửa cách nói cho học sinh.
Bước 6: Tổng kết – đánh giá.
8


- Nhận xét, tuyên dương HS nói tốt, diễn đạt đầy đủ ý, nhắc nhở, động viên HS nói chưa tốt.
 Thảo luận về phương pháp dạy- học rèn kĩ năng sống cho học sinh
Khi tổ chức, hướng dẫn rèn các kĩ năng sống cho học sinh tôi đã vận dụng
linh hoạt các phương pháp: Trực quan, quan sát, luyện tập thực hành - vận dụng.
+ Với cách tổ chức như trên chỉ trong 2 tuần học làm quen với môi trường
học tập, với chương trình“Hành trang cho trẻ chuẩn bị vào lớp Một”, với các kĩ
năng sống đã giúp cho các em được luyện tập nhiều các kĩ năng, tự tin, mạnh
dạn, trò chuyện, làm quen, gần gũi với bạn bè, không còn cảm giác sợ sệt và đặc
biệt là các em thích được đến trường. Với những em nhút nhát, cô gọi không trả
lời, mới tiếp xúc lần đầu cứ nghĩ các em bị bệnh tự kỉ nhưng nay các em có
nhiều tiến bộ, hòa nhập với các bạn nhanh, mạnh dạn, đứng lên nói to, rõ ràng.
Giải pháp 3. Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy – học cho mỗi bài luyện nói, kể
chuyên trong môn Tiếng Việt nhằm phát triển ngôn ngữ nói của học sinh.
Đồ dùng dạy học là phương tiện không thể thiếu trong tất cả các môn học,
nhất là ở Tiểu học hình thành kiến thức cho học sinh bằng đồ dùng trực quan các
em sẽ rấtthích, nhanh hiểu bài và ghi nhớ lâu. Đồ dùng trực quan sinh động sẽ
giúp học sinh phát triển về ngôn ngữ, mở rộng về vốn từ, diễn đạt câu đủ ý, câu
nói giàu hình ảnh.
Ở phần luyện nói trong môn Tiếng Việt nếu chỉ dựa vào tranh, ảnh trong
sách giáo khoa thì chưa đủ để HS khai thác nội dung và bài nói của học sinh sẽ rất

đơn điệu về ngôn ngữ. Vì một số tranh ảnh trong SGK chỉ là tranh vẽ, không rõ
nét, sơ sài, nghèo nàn về hình ảnh, hình nhỏ khó quan sát, màu sắc lại không
đẹp. Bởi vậy, ngoài tranh ảnh có trong SGK. Tôi còn tự mình thiết kế và sưu tầm
trên mạng những tranh ảnh đẹp, sinh động thay cho các tranh ảnh chưa rõ nét
trong sách để phục vụ cho việc rèn kĩ năng nói cho học sinh.(Trình chiếu Power
Point cho học sinh xe
Ví dụ:  Một số tranh ảnh trong SGK chưa rõ nét.

Chủ đề: Ai chịu khó

Chủ đề: Tàu hỏa, tàu thủy, ô tô, máy bay

Chủ đề: Rừng, thung lũng, suối, đèo
9


Gọi tên các loài hoa

 Các tranh ảnh do tôi sưu tầm với hình ảnh rõ nét, màu sắc đẹp, dễ quan
sát

Chủ đề: Ai chịu khó

Chủ đề: Các loài hoa
loài hoa cả

Chủ đề: Tàu hỏa, tàu thủy, ô tô, máy bay

Chủ đề: Rừng, thung lũng, suối, đèo


Với sự hỗ trợ của máy chiếu được lắp đặt tại các phòng học nhà trường còn
mắc mạng Wifi phủ sóng cả trường, cùng với sự tiện lợi của máy tính xách tay và
thông dụng là điện thoại cá nhân. Tất cả những phương tiện sẵn có này rất thuận lợi
cho tôi áp dụng đổi mới phương dạy - học. Tôi đã chụp lại bằng điện thoại những
tranh ảnh sinh động, sắc nét, màu sắc đẹp, đa dạng, phù hợp với lứa tuổi học sinh.
Thông qua đó giúp tôi có những bài dạy phong phú, hấp dẫn, đồng thời giúp HS
mở rộng vốn từ, bài nói giàu hình ảnh, hấp dẫn.
Ví dụ : Phần luyện nói: Hỏi - đáp về các loài cây (TV lớp 1- Tập 2 – trang 122)
Tôi thấy tranh trong SGK của bài này là tranh vẽ rất mờ, khó quan sát, màu
sắc lại không đẹp, mà vẽ toàn cây ăn quả. Do đó không khơi gợi được trí tưởng
tượng của các em. Trường tôi dạy thuộc vùng nông thôn, có nhiều loại cây nên rất
thuận cho tôi chụp lại phong phú các loại cây (cây ăn quả, cây cho bóng mát, cây
hoa, cây lấy gỗ, cây cảnh).

10


Hình ảnh SGK

Ảnh do tôi tự chụp

Với bài này tôi tổ chức cho các em luyện nói theo hình thức trò chơi với tên
gọi: “ Tôi tên là gì?”. Ở mỗi lần chơi tôi chú ý sửa cách nói cho các em.
+ Cách chơi: Chia lớp thành các nhóm đôi, các em thảo luận trong nhóm hỏi –
đáp về tên cây, đặc điểm, hình dáng, ích lợi của cây (có trong ảnh chụp) hoặc cây không
có trong ảnh. Sau đó chơi hỏi – đáp trước lớp, GV là người xuất hiện cây, từng đôi nhìn
cây để hỏi - đáp
Ví dụ1: Cây mít
+HS1: Trên mình tôi có rất nhiều quả. Quả của tôi chi chít là gai, bổ ra
thơm lừng cả nhà.

+HS2: Tên bạn là cây mít,...
Ví dụ 2: Cây hoa hồng
+ HS1: Người tôi có rất nhiều gai. Hoa của tôi có màu đỏ rất đẹp.
+ HS2: Bạn là cây hoa hồng.
Mặt khác để giúp các em có được hình ảnh thật, dễ ràng trong khi nói tôi đã
chuẩn bị các vật thật như áo choàng, áo len, áo sơ mi,. rổ, rá, sách, vở, lá cờ..Với các
vật thật này tôi cho các em quan sát trực tiếp được sờ, cầm vào vật thật. Sau đó tổ
chức cho các em nói theo từng chủ đề về tên gọi, đặc điểm, chất liệu, tác dụng của
từng vật.
+ Với đồ dùng, tranh, ảnh tự làm, sưu tầm không mất nhiều tiền mà sử dụng
lại tiện lợi, mang lại hiệu quả cao..
Giải pháp 4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học tích cực trong dạy học môn Tiếng Việt lớp Một
Một tiết dạy thành công được đánh giá từ kết quả học tập tích cực của học
sinh. Để giúp học sinh học tập tốt trong mỗi tiết học, đòi hỏi người giáo viên phải có
sự nghiên cứu, sáng tạo, linh hoạt vận dụng các hình thức dạy học. Làm sao để kiến
thức bài dạy đến với các em một cách nhẹ nhàng, hiệu quả nhất.
Nắm được nguyên tắc đó tôi đã linh hoạt tổ chức cho HS lớp tôi luyện nói
dưới nhiều hình thức:
 Hình thức luyện nói cá nhân, nhóm, lớp.
Trong một tiết học tôi thường xuyên thay đổi các hình thức dạy học, tổ
chức cho học sinh học tập dưới hình thức hoạt động cá nhân, nhóm, lớp để các
thành viên trong tổ, nhóm có dịp thể hiện năng lực cá nhân trước bạn bè, thầy cô.
Ví dụ: Chủ đề “Mai sau khôn lớn” – Phần luyện nói của bài 46: ôn - ơn.
11


Với bài này tôi vận dụng và thực hiện các hình thức sau:
HĐ1: Quan sát tranh (CN).
- Nhiều cá nhân nêu (Tranh vẽ em bé đang mơ ước trở thành chiến sĩ biên

phòng)
HĐ2: Nói về mơ ước của mình (Nhóm 4).
- Nói cho nhau nghe về ước mơ của mình.
HĐ 3: Trình bày kết quả (CN, Nhóm 2).
Khi trình bày tôi hướng dẫn các em trình bày theo CN hoặc hỏi - đáp theo cặp
về ước mơ của mình và vì sao lại chọn nghề đó.
HĐ 4: Liên hệ (CN).
? Muốn thành người như mơ ước con phải làm gì?
Thay đổi hình thức nói với mục đích để tất cả các em được tự tin thể hiện ý
kiến trước đám đông. Với phương pháp này tôi không gọi một em mà luôn thay
đổi được nhiều em trình bày, từ đó phát huy khả năng giao tiếp của các em.
*Tổ chức thi đố vui trong giờ học Tiếng Việt
Đố vui cũng là một hình thức học tập mà HS rất hào hứng tham gia. Trong
giờ học Tiếng Việt, ngoài việc tổ chức theo hình thức cá nhân, nhóm, tôi còn tổ
chức cho các em thi đố vui, giúp các em thay đổi không khí học tập, nói to đủ câu.
Để giới thiệu một số âm, vần thay cho việc yêu cầu HS quan sát tranh, tạo
hứng thú trong học tập cho các em. Tôi có sưu tầm một số câu đố vui để giới
thiệu, dẫn HS vào bài học một cách nhẹ nhàng:
Ví dụ: Đố con là chữ gì?
- O tròn như quả trứng gà
- Đội thêm chiếc mũ thì ra chữ gì?
(Là chữ ô- Dạy bài .......o- ô)
Đố các con đây là con gì?
- Mắt màu hồng, thích rau xanh
Đôi tai dài thượt, chẳng nhanh hơn Rùa.
(Là con Thỏ - Dạy bài 15: t, th, tổ, thỏ)
- Con gì mới kì lạ thay
Dán vào thư được chuyển ngay tức thì ?
( Là con tem –dạy bài em-êm)
- Con gì đôi cánh mỏng tang

Bay cao ,bay thấp báo rằng trời mưa ?
( Là con chuồn chuồn – dạy bài uôn – ươn)
Với hình thức này, tôi thấy học sinh lớp tôi rất hào hứng học tập không
những khắc sâu được kiến thức mà còn giúp cho các em có phản ứng nhanh.
 Tổ chức trò chơi trong giờ luyện nói trong môn Tiếng Việt
HS lớp Một vừa học vừa chơi là biện pháp tốt nhất giúp các em nhanh nhớ bài
và khắc sâu được kiến thức. Chính vì thế, tôi đã thiết kế các trò chơi và đưa các “Trò
chơi” vào các tiết học trong phần luyện nói của môn Tiếng Việt. Chơi nhẹ nhàng, hỗ
trợ cho nội dung bài học khi thấy cần thiết và phù hợp. Nhằm tạo không khí vui vẻ,

12


hứng thú trong giờ học, giúp các em mạnh dạn, tự tin, tích cực
tham gia trong quá trình luyện nói.
Ví dụ:
* Trò chơi 1: Thi tìm từ về các loại quả, hoa, con vật
Trò chơi áp dụng cho phần luyện nói của bài: Bài 35: uôi ươi; Bài 42: ưu - ươu; Bài tập luyện nói: Gọi tên các loài hoa
trong ảnh (TV lớp 1-Tập 2 -T 65).
+ Mục đích: Mở rộng vốn từ, nói được nhiều tên về hoa,
quả, con vật.
và giúp các em có phản ứng nhanh.
+ Cách chơi: Chia lớp thành 3 đội, trong vòng 1 phút đội
nào nói được nhiều tên quả (hoa, con vật) và nêu được màu sắc
của quả (hoa, ích lợi của con vật) chính xác thì đội đó thắng
cuộc.
*Trò chơi 2: Trò chơi thi “Nói về các con vật”
Trò chơi này áp dụng cho phần luyện nói của bài 42: ưu –
ươu, Phần luyện nói: Nói về những con vật em yêu thích (TV lớp
1- Tập 2 – trang 95).

+ Mục đích: Nói được nhiều câu về đặc điểm, hình dáng,
ích lợi của con vật, nói đủ câu, diễn đạt mạch lạc.
+ Cách chơi: Chia lớp thành 3 tổ, các tổ thảo luận nói về các
con vật (đặc điểm, hình dáng, ích lợi, chăm sóc bảo vệ). Sau đó
lần lượt từng tổ chơi, nói nối tiếp mỗi em một câu. Nhóm nào nói
được nhiều câu và câu đầy đủ, có nghĩa thì nhóm đó thắng cuộc.
* Trò chơi 3: Trò chơi “Thi nói câu về các loại quả”
Trò chơi này áp dụng cho phần luyện nói của bài 35: uôi –
ươi.
+ Mục đích: Nói được nhiều câu về đặc điểm, màu sắc, hương vị, ích lợi
của từng loại quả.
+ Chuẩn bị: Ảnh về các loại quả, các ảnh nhỏ để làm phần thưởng cho các
em.
+ Cách chơi: Chơi cả lớp. Giáo viên là người xuất hiện từng loại quả, gọi
đến HS nào thì HS đó phải nói ngay được câu về loại quả đó (đặc điểm, màu sắc,
hương vị, ích lợi của từng loại quả). HS nói đúng sẽ được thưởng 1 bức tranh nhỏ
về loại quả mà mình vừa nói và có quyền chỉ định bạn nói tranh tiếp theo, HS nói
chưa đúng sẽ bị phạt bằng một bài hát, hoặc đọc thuộc 1 câu thơ (hoặc một đoạn
thơ) trong chương trình học.
Qua trò chơi giúp học sinh tìm được nhiều từ, nói được nhiều câu có nghĩa và
giàu hình ảnh, tạo phản ứng nhanh nhạy và khả năng diễn đạt trước đông người.
 Tổ chức cho học sinh sắm vai trong tiết kể chuyện
Để phong phú, tạo hứng thú trong tiết học, tôi còn tổ chức cho học sinh kể lại
câu chuyện với hình thức “sắm vai” các nhân vật có trong truyện. Hình thức này có
thể áp dụng cho tất các tiết kể chuyện mà nội dung câu chuyện có nhân vật. Song để
13


không lạm dụng và nhàm chán thì giáo viên phải tổ chức linh hoạt không nhất thiết tiết
nào cũng sắm vai.

Ví dụ: Câu chuyện Hổ
+ Chuẩn bị: Mặt nạ Hổ và Mèo
+ Hướng dẫn dựng cảnh: Một bạn đóng vai Hổ, một bạn
đóng vai Mèo, một bạn đóng vai người dẫn chuyện.
+ Kể lại câu chuyên:
- Người dẫn chuyện: Ngày xưa Mèo là một ông thầy dạy võ rất cao siêu.
Hổ to xác mà không biết miếng võ nào. Một hôm Hổ lân la đến gặp thầy mèo để
xin học võ.
- Hổ: Thầy Mèo ơi thầy hãy dạy tôi học võ với.
- Người dẫn chuyện: Nghe Hổ nói vậy, Thầy Mèo trả lời:
- Mèo: Được ta sẽ dạy võ cho ngươi nhưng ngươi phải đi học chuyên cần đấy.
- Người dẫn chuyện: Thế là hằng ngày Hổ đến lớp học rất chuyên cần.
Thầy Mèo cũng dạy Hổ rất nhiệt tình. Một hôm Hổ nghĩ mình đã học hết võ
thuật của mèo,bèn trốn trong bụi rậm ,chờ thầy mèo đi qua để vồ lấy ăn thịt.
Thầy mèo vốn nhanh nhẹn liền nhảy phốc lên cành cây cao. Hổ đứng dưới gầm
gừ không làm sao được. Lúc này nó mới nghĩ.
Hổ: À thì ra còn miếng võ trèo mình chưa học hết.
- Người dẫn chuyện: Thầy Mèo đứng trên cây cao và nói vọng xuống.
Mèo: Meo meo meo
Còn miếng võ trèo
Ta không dạy cho.
Người dẫn chuyện: Hổ nghe thấy thế thẹn quá cúp đuôi chạy một mạch
vào rừng. Từ đó trở đi Hổ không bao giờ giám gặp Mèo nữa.
Sau khi sắm vai kể lại câu chuyện, để các em không vì cuốn hút vào câu
chuyện mà quên ý nghĩa, bài học rút ra từ câu chuyện, tôi đã tổ chức cho các em
tìm hiểu ý nghĩa câu chuyện.
Thông qua trò chơi sắm vai, đã giúp các em hứng khởi trong giờ
học, các em cuốn hút vào câu chuyện nên nhập vai cũng rất tự
nhiên, mạnh dạn, khắc sâu được bài học.
Giải pháp 5. Hình thành cho các em ý thức, thói quen nói mạch lạc, đủ ý qua

biện pháp sửa sai triệt để ở tất cả các môn học và các hoạt động giáo dục
Để giúp các em có ý thức rèn kĩ năng nói, hình thành thói quen tốt. Trong tất
cả các môn học và các hoạt động giáo dục khác, tôi luôn chú ý đến sửa sai triệt để
cho học sinh.
Ví dụ: * Trong các môn học.
- Môn Tiếng Việt.
Khi dạy hoạt động luyện nói theo chủ đề “bê, nghé, bé” ở bài 25: u – ư,
Câu hỏi: Bê và nghé dều thích ăn gì? HS trả lời.
+ HS1: - Ăn cỏ
+ HS2: - Bê và nghé đều ăn cỏ.
+ SH3: - Bê và nghé đều thích ăn cỏ,...
14


Tôi cho HS nhận xét rút ra: HS1 nói chưa đủ câu, HS2 và HS3 nói đủ câu,
HS3 nói câu có sáng tạo. Khen HS2 và HS3. Sau đó cho HS1 nói lại cho đủ câu,
tuyên dương HS khi HS nói lại đúng, đủ câu.
Để các em nhận xét đúng được cách nói của bạn, tôi còn rèn cho cả lớp kĩ
năng nghe chính xác, tôi đưa ra các tiêu chí: Khi bạn nói cả lớp phải theo dõi bạn,
phát hiện bạn nói đúng hay sai, nói đủ câu chưa, nói mạch lạc hay còn ngắc ngứ.
Nếu trường hợp HS đứng lên nói chưa lưu loát thì tôi và những HS nói tốt
sẽ nói mẫu – HS đó nói theo nhiều lần.
Trong sửa sai tôi luôn luôn có thái độ mềm mỏng, nhẹ nhàng với học sinh, tạo
cho không khí lớp học vui vẻ để các em nói tự nhiên và bộc lộ hết khả năng của mình.
Nếu không may các em trả lời sai. Trong trường hợp này nếu trê các em hoặc
để các em thấy xấu hổ vì mình trả lời sai thì lần sau các em sẽ không dám phát biểu
nữa, vô tình đã tạo cho các em tính tự ti. Cho nên tôi đã sửa sai như sau:
- Cả lớp đừng vội cười bạn nhé, là do bạn chưa quan sát kĩ tranh nên mới
nhầm lẫn thôi. Bây giờ con hãy quan sát lại tranh và trả lời cho cô.
Sau khi học sinh quan sát tranh và trả lời lại đúng rồi, tôi tuyên dương học sinh:

- Tốt lắm con rất cố gắng, không phải là con không biết mà do chưa quan
sát kĩ tranh, lần sau con chú quan sát thật kĩ tranh nhé!
* Trong tổ chức, hướng dẫn HS làm bài.
Ví dụ: Giáo viên hỏi:
- Các con đã làm bài tập chưa?
- Làm rồi. - HS đáp.
Tôi hướng dẫn các em sửa sai như sau:
- Các con chú ý lắng nghe câu hỏi của cô để trả lời đủ câu nhé!
- Thưa cô, con đã làm bài tập rồi ạ!
HS nói xong tôi giải thích để các em hiểu: “Trả lời đủ câu thì người nghe
sẽ thấy dễ hiểu và đó cũng chính là thể hiện thái độ tôn trọng người hỏi.
* Trong giao tiếp với bạn bè.
Các em xưng hô với bạn: “mày, tao,...” hay nói câu rút gọn, đôi khi còn thô lỗ,
cộc cằn với bạn mà không hề biết cách nói của mình không hay, thiếu tế nhị.
Tôi đã sửa cho các em cách xưng hô đúng mực: “Gọi bạn xưng mình.”
Giải thích cho các em hiểu: “Khi các em xưng hô không đúng, nói cộc cằn với
bạn là các con chưa tôn trọng mình và chưa tôn trọng bạn, sẽ làm mất đoàn kết
bàn bè.” Sau đó hướng dẫn các em xưng hô đúng mực và cách nói lời hay ý đẹp. Đó
mới là học sinh ngoan.
Với biện pháp này tôi cho các em theo dõi, sửa cách nói cho nhau. Nhiều
em đã điều chỉnh rất tốt.
* Khi giao tiếp với với người lớn.
Trong giao tiếp đôi khi các em chưa ý thức được lời nói của mình nên các
em nói chuyện còn thiếu lễ phép, cộc lốc như trong trường hợp sau:
Có một phụ huynh vào tìm lớp học của con và hỏi đúng vào em Hùng lớp tôi:
- Lớp 1B học phòng nào vậy con?
Lập tức em đó trả lời: - Bên kia.
15



Gặp trường hợp này tôi sửa như sau: “Con trả lời câu hỏi của bác chưa đủ
ý nhé. Con hãy trả lời lại cho bác nghe nào!”
- Dạ thưa bác, lớp 1B cùng dãy với lớp con, phòng thứ hai ấy ạ!
* Trong lớp có các em: Linh, Nhi, Thục Chi, Phong. Các em này khi được
gọi trả lời hoặc phát biểu ý kiến thường các em đứng im hoặc trả lời cộc lốc hoặc nói
lí nhí trong miệng. Trường hợp này tôi thường tập cho các em phải trả lời nhanh, sửa
cho các em cách nói đủ câu, nói hay, diễn đạt mạch lạc, đứng lên phát biếu là phải
nói ngay không ấp úng và cho HS nhắc lại câu nói đúng nhiều lần.
Với những HS nói đủ ý, mạch lạc, diễn đạt tốt thì tôi khuyến khích các em
duy trì và sáng tạo trong mọi tình huống.
Những học sinh mới nói đủ câu chưa có sáng tạo hoặc nói theo câu của
bạn nói trước. Với những học sinh này tôi đã động viên, gợi ý các câu hỏi khác
cho các em nói câu khác bạn để bài nói được mở rộng, sâu sắc và sinh động hơn
nhưng không thay đổi về nội dung.
Đối với những HS thiếu tự tin, rụt rè, ít nói, không dám nói thì tôi chia nhỏ
câu hỏi và hỏi nhiều lần, động viên, ghi nhận những đóng góp dù nhỏ của các em
Với những học sinh diễn đạt ngôn ngữ còn chưa logic thì sau mỗi lần nói,
tôi hướng dẫn các em sắp xếp thứ tự những điều cần nói có trước có sau và nói
lại thật phù hợp với yêu cầu đặt ra.
Qua thời gian rèn luyện tôi thấy các em hiểu biết, nói đủ câu, nói dễ nghe
hơn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc.
Giải pháp 6. Dạy luyện nói tích hợp thông qua các môn học và hoạt động
giáo dục khác.
Hoạt động nói của con người đã được hình thành từ khi con người bắt đầu
tập nói và phát triển ngôn ngữ theo sự lớn lên của cơ thể. Học sinh lớp Một như
đã phân tích ở phần mở đầu, các em yếu về kĩ năng nói, chủ yếu nói bắt chước
theo người lớn, vốn từ ít, nói chưa đủ câu, ngôn ngữ diễn đạt chưa logic.
Như vậy luyện nói có vai trò quan trọng và diễn ra không chỉ riêng môn
Tiếng Việt mà ở tất cả các môn học, các hoạt động giáo dục khác. Đó cũng là
môi trường rất tốt để các em rèn kĩ năng nói. Cho nên trong bất kì một tiết học

nào, tôi đều có thể tổ chức cho học sinh luyện nói bằng cách cho học sinh phát
biểu xây dựng bài hay trao đổi sôi nổi khi tham gia thảo luận nhóm,...
Đối với HS lớp Một việc ghi nhớ của các em chưa bền vững, dễ nhớ
nhưng cũng rất mau quên nên ngoài việc luyện nói trong giờ Tiếng Việt, tôi vẫn
thường duy trì việc uốn nắn cho các em có được kĩ năng nói thành câu, trôi chảy
ở tất cả các môn học. Khi nói thành câu, đủ ý người nghe sẽ hiểu được nội dung
một cách chọn vẹn, giữ được ý nghĩa của bài học.
+ Môn Toán: Ví dụ: Bài: Số 8. (Toán lớp 1- Trang )
Trong hoạt động tổ chức cho các em phân tích đề bài có câu hỏi:
- Có 7 bạn đang chơi thêm 1 bạn chạy tới. Hỏi có tất cả mấy bạn?
HS chỉ trả lời là “Tám bạn” hoặc “tám”. Câu trả lời của HS chưa đủ ý, tôi
đã yêu cầu học sinh sửa lại nói đủ câu như sau:
- Có 7 bạn đang chơi thêm 1 bạn chạy tới. tới. Có tất cả là 8 bạn.
16


Cho một số HS nhắc lại câu nói đầy đủ. Trong tình huống này trả lời đủ
câu chính là giúp các em viết được câu lời giải đúng, đầy đủ.
+ Môn Tự nhiên và xã hội. Ví dụ Bài 11: Gia đình (TNXH lớp 1- Trang 24)
Tôi đã gợi ý cho học sinh thảo luận bằng một số câu hỏi:
- Gia đình Lan có những ai?
- Mọi người trong gia đình Lan đang làm gì?
Khi học sinh trình bày, tôi chú ý gọi nhiều học sinh trả lời.
Tôi cho lớp nhận xét (gọi những học sinh ít phát biểu), tuyên dương học
sinh có cách nói hay đầy đủ ý.
Trong trường hợp này HS nói đủ câu và trình bày được các câu liên hoàn.
Đó là cơ sở tạo đà cho các em phát triển thành một bài văn giới thiệu về gia đình
(trong tiết Tập làm văn sau này).
+Trong các buổi sinh hoạt Sao hàng tuần, tôi cũng hướng dẫn các em phụ
trách Sao khi sinh hoạt giao tiếp với các em, anh chị phải nói đủ câu, rõ lời, diễn

đạt được nội dung cần giao tiếp được lưu loát để các em học hỏi.
Ví dụ: - Anh (chị) chào các em!
- Chúng em chào anh (chị) ạ!
- Anh (chị sẽ hướng dẫn các em chơi trò chơi mới, các em có thích không nào?
- Thưa anh (chị) các em thích ạ!
+ Sinh hoạt đầu tuần, cuối tuần ngoài việc trao đổi với nhau về vấn đề học
tập, tôi cũng dành ít thời gian gần gũi, trò chuyện với các em luôn luôn để ý
cách nói của học sinh và sửa, uốn nắn kịp thời cho học sinh .
+ Hoạt động ngoại khoá là một trong những hoạt động các em rất yêu
thích nên các em nhanh nhớ và nhớ rất lâu. Khi nhà trường tổ các trò chơi dân
gian, các cuộc thi tập thể,... các em có thể vì tranh thắng thua mà có cách cư xử
không tế nhị, lời nói không hay với bạn. Lúc này tôi thường phân tích và chỉ ra
những câu nói hay, cách xưng hô đúng mực với bạn bè và hướng dẫn các em thể
hiện hết khả năng của mình trước tập thể . Đồng thời ghi nhận và tuyên dương
sự tiến bộ để các em cảm thấy tự tin, mạnh dạn hơn.
Thực hiện biện pháp này tôi thấy các em có kĩ năng, thói quen nói đúng,
nói đủ câu, nói câu giàu hình ảnh trong tất cả các môn học. Giúp các em thể hiện
lịch sự trong giao tiếp, đoàn kết trong mọi hoạt động.
Giải pháp 7: Giáo viên là tấm gương, chuẩn mực trong giao tiếp để học sinh
noi theo.
Trong mắt học sinh lớp Một, cô giáo như một thần tượng, các em rất đề cao
cô giáo. Tất cả những gì từ cô đều được các em để ý và bắt chước. Vì thế sự mẫu
mực của GV là vô cùng quan trọng với HS
Chính vì vậy để giúp các em thể hiện lịch sự trong giao tiếp, nói năng
đúng mực. Tôi thiết nghĩ giáo viên phải là tấm gương mẫu mực trong giao tiếp
(lời ăn tiếng nói, hành động, cử chỉ, điệu bộ, trang phục).
 Mẫu mực trong lời ăn tiếng nói.
* Giọng nói của giáo viên thực sự rất quan trọng với HS. Nói để HS dễ
hiếu và gây sự chú ý với các em thì không phải thầy cô nào sinh ra đều có khả
17



năng nói hay. Mà phải qua rèn luyện. Tôi đã tích cực tự luyện giọng nói của
mình để nói chuẩn âm, nói chuẩn tiếng phổ thông. Từ đó học sinh phát âm, nói theo
cô cũng đạt chuẩn.
* Lời ăn tiếng nói của giáo viên luôn luôn phải mẫu mực. Trong quá trình
dạy học cũng như trong giao tiếp tôi luôn ý thức phải nói gãy gọn, nói đủ ý, diễn
đạt mạch lạc, dễ hiểu. Nếu học sinh nói sai, chưa đủ ý, bằng sự chuẩn mực của
mình tôi đã sửa cho các em, từ dó các em có ý thức trong lời nói của mình.
Ví dụ + Khi khen học sinh:
- Cô khen con đã trả lời rất to và rõ ràng, đề nghị cả lớp thưởng cho bạn
một tràng pháo tay!
+Khi phê bình học sinh cũng phải nhẹ nhàng, tế nhị.
- Con làm như thế là chưa đúng, lần sau con phải chú ý để không mắc lỗi
nữa, con nhớ chưa!
+Khi giao tiếp, trò chuyện với HS, phải thực sự gần gũi, tình cảm với các em.
+Khi giao tiếp với đồng nghiệp, với phụ huynh phải nhã nhặn, niềm nở.
 Mẫu mực trong hành động, cử chỉ, điệu bộ, trang phục
Không phải mẫu mực trong lời ăn tiếng nói, trong việc sửa sai cho học
sinh mà cả điệu bộ, cử chỉ, trang phục của giáo viên cũng phải chuẩn mực. Giáo
viên là thần tượng với các em nên trang phục của giáo viên cũng phải đẹp, kín
đáo, lịch sự. Khi giao tiếp, đứng trên bục giảng điệu bộ, cử chỉ của cô phải phù hợp
trong từng tình huống.
Khi khen học sinh tôi thể hiện ánh mắt trìu mến, tươi cười với các em.
Khi trách phạt học sinh nét mặt của cô phải nghiêm nghị nhưng cũng phải
gần gũi.
Khi giao tiếp, trò chuyện với các em nét mặt phải tươi vui, thân thiện,
nhưng không phải là cà trớn với các em. Giữ thái độ đúng mực.
Như vậy trong mọi tình huống, giáo viên luôn tạo được ấn tượng tốt cho
các em. Từ lời ăn, tiếng nói, cử chỉ, điệu bộ, trang phục phải thật sự mẫu mực.

Bằng sự mẫu mực của GV tôi đã rèn luyện HS lớp tôi dần dần có ý thức
trong giao tiếp, mạnh dạn, cởi mở và xưng hô đúng mực.
Giải pháp 8. Phối hợp với gia đình rèn kĩ năng nói cho HS.
Gia đình là nơi các em được yêu thương, chăm sóc, là nơi các em sinh ra
và trưởng thành. Vì vậy trong công tác giáo dục gia đình đặc biệt quan trọng
với học sinh. Gia đình nào nền nếp tốt thì con cái sẽ phát triển theo chiều hướng
tích cực, còn gia đình nào nền nếp không tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến con cái.
Để làm gương cho các em thì phụ huynh phải thực sự gương mẫu trong giao
tiếp, nói năng phải đúng mực, lịch sự, nhã nhặn với mọi người xung quanh để
các em noi theo.
Chính vì vậy, trong mỗi lần họp phụ huynh, theo quan điểm của Thông tư
30 –về đánh giá học sinh Tiểu học, nhà trường đã phổ biến đến phụ huynh cách
đánh giá một học sinh không chỉ nghiêng về điểm số mà đánh giá HS dựa trên 3
mặt: Tiếp thu kiến thức, năng lực và phẩm chất. Trong đó có kĩ năng nói.

18


Cho nên tôi đã nhận xét HS và thông báo đến phụ huynh biết về cả 3 mặt.
Tôi lưu ý với phụ huynh về tầm quan trọng của việc dạy kĩ năng nói – giao tiếp
của HS. Và phụ huynh phải hướng dẫn các con luyện nói khi giao tiếp ở nhà, rèn
luyện cho các em thói quen tốt.
Thực hiện biện pháp này tôi thấy phụ huynh đã ý thức được tầm quan
trọng của việc rèn kĩ năng nói cho các em. Và có ý thức rèn kĩ năng nói cho con
khi ở nhà.
Giải pháp 9. Phương pháp động viên, khen thưởng.
Phương pháp động viên khen thưởng là rất cần thiết đối
với học sinh. Trong từng tiết dạy, tôi thường chú ý đến học sinh
ít nói, thụ động, đặt những câu hỏi dễ, động viên các em cùng
tham gia nói. Đối với những em khá giỏi tôi sẽ khuyến khích, gợi

mở bằng những câu hỏi khái quát hơn để giúp các em tự tin,
mạnh dạn trình bày ý kiến, cảm xúc của mình một cách chân
thành. Tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở, động viên khen
thưởng kịp thời nhằm kích thích sự hứng thú, ham học hỏi ở nơi
các em. Trọng tâm khi dạy luyện nói cho học sinh, tôi thường
chú ý rèn kỹ năng nói to, rõ tiếng; nói thành câu, thành đoạn
hoàn chỉnh, hay, giàu cảm xúc. Với một ngữ điệu tự nhiên, chân
thành.
Luôn luôn động viên, khích lệ học sinh là chủ yếu. Đó là
động lực để các em hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập của mình.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau một năm triển khai và thực hiện các giải pháp rèn kĩ năng nói cho HS
lớp Một trong trường Tiểu học. Bằng tâm huyết của mình tôi đã thực hiện các
biện pháp đề ra một cách kiên trì, linh hoạt trong đổi mới phương pháp – hình
thức dạy học và thu được kết quả khả quan.
Kĩ năng nói của các em đã tiến bộ rõ rệt, nói có chủ định, nói đủ câu, diễn
đạt khá gãy gọn, lưu loát, nhiều em đã nói mạch lạc liên kết các câu thành bài nói giàu
hình ảnh. Học sinh rất hứng thú trong học tập và trong các hoạt động giáo dục
khác. Lớp học sinh động, các em tham gia tích cực, biết trả lời, diễn đạt ý nghĩ,
cảm xúc của mình một cách tự nhiên, chân thật. Những em nhút nhát, rụt rè thụ
động đã nhanh nhẹn, tích cực hơn, đã biết ứng xử các tình huống giao tiếp một
cách nhanh nhạy, ngoan và lễ phép hơn, vốn từ của các em phong phú và phát
triển hơn.
Sau đây là minh chứng cho việc thực hiện các giải pháp đề ra.
+ Kết quả của việc thực hiện các giải pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1A
Khả năng

Số lượng

Nói tốt

Diễn đạt hay
Nói trôi trảy

8
5
5

Tỉ lệ
%
30,8
19,2
19,2

Khả năng
Nói thành câu, đủ ý
Đứng lên không dám nói

Nói nhỏ, rụt rè, thiếu tự tin

Số lượng Tỉ lệ
%
8
0
0

30,8
0
0

19



3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng để biểu đạt tri thức ,tình
cảm. Ngôn ngữ là gương mặt thứ hai ,là tấm gương phản chiếu tâm hồn. Thế
giới ngôn từ không có điểm tận cùng, việc nói để ứng xử, giao tiếp trong xã hội
bằng Tiếng Việt phải học tập suốt đời. Vì vậy để giúp học sinh nói tốt ngay từ
lớp Một là điều rất cần thiết, đáp ứng được mục tiêu của môn Tiếng Việt, tạo
điều kiện cho các em học tốt các môn học khác và ở bậc học cao hơn. Muốn
được thành công, đạt hiệu quả cao trong công tác dạy – học thì giáo viên phải
thực hiện kiên trì, thường xuyên, luôn đổi mới sáng tạo với quyết tâm của mình
thực hiện các hoạt động dạy học kết hợp với các hoạt động giáo dục của nhà
trường, tuân thủ chỉ đạo của chuyên môn để giáo dục HS phát triển toàn diện.
Để nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng nói – giao tiếp cho HS, tôi thiết nghĩ
phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sao cho linh hoạt, sáng tạo phù hợp với
từng đối tượng HS, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương nhằm phát huy
những thế mạnh và khắc phục những tồn tại trong công tác giảng dạy.
Giáo viên: Lúc đầu tôi gặp rất nhiều khó khăn trong việc giúp các em
luyện nói. Đa số HS chỉ biết trả lời theo câu hỏi một cách thụ động, diễn đạt ý
chưa logic, trả lời cộc lốc, nói không đủ câu. Nhưng với sự hỗ trợ của Ban giám
hiệu, tổ khối và bằng sự cố gắng, lòng quyết tâm của bản thân tôi đã kiên nhẫn
rèn luyện, uốn nắn, chỉnh sửa “từng lời ăn tiếng nói” cho mỗi em. Học hỏi thêm
kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp, tham khảo sách vở để lựa chọn nhiều
hình thức tổ chức giúp các em trong quá trình luyện nói.
3.2. Kiến nghị
a. Đối với nhà trường:
- Nhà trường và Đoàn đội luôn duy trì và giữ vững các hoạt động giáo dục
đang thực hiện như hiện nay (cách tuyển sinh lớp Một, các HĐGD ngoài giờ lên
lớp, Thi sao giỏi ,thi lớp trưởng giỏi,...)

- Trang bị thêm các thiết bị như máy chiếu đủ mỗi phòng/máy để tiện cho
giáo viên trong giảng dạy
b. Đối với giáo viên:
- Phải luôn trau dồi ngôn ngữ nói của mình, luôn mẫu mực lời ăn tiếng
nói trong mọi hoạt động.
- Kiên trì trong sửa sai, uốn nắn học sinh.
Trên đây là hệ thống các giải pháp “Nâng cao hiệu quả việc rèn luyện kĩ
năng nói của học sinh lớp Một trong môn Tiếng Việt” mà tôi đã áp dụng tại trường,
tại lớp 1A do tôi chủ nhiệm. Các giải pháp được rút ra từ thực tế dạy học. Kết quả
bước đầu, tôi đã nhận được sự đồng thuận từ phía phụ huynh học sinh, đồng
nghiệp, nhà trường. Tuy nhiên do năng lực bản thân nên chắc chắn sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các đồng chí chỉ đạo
chuyên môn và các đồng nghiệp./.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
20


XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày .. tháng .. năm 2019
Tôi xin cam đoan bản sáng kiến kinh
nghiệm này không phải là bản coppi của
người khác.
Người thực hiện
Lê Thị Thảo

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 – Thông tư 30 về đánh giá học sinh Tiểu học.
2 – Tạp chí Giáo dục Tiểu học số 2 – 2012, số 3 - 2013.

3 – Sách giáo khoa và sách giáo viên Tiếng Việt từ lớp 1 đến lớp 5
4 – Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học.
5 – SGK Tự nhiên – Xã hội lớp 1.
6 – SGK môn Toán.
7 – Vở BT Đạo đức lớp 1.
8 – Một số thông tin trên mạng.

21


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU

TRANG

1.1 - Lí do chọn đề tài.
1.2 - Mục đích nghiên cứu.
1.3 - Đối tượng nghiên cứu.
1.4 - Phương pháp nghiên cứu.
B. NỘI DUNG
1 - Cơ lí luận của vấn đề.
2 - Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

1
1
1
2

3 - C¸c gi¶i ph¸p đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Giải pháp 1: Phân loại đối tượng học sinh.

Giải pháp 2: Xây dựng nội dung, chương trình dạy – học kĩ năng
sống cho HS mới vào lớp Một nhằm phát triển kĩ năng nói cho các
em.
Giải pháp 3: Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy – học cho mỗi bài luyện nói,
kể chuyện trong môn Tiếng Việt, nhằm phát triển ngôn ngữ nói của học
sinh.
Giải pháp 4: Vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học tích cực trong dạy học môn Tiếng Việt lớp Một.
Giải pháp 5: Hình thành cho các em ý thức, thói quen nói mạch lạc,
đủ ý qua biện pháp sửa sai triệt để tất cả các môn học và các hoạt động
giáo dục.
Giải pháp 6: Dạy luyện nói tích hợp thông qua các môn học và hoạt
động giáo dục khác.
Giải pháp 7: Giáo viên là tấm gương, chuẩn mực trong giao tiếp để học
sinh noi theo.
Giải pháp 8: Phối hợp với gia đình rèn kĩ năng nói cho HS.
Giải pháp 9: Phương pháp động viên, khen thưởng.
4 - Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
C. KẾT LUẬN
1 - Kết luận.
2 -Ý kiến đề xuất.

4
4
6

2
3

8

12
14
16
17
18
19
19
20
20

22


NỘI DUNG, CHƯƠNG TRÌNH HÀNH TRANG CHO TRẺ VÀO LỚP 1
HÈ 2018 – 2019
Tuần
Tuần 1

Tuần 2
Tuần 3

Thứ
Thứ 2
Thứ 3
Thứ 5
Thứ 6
Thứ 2
Thứ 3
Thứ 5


Ngày
13/7
14/7
16/7
17/7
20/7
21/7
23/7

Thứ 6

24/7

Thứ 2

27/7

Thứ 3

28/7

Tên bài dạy rèn kĩ năng sống cho HS
Kĩ năng giới thiệu, làm quen với trường học.
Kĩ năng chào hỏi, giới thiệu bản thân
Kĩ năng ngồi học đúng tư thế.
Kĩ năng giữ trật tự trong lớp học.
Tính kỷ luật trong lớp.
Kĩ năng nói lời cảm ơn.
Kĩ năng nói lời xin lỗi.
KN tự phục vụ (biết tự mặc quần áo, tự chải tóc, tự đi giày dép, tự đi vệ

sinh)
KN tự phục vụ( sắp xếp sách vở gọn gàng, ngăn nắp, biết mở một quyển
chuyện).

Phép tắc trong việc xin – cho.
23


Tuần 4

Tuần 5

Thứ 5

30/7

Thứ 6

31/7

Thứ 2
Thứ 3
Thứ 5
Thứ 6
Thứ 2
Thứ 3
Thứ 5
Thứ 6

3/8

4/8
6/8
7/8
10/8
11/8
13/8
14/8

Kĩ năng lịch sự trong ăn uống.
Kĩ năng lịch sự trong giao tiếp (trong gia đình).
Kĩ năng lịch sự trong giao tiếp (trong nhà trường).
Kĩ năng lịch sự trong giao tiếp (ngoài xã hội).
Kĩ năng an toàn với các dị vật.
An toàn khi tham gia giao thông.
Kĩ năng ứng xử khi bị lạc.
Kĩ năng bảo vệ bản thân trước nạn bắt cóc, tống tiền.
Kĩ năng tự phục vụ ( biết tự ăn cơm, tự tắm cho mình).
Kĩ năng tự phục vụ (giữ gìn đồ dùng học tập của mình).
Xuân Lam, ngày 10 tháng 7 năm 2018

Duyệt của BGH
Khèi trëng
NguyÔn ThÞ L©m
Lª ThÞ Th¶o

24




×