Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số kinh nghiệm dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1, áp dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.41 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD & ĐT THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
CHO HỌC SINH LỚP MỘT ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP VÀ KĨ THUẬT
DẠY HỌC TÍCH CỰC

Người thực hiện: Lê Thị Thể
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học TT Lam Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán

THANH HÓA NĂM 2019
1


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1. Mở đầu

1

1.1. Lý do chọn đề tài:

1


1.2. Mục đích nghiên cứu

1

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

1.5.Những điểm mới của SKKN

2

2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận:

2

2.2. Thực trạng việc dạy giải toán có lời văn ở trường Tiểu học B và ở
lớp 1A1.
2.3. Một số kinh nghiệm đã áp dụng trong thực tế giảng dạy.

3

2.4. Hiệu quả

18


3. Kết luận và kiến nghị

19

3.1. Kết luận:

19

3.2. Kiến nghị

19

5

1. MỞ ĐẦU
2


1.1. Lí do chọn đề tài.
Ở Tiểu học môn Toán có vị trí vô cùng quan trọng, nó trang bị cho học
sinh những kiến thức cơ bản, nền tảng về toán học, góp phần giáo dục học sinh
trở thành con người mới phát triển toàn diện, năng động, sáng tạo. Bên cạnh đó,
việc dạy học toán còn giúp học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng
lực tư duy, khả năng suy luận và những phẩm chất của con người lao động mới.
Trong chương trình Toán Tiểu học các em được học năm mạch kiến
thức.Trong đó, giải toán có lời văn là một trong những mạch kiến thức cơ bản,
tổng hợp của các mạch kiến thức toán học và xuyên suốt cả chương trình Toán
cấp Tiểu học. Thông qua giải toán các em được rèn luyện kĩ năng tổng hợp: đọc,
viết, diễn đạt, trình bày, tính toán…

Tuy nhiên, trong dạy học toán thì giải toán có lời văn đối với học sinh lớp
Một là một nội dung khó. Chính vì thế mà trong thực tế giảng dạy, giáo viên
cũng đã vận dụng rất nhiều phương pháp trong đó dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh. Nhưng để vận dụng phương pháp này cùng với các kĩ
thuật dạy học tích cực nhằm mang lại hiệu quả trong dạy học toán cho học sinh
lớp Một cũng là việc vô cùng khó khăn. Bởi vì, ở độ tuổi này các em mới
chuyển từ hoạt động chủ đạo là vui chơi sang hoạt động chủ đạo là học tập nên
nhiều em chưa làm quen, chưa bắt nhịp được với việc học tập, ngôn ngữ nói của
các em chưa mạch lạc, có khi vừa đọc vừa đánh vần. Vì vậy mà để đọc được
một đề toán giáo viên phải đọc hoặc 1- 2 em học tốt đọc trước rồi sau đó học
sinh khác mới đọc. Bên cạnh đó, vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng tư duy logic
của các em còn hạn chế. Các em mới làm quen với các phép tính cộng trừ lại
tiếp xúc với giải toán có lời văn, tự tìm tòi nắm bắt kiến thức… là việc làm khó
đối với rất nhiều học sinh. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải biết vận dụng sao
cho phù hợp với từng đối tượng, từng dạng bài học và từng hoạt động học tập
của học sinh.
Là một giáo viên trực tiếp dạy lớp Một đã nhiều năm, tôi luôn trăn trở và
suy nghĩ là trong dạy học phải làm thế nào để học sinh hiểu bài, chủ động trong
việc lĩnh hội kiến thức, làm thành thạo các phép tính cộng, trừ và vận dụng vào
giải toán có lời văn đạt hiệu quả cao nhất. Xuất phát từ đó tôi đã mạnh dạn
nghiên cứu về: “ Một số biện pháp dạy Giải toán có lời văn cho học sinh lớp
Một áp dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của bài toán có lời văn.
- Phân tích - tóm tắt bài toán.
- Giải toán đơn về thêm (bớt ) bằng một phép tính cộng ( trừ).
- Trình bày bài giải gồm câu lời giải, phép tính, đáp số.
- Tìm lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cách khác nhau.
- Rút ra được những bài học kinh nghiệm từ trải nghiệm thực tế.
- Vận dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nâng cao hiệu quả

học giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
3


- Các bài tập thuộc mạch kiến thức “Giải toán có lời văn” trong chương
trình Toán 1
- Học sinh lớp 1A1 trường Tiểu học B.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:Thu thập những thông tin lý luận về
thuận lợi và khó khăn của Giáo viên và học sinh trong dạy – học Giải toán có lời
văn.
- Phương pháp quan sát: Quan sát tinh thần, thái độ tham gia hoạt động
học tập, các kĩ năng hợp tác, chia sẻ, tự học … của học sinh khi học giải toán có
lời văn.
- Phương pháp vấn đáp: Phỏng vấn đối tượng học sinh trong lớp về kiến
thức của bài học, những điều các em muốn biết trong giờ học toán. Phát hiện
những kĩ năng đã có hoặc chưa có của học sinh về Giải toán có lời văn.
- Phương pháp điều tra:
+ Trò chuyện, trao đổi với phụ huynh HS để biết thêm về khả năng tự học
ở nhà của học sinh và phương pháp dạy giải toán của phụ huynh cho con mình.
+ Tìm hiểu, tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên khác trong
trường mình.
- Phương pháp thử nghiệm:
+ Thử áp dụng các giải pháp vào việc dạy giải toán có lời văn. Hiệu quả
và những điều cần rút kinh nghiệm.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
- Áp dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy Giải toán
có lời văn cho học sinh lớp Một.
2. NỘI DUNG

2.1.Cơ sở lý luận:
Trong các mạch kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu học thì “Giải
toán có lời văn” là mạch kiến thức mà khi học các em gặp nhiều khó khăn và
càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Do đặc điểm tâm sinh lí của học
sinh lớp Một là khả năng tư duy trừu tượng hạn chế, sự tập trung chú ý chưa
cao. Các em chưa biết cách tự học, chưa tự giác và tích cực trong học tập. Nhiều
em còn chưa hiểu rằng đi học là gì, học để làm gì? Để giúp các em có mục tiêu
học tập tích cực, người giáo viên cần phải có phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học phù hợp.
Giải toán có lời văn tốt hay chưa tốt chính là phản ánh năng lực vận dụng
kiến thức của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học, kết
hợp với kíến thức Tiếng Việt để vận dụng vào giải toán, giải quyết vấn đề trong
toán học. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh đọc,
hiểu rồi biết hướng giải, lựa chọn phép tính kèm câu lời giải và đáp số của bài
toán. Giải toán có lời văn góp phần củng cố kiến thức môn Toán, rèn luyện kỹ
năng diễn đạt, tích cực góp phần phát triển tư duy cho học sinh tiểu học.
Với học sinh lớp Một, để học sinh đọc và hiểu bài toán có lời văn quả

4


không dễ dàng. Việc viết lên một câu lời giải phù hợp với câu hỏi của bài toán
cũng là vấn đề không đơn giản. Vậy làm thế nào để học sinh hiểu, học sinh thực
hành, diễn đạt đúng yêu cầu của bài toán?
2.2. Thực trạng dạy - học Giải toán có lời văn tại trường Tiểu học B
và lớp 1A1.
2.2.1. Thuận lợi:
a. Giáo viên
Nhà trường luôn tạo điều kiện cho công tác giảng dạy đạt kết quả tốt. Đội ngũ
giáo viên có ý thức học tập, bồi dưỡng nâng cao năng lực giảng dạy. Giáo viên có

đầy đủ SGK, tài liệu tham khảo, sách hướng dẫn, được tiếp cận với các phương tiện
dạy học hiện đại và luôn yêu nghề, nhiệt tình trong công tác giảng dạy.
b. Học sinh
Tất cả các em được trang bị đầy đủ đồ dùng học tập và đều được học hai
buổi/ ngày, buổi sáng học kiến thức mới và thường được luyện tập củng cố để
khắc sâu kiến thức vào tiết luyện của buổi chiều.
2.2.2. Khó khăn:
a. Giáo viên: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên chưa đồng đều,
giáo viên chưa mạnh dạn sáng tạo trong việc lựa chọn, tìm và vận dụng phương
pháp mới, việc phân chia thời lượng lên lớp ở mỗi môn dạy đôi khi còn dàn trải,
hoạt động của cô - trò có lúc thiếu nhịp nhàng.
b. Học sinh: Năm học 2017 - 2018, tôi được phân công dạy lớp 1A1. Lớp
có 40 học sinh, trong đó số học sinh nữ là 18, học sinh nam là 22 em.
Sau khi nhận lớp, tôi thấy học sinh lớp mình khả năng diễn đạt, tư duy còn
nhiều hạn chế, vốn từ lại ít ỏi, nghĩa của nhiều từ học sinh chưa hiểu. Khi các
em học Bài toán có lời văn thì môn Tiếng Việt đang học phần vần, có nghĩa là
các em chưa học hoàn chỉnh Phần vần Tiếng Việt. Làm quen với Bài toán có lời
văn khi các em còn chưa đọc thông, viết thạo.
Cũng vì lí do đó mà học sinh rất lúng túng khi nêu câu lời giải, thậm chí nêu
sai câu lời giải, viết sai phép tính, viết sai đáp số. Những tiết đầu tiên học Bải toán
có lời văn chỉ có khoảng 25 % đến 30 % số học sinh biết nêu lời giải, viết đúng
phép tính và đáp số. Số còn lại là rất mơ hồ, các em chỉ có thể làm miệng, làm theo
mẫu. Khi viết các em lại rất lúng túng, làm sai. Kể cả cách trình bày bài giải, giáo
viên cũng gặp không ít khó khăn khi hướng dẫn học sinh vì các em chưa hiểu thấu
đáo, nắm một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn.
Khi áp dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực đối với học sinh
lớp Một thì vô cùng khó khăn. Các em còn nhỏ, việc trao đổi nhóm, tự tìm tòi
kiến thức, giúp đỡ bạn trong nhóm là việc làm mới mẻ và khó khăn đối với đa số
học sinh trong lớp. Để các em biết đặt câu hỏi và trả lời đúng nội dung bài tập
cũng cần có thời gian tương đối dài. Trong khi đó, phần Giải toán có lời văn lớp

Một được học vào tuần thứ 22 của năm học cũng là khó khăn cho giáo viên và
học sinh.
Lứa tuổi này, mới đến trường tiểu học tiếp xúc với các bài học, các em

5


thường nhút nhát, kém tự tin, nói lí nhí, nói không rõ ràng. Các em đang cần rất
nhiều sự hỗ trợ từ giáo viên.Vì vậy việc tự giải đáp những điều các em cần biết
và muốn biết hay việc học sinh tự điều hành nhóm làm việc cũng gặp không ít
khó khăn.
Bên cạnh đó, một số em có cha mẹ đi làm ăn xa, các em phải sống với
ông bà, điều kiện học tập không tốt cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập
hoặc là phụ huynh không biết cách hướng dẫn con Giải toán có lời văn, thường
thì hướng dẫn con làm bài theo cách hiểu riêng của mình. Vì vậy học sinh không
hiểu bài, có khi còn làm sai.
Chẳng hạn: Để giải bài toán có liên quan đến tìm số đo độ dài (cm) thì phụ
huynh thường hướng dẫn con ghi phép tính là: 5cm + 4cm = 9cm, mà lẽ ra HS
phải trình bày là: 5 + 4 = 9 (cm). Bố mẹ hướng dẫn con như vậy nên các con làm
thành thói quen, khi đến lớp giáo viên sửa lại rất khó.
Một số phụ huynh không quan tâm đến việc hỗ trợ cho con học, phó thác
hết việc dạy con cho cô giáo bằng câu nói trăm sự nhờ cô và cho rằng lớp Một
chưa cần thiết, để các con vui chơi thoải mái.
Một số sai sót còn mắc phải của học sinh lớp tôi chủ nhiệm, đó là:
- Đọc đề toán chưa rõ ràng, chưa biết phân tích đề tìm cách giải.
- Không biết viết câu lời giải hoặc viết câu lời giải giống hệt câu hỏi của
bài toán.
- Viết câu lời giải không phù hợp với phép tính.
- Ghi tên đơn vị tính không phù hợp hoặc chỉ ghi phép tính mà không có
tên đơn vị.

- Trình bày bài giải chưa đẹp, chưa khoa học.
Kết quả khảo sát khả năng học tập tích cực của học sinh
Sau khi khảo sát khả năng học tập tích cực của học sinh, tôi đã thu được kết quả:

Số HS
KS

40

Tinh thần thái độ
tham gia hoạt động
HS còn nhút
nhát, chưa
tích cực
tham gia
hoạt động
SL
Tỉ lệ
22 55 %

HS thích
tham gia
các hoạt
động
SL
18

Tỉ lệ
45%


Năng lực tổ chức và tham gia
hoạt động nhóm
HS chưa linh
hoạt trong
điều hành
nhóm
SL
30

Tỉ lệ
75%

HS biết
điều hành
nhóm tốt

SL Tỉ lệ
7 17,5%

HS tự giác
chia sẻ, giúp
đỡ bạn trong
nhóm
SL
3

Tỉ lệ
7,5%

Kết quả khảo sát khảo sát chất lượng học sinh


6


Sau khi học tiết 85 bài Giải toán có lời văn, tôi đã tiến hành khảo sát chất
lượng HS trong lớp, kết quả đạt được như sau:
Số
HS
khảo
sát
40

HS viết đúng
câu lời giải,
còn sai phép
tính và đáp số
SL
5

Tỉ lệ
12,5
%

HS viết đúng
phép tính và
đáp số nhưng
còn sai câu lời
giải
SL
Tỉ lệ

18
45,0 %

HS viết đúng câu
lời giải và phép
tính nhưng còn
sai đáp số
SL
7

Tỉ lệ
17,5 %

HS làm đúng
cả lời giải,
phép tính và
đáp số
SL
10

Tỉ lệ
25,0 %

Qua kết quả khảo sát trên cho thấy tỉ lệ học sinh viết được câu lời giải
còn thấp, dẫn đến việc học sinh hoàn thành bài giải còn ít. Tôi đã xác định một
số nguyên nhân chủ yếu như sau:
- Do học sinh mới bắt đầu làm quen với dạng toán này.
-Tư duy của học sinh lớp Một còn mang tính trực quan là chủ yếu.
- Giai đoạn này các em chưa đọc thông viết thạo, có nhiều từ ngữ các em
chưa hiểu nghĩa hoặc chưa đọc được, các em đọc còn đánh vần nên khi đọc xong

bài toán rồi nhưng các em không hiểu bài toán nói gì.
- Khi chưa đọc thông, viết thạo thì việc tự tìm tòi cách giải là rất khó đối
với các em.
- Học sinh chưa tự tin trình bày ý kiến cá nhân, việc chia sẻ với bạn còn
rụt rè.
Trước thực trạng trên, tôi đã nghiên cứu, lựa chọn, áp dụng một số biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng Giải toán có lời văn cho học sinh trong lớp
mình phụ trách.
2.3. Một số kinh nghiệm dạy Giải toán có lời văn cho học sinh lớp
Một áp dụng phương pháp và kĩ thuât dạy học tích cực.
Dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một được phát triển nâng cao
dần theo 2 giai đoạn.
- Giai đoạn 1: Viết phép tính thích hợp (qua quan sát tranh vẽ)
- Giai đoạn 2: Giải toán có lời văn (dạng toán đơn có 1 phép cộng hoặc 1
phép trừ)
Trong giới hạn bài viết này, tôi nghiên cứu, trình bày một số kinh nghiệm
dạy giải toán có lời văn dưới dạng các mức độ trong giải toán có lời văn ở lớp
Một.
Mức độ 1: Ngay từ đầu học kỳ I, giới thiệu bài toán ở mức độ nhìn hình
vẽ, viết phép tính.
Mục đích là cho học sinh hiểu bài toán qua hình vẽ, suy nghĩ chọn phép
tính thích hợp.
Ở dạng bài này, giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn tranh nêu thành lời bài
toán, sau đó ghi phép tính thích hợp.

7


* Ví dụ 1: Bài tập1(trang 45): Yêu cầu HS nhìn tranh, nêu thành bài toán:
Có 2 con thỏ, thêm 1 con thỏ. Hỏi có tất cả mấy con thỏ?(hoặc: Có1con thỏ,

thêm 2 con thỏ. Hỏi có tất cả mấy con thỏ?)
Sau đó GV giúp HS chọn số phù hợp ghi vào ô trống.

+

=

+

=

Bài này đã cho sẵn dấu phép tính, chỉ cần học sinh điền được số phù hợp
rồi nêu được phép cộng tương ứng với bài toán đã nêu.
2 + 1 = 3 hoặc 1 + 2 = 3
Tôi giúp học sinh lấy số con thỏ nhóm bên trái cộng số con thỏ nhóm bên
phải hoặc lấy số con thỏ nhóm bên phải cộng với số con thỏ nhóm bên trái.
( Như vậy chủ yếu hướng dẫn học sinh dựa vào hình ảnh để viết được các số).

* Ví dụ 2: Bài 4 (trang 47): Viết phép tính thích hợp:
Giáo viên yêu cầu học sinh nhìn tranh nêu thành bài toán: Trên cành có 3
con chim đậu, 1 con chim bay tới. Hỏi trên cành có tất cả bao nhiêu con chim?
Với bài này, học sinh phải viết được phép tính tương ứng bao gồm cả số
và dấu phép tính: 3 + 1 = 4 ( hoặc 1 + 3 = 4)

8


Tôi đã giúp học sinh nhận ra phép tính Cộng bằng cách nhìn vào hình vẽ
có 1 con chim bay tới (tức là thêm vào). Bài toán có chữ Thêm thì làm tính cộng.
Học sinh lấy số con chim đậu trên cành cộng với số con chim đang bay

tới để tìm ra kết quả.
+ Để làm quen với việc học tập tích cực, bước đầu tôi hướng dẫn học sinh
(những em tiếp thu bài nhanh) cách hỏi – đáp về tìm hiểu nội dung hình vẽ để
hình thành phép tính và bài toán như sau:
+ Cho học sinh hỏi - đáp theo nhóm đôi (đổi vai cho nhau). Chẳng hạn:
HS1: Nhìn tranh vẽ bạn thấy có mấy con chim đậu trên cành?
HS2: Tôi thấy có 3 con đậu trên cành.
HS1: Có mấy con chim đang bay tới?
HS2: Tôi thấy có 1 con chim đang bay tới.
HS1: Tất cả có mấy con chim?
HS2: Tất cả có 4 con chim.
HS1: Mời bạn nêu phép tính để tìm tất cả số con chim.
HS2: 3 + 1 = 4 (con chim)
HS1: Bạn nêu bài toán như thế nào để có phép tính đó?
HS2: Trên cành có 3 con chim đậu, 1 con chim bay tới. Hỏi có tất cả bao
nhiêu con chim?
+ Giáo viên tổ chức cho nhiều cặp hỏi – đáp, đồng thời giúp đỡ những
học sinh còn lúng túng. Tổ chức thường xuyên liên tục tạo thói quen cho HS
trong mỗi giờ học.
* Ví dụ 3: Bài 3 (trang 54): HS nhìn hình vẽ, nêu bài toán rồi lựa chọn
phép tính phù hợp điền vào ô trống.
Bài này tôi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm đôi, nhìn tranh nêu thành bài
toán: Có tất cả 3 con chim, 2 con chim bay đi. Hỏi còn lại bao nhiêu con chim?

Học sinh phải viết được phép tính tương ứng: 3 - 2 = 1
Tôi đã giúp học sinh nhận ra phép tính Trừ bằng cách nhìn vào hình vẽ có
2 con chim bay ra (tức là bớt đi). Bài toán có chữ Bớt hoặc Bay đi thì làm tính trừ.
Học sinh lấy tất cả số con chim trừ đi số con chim đang bay đi để được số
9



con chim còn lại.(Tức 3 – 2 = 1)
Sau bài này, giáo viên giúp học sinh nhận biết và phân biệt được phải lựa
chọn phép tính cộng hay phép tính trừ khi giải bài toán qua các dấu hiệu đó là:
Nội dung hình vẽ, các từ: thêm, cho thêm, bay tới, chạy tới, đi tới …..hoặc bớt,
bay đi, chạy đi, cho đi, ăn đi, hái đi,...
*Ví dụ 4: Bài 3 (trang 85)
Học sinh nhìn hình vẽ, nêu bài toán rồi lựa chọn phép tính phù hợp điền
vào ô trống.
a.Bài toán: Trong chuồng có 7 con vịt, thêm 3 con vịt nữa đang đi vào
chuồng. Hỏi có tất cả bao nhiêu con vịt?

Dưới sự điều hành của nhóm trưởng, học sinh quan sát hình vẽ, thảo luận
trong nhóm, sau đó nêu bài toán rồi lựa chọn phép tính phù hợp: 7 + 3 = 10
Bắt đầu từ bài này, tôi cho học sinh làm quen với việc trả lời dưới dạng lời
giải. Tôi yêu cầu học sinh hỏi - đáp, chẳng hạn:
- Hỏi: Trong chuồng có mấy con vịt?
Trả lời: Trong chuồng có 7 con vịt.
- Hỏi: Bên ngoài chuồng có mấy con vịt đang đi vào?
Trả lời: Bên ngoài chuồng có 3 con vịt đang đi vào.
- Hỏi: Có tất cả mấy con vịt?
Trả lời: Có tất cả 10 con vịt.
- Hỏi: Bạn làm thế nào để biết có tất cả 10 con vịt?
Trả lời: Lấy 7 + 3 = 10.
Sau khi làm xong bài, tôi yêu cầu học sinh suy nghĩ để có thể nêu ý kiến
khác: Bên ngoài chuồng có 3 con vịt, trong chuồng có 7con vịt. Hỏi có tất cả
bao nhiêu con vịt?
Sau đó học sinh nói hoặc viết nhanh (trên bảng hoặc trên giấy nháp) phép
tính tương ứng: 3 + 7 = 10.Trả lời: Có tất cả số con vịt là: 10 con.
10



Việc trao đổi trong nhóm tìm cách giải Bài toán có lời văn và tự tìm ra cách
giải khác được thực hiện thường xuyên trong suốt quá trình học Giải toán có lời
văn của học sinh lớp mình, tạo thành thói quen học theo nhóm, tự tìm tòi kiến
thức dưới sự hỗ trợ của giáo viên.
b. Học sinh thảo luận nhóm nêu được bài toán: Trên cành có tất cả 10 quả
cam, bớt đi 2 quả cam. Hỏi trên cành còn bao nhiêu quả cam?

Sau đó hỏi - đáp lựa chọn phép tính phù hợp: 10 - 2 = 8
Yêu cầu học sinh trả lời: Số quả cam còn lại trên cành là: 8 quả
Giáo viên cũng hướng dẫn học sinh thực hiện các bước như bài toán a.
Khi dạy dạng bài này cần hướng dẫn học sinh nêu được nhiều bài toán
khác nhau rồi viết được phép tính phù hợp với từng bài toán để tăng cường khả
năng diễn đạt, khả năng tư duy cho học sinh.
Ngay từ bài: Phép cộng trong phạm vi 3 (tuần 7), giáo viên chủ động cho
học sinh làm quen với Giải toán có lời văn và tiếp tục nâng cao dần ở các bài
tiếp theo. Nhờ vậy, đến tuần 22, chính thức học sinh được học Giải toán có lời
văn thì phần lớn các em đã nắm bắt được trình tự các bước giải toán có lời văn.
Mức độ 2: Đến cuối học kì I, học sinh được làm quen với tóm tắt bằng
hình ảnh và bằng lời:
* Ví dụ : Bài 3 (trang 87)
a) GV hướng dẫn học sinh nhìn hình vẽ nêu được bài toán.
Để học sinh nêu được bài toán phù hợp, tôi hướng dẫn học sinh đếm số
thuyền từng hàng, quan sát vị trí dấu ngoặc. Giải thích dấu ngoặc thay cho từ cả
hai hàng hoặc có tất cả. Dấu chấm hỏi thay cho từ bao nhiêu rồi yêu cầu học
sinh nêu bài toán:
Bài toán: Hàng trên có 4 cái thuyền, hàng dưới có 3 cái thuyền. Hỏi cả
hai hàng có bao nhiêu cái thuyền ?


11


Sau đó học sinh nêu được phép tính tương ứng: 4 + 3 = 7
Trả lời: Hai hàng có tất cả số thuyền là: 7 cái thuyền.
- Học sinh thảo luận nhóm (Hỏi – đáp) để tìm cách giải khác.
b) Có : 10 quả bóng
Cho : 3 quả bóng
10
3
=
7
Còn : ... quả bóng?
Với dạng bài này, tôi thường giúp học sinh dựa vào tóm tắt, tự nghĩ ra đề
bài, sau đó tự giải bài toán. Bằng những lời văn khác nhau, học sinh sẽ tự đặt
được đề toán khác nhau. Đây là việc làm giúp học sinh vận dụng hết những hiểu
biết của mình để thực hiện yêu cầu của cô giáo và cũng là cơ hội để các em tự
giải đáp những yêu cầu về bài tập do mình đưa ra.
Học sinh từng bước làm quen với lời văn thay cho hình vẽ, các em dần
dần thoát ly khỏi hình ảnh trực quan từng bước tiếp cận đề bài toán. Yêu cầu học
sinh phải đọc và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề bài và lời giải bài toán bằng
lời, chọn phép tính thích hợp nhưng chưa cần viết câu lời giải.
Tuy không yêu cầu cao, tránh tình trạng quá tải với học sinh nhưng có thể
động viên những học sinh tiếp thu nhanh, có năng khiếu về môn Toán làm bằng
nhiều cách, có nhiều cách diễn đạt từ một hình vẽ hay một tình huống trong sách
giáo khoa.
Để học sinh học tập tích cực, tôi thường phân công những học sinh học tốt
giúp đỡ các bạn còn chậm, chưa mạnh dạn, tự tin trong khi hoạt động nhóm và
để phát huy khả năng của các đối tượng học sinh trong lớp, tôi thường phân
công nhóm học tập luân phiên, học sinh thay phiên nhau làm nhóm trưởng, thư

kí. Các em tự chia sẻ, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ. Thường thì những em
làm tốt sẽ rất hăng hái giúp đỡ bạn khác khi bạn còn lúng túng trong việc điều
hành nhóm.
Mức độ 3: Giới thiệu bài toán có lời văn bằng cách cho học sinh tiếp cận
với một đề bài toán chưa hoàn chỉnh kèm theo hình vẽ và yêu cầu hoàn thiện
* Tư duy của học sinh từ hình ảnh phát triển thành ngôn ngữ, thành chữ
viết. Giải toán có lời văn ban đầu được thực hiện bằng phép tính cộng là phù
hợp với tư duy của học sinh.
* Ví dụ 1:Tiết 84: Bài toán có lời văn (trang115):
12


Lượng kiến thức được trình bày trong tiết học được nâng dần từ dễ đến
khó qua 4 bài tập nhằm hình thành cách giải Bài toán có lời văn.
Bài tập 1: Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán:

Bài toán: Có
...bạn, có thêm ... bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn?
Bài này tôi cho học sinh quan sát tranh, hỏi – đáp theo cặp.
+ Hỏi: Bạn nhìn thấy có mấy bạn đang đứng?
Trả lời: Có 1 bạn.
+ Hỏi: Có mấy bạn đang đi tới?
Trả lời: Có 3 bạn đang đi tới.
Sau đó học sinh tự điền vào chỗ chấm số 1và số 3 rồi nêu lại bài toán đã
hoàn chỉnh.
Bài tập 2: Thực hiện tương tự bài 1
Qua tìm hiểu bài toán giúp cho học sinh xác định được giải bài toán có lời
văn gồm 2 phần:
+ Thông tin đã biết (gồm 2 yếu tố).
+ Câu hỏi (thông tin cần tìm )

Bài tập 3: Học sinh tự xác định được phần còn thiếu trong bài toán là câu hỏi.
Bài toán: Có 1 con gà mẹ và 7con gà con. Hỏi …………………………..
Học sinh suy nghĩ và nêu được: Bài toán thiếu câu hỏi.
Bài này, tôi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm dưới sự điều hành của
nhóm trưởng để tìm ra câu hỏi của bài toán.
Giáo viên hướng dẫn đại diện các nhóm chia sẻ trước lớp, nhận xét, tìm ra
câu hỏi đúng nhất.
Các em nêu câu hỏi để hoàn thành bài toán: Có 1 con gà mẹ và 7con gà
con. Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà?
Sau đó đọc lại bài toán đã hoàn chỉnh.
Bài tập 4: Kết hợp giữa việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi gợi ý của
giáo viên, học sinh xác định được bài toán còn thiếu số và thiếu câu hỏi rồi các
em tự hoàn thành bài toán.

13


Bài toán: Có 4 con chim đậu trên cành , có thêm 2 con chim bay đến. Hỏi
có tất cả bao nhiêu con chim?
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm vững đề toán, thông qua việc tóm
tắt đề toán. Phần tóm tắt giáo viên không nên yêu cầu cao đối với tất cả học
sinh, chỉ cần áp dụng cho những em tiếp thu nhanh, hoàn thành tốt các bài tập.
Như vậy: Cấu trúc một đề toán gồm 2 phần: phần cho biết và phần phải tìm.
* Ví dụ 2: Tiết 85: Giải toán có lời văn (trang 117)
Để hình thành cách giải bài toán có lời văn, sách giáo khoa đã nêu một bài
toán, phần tóm tắt đề toán và Bài giải hoàn chỉnh để học sinh làm quen.
Bài toán: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất
cả mấy con gà?
Giáo viên nêu bài toán, hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề.
Bước 1: Học sinh làm quen với các câu hỏi:

- Bài toán cho ta biết những gì?
- Bài toán hỏi gì?
Bước 2:Tập trả lời câu hỏi:
- Bài toán cho ta biết: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà.
- Bài toán hỏi: Nhà An có tất cả mấy con gà?
Giáo viên cần nhấn mạnh để học sinh biết cách trả lời câu hỏi của bài toán
như sau:
+ Trả lời cho câu hỏi thứ nhất tương ứng với phần cho biết.
+ Trả lời cho câu hỏi 2 tương ứng với phần phải tìm.
Cho học sinh đọc bài toán nhiều lần, hướng dẫn cách giải:
Bước 1: Giáo viên vừa hỏi trình bày bài giải lên bảng và giải thích từng
dòng
Bài giải
Nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số: 9 con gà
Yêu cầu học sinh đọc bài giải sau đó giải thích nội dung từng dòng.
Bước 2: Hướng dẫn cách trình bày bài giải:
+ Ghi chữ : Bài giải
+ Dòng 1: ghi lời giải
+ Dòng 2: ghi phép tính
+ Dòng 3: ghi Đáp số.
Giáo viên nhấn mạnh để học sinh ghi nhớ: Trình bày bài giải cần phải
viết: Câu lời giải, phép tính và đáp số.
Lúc này việc viết câu lời giải học sinh còn gặp nhiều khó khăn nên giáo
viên cần hướng dẫn chọn cách viết câu lời giải gần với câu hỏi nhất. Phần này
tôi hướng dẫn như sau:
- Đọc kĩ câu hỏi
- Bỏ chữ Hỏi đầu câu hỏi.


14


- Thay chữ bao nhiêu bằng chữ số
- Thay dấu chấm hỏi bằng chữ là và dấu hai chấm (là:)
Câu lời giải trong một bài giải không yêu cầu mọi học sinh phải giống
nhau (miễn là đúng yêu cầu bài toán) tạo điều kiện cho học sinh diễn đạt câu trả
lời theo ý hiểu của mình.
Quy ước viết đơn vị của phép tính trong bài giải học sinh cần nhớ để thực
hiện khi trình bày bài giải.
* Bài toán giải bằng phép tính trừ được giới thiệu khi học sinh đã thành
thạo giải bài toán có lời văn bằng phép tính cộng.
* Ví dụ 3: Giải toán có lời văn (tiếp theo) - trang 148
Bài toán: Nhà An có 9 con gà, mẹ đem bán 3 con gà. Hỏi nhà An còn lại
mấy con gà?
- Học sinh đọc, giáo viên phân tích bài toán:
+ Bài toán cho biết là gì? (Có 9 con gà. Bán 3 con gà).
+ Bài toán hỏi là gì? (Còn lại mấy con gà?)
- Yêu cầu học sinh đọc tóm tắt, đọc bài giải mẫu.
- Giúp học sinh nhận thấy cách viết câu lời giải ở loại toán bớt này cũng
như cách viết của loại toán thêm đã nêu ở trên. Chỉ khác ở chỗ cụm từ có tất cả
được thay thế bằng cụm từ còn lại.
Cụ thể là:
Bài giải
Số gà còn lại là:
9 - 3 = 6 ( con gà)
Đáp số: 6 con gà
Bài tập 1:
Tóm tắt:
Bài giải


: 8 con chim
Số chim còn lại là:
Bay đi : 2 con chim
8 - 2 = 6 (con chim)
Còn lại : ... con chim?
Đáp số: 6 con chim
Lúc này, khi đã có hai dạng toán đơn cộng, trừ thì việc lựa chọn phép
cộng hay phép trừ cho một bài toán sẽ khó khăn, học sinh dễ lẫn lộn.Vì vậy, giáo
viên cần lưu ý học sinh một số từ: Chẳng hạn: thêm là cộng, bớt là trừ hay bài
toán hỏi: Có tất cả, cả hai,… thì làm tính cộng, bài toán hỏi còn lại thì làm tính
trừ. Và ngược lại, khi viết câu lời giải, bài toán làm bằng tính trừ thì câu lời giải
phải có chữ còn lại. Bài toán có từ trong đó thì làm tính trừ…
Khi cho học sinh giải bài toán có lời văn cần thực hiện tốt các bước sau:
- Đọc kĩ đề bài: (trả lời được: bài toán cho biết gì? bài toán yêu cầu tìm gì?)
- Tóm tắt đề bài (đối với học sinh tiếp thu bài nhanh).
- Tìm được cách giải bài toán
- Trình bày bài giải
15


- Kiểm tra lời giải và đáp số
Khi giải bài toán có lời văn, giáo viên lưu ý cho học sinh hiểu rõ những
điều đã cho, yêu cầu phải tìm, biết chuyển từ ngôn ngữ thông thường thành ngôn
ngữ toán học.
Chẳng hạn: Có một số quả cam, khi được cho thêm hoặc mua thêm nghĩa là
thêm vào, phải làm tính cộng; nếu đem cho hay đem bán thì phải làm tính trừ,...
Cho học sinh tập ra đề toán phù hợp với một phép tính đã cho, để các em
tập tư duy ngược, tập phát triển ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến thức vào các tình
huống thực tiễn.

Giáo viên nên cho học sinh 1 phép tính rồi yêu cầu học sinh đặt đề toán
tương ứng với phép tính đó.
Chẳng hạn: Với phép tính 5 + 3 = 8. Có thể có các bài toán sau:
- Mai có 5 cái bánh, chị cho Mai 3 cái bánh nữa. Hỏi Mai có tất cả mấy cái bánh ?
- Hằng có 5 quyển vở, mẹ mua thêm 3 quyển vở. Hỏi Hằng có tất cả mấy
quyển vở ?
- Có 5 con vịt bơi dưới ao, có thêm 3 con vịt xuống ao. Hỏi có tất cả mấy
con vịt bơi dưới ao?
Để củng cố bài này, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi Ai nhanh, ai đúng?
- Học sinh được chia thành 2 đội. Mỗi đội từ 5 đến 7 em. Đội này đố đội
kia trả lời câu hỏi liên quan đến bài học. Trong vòng 5-7 giây phải trả lời được.
Nếu đội bạn trả lời đúng câu hỏi và đúng thời gian quy dịnh sẽ được nhận 1 ngôi
sao. Lưu ý đội nêu câu hỏi đúng cũng sẽ được 1 ngôi sao. Đội nào giành được
nhiều ngôi sao đội đó thắng. Thời gian giành cho trò chơi từ 5 – 7 phút.
Một số câu hỏi cho trò chơi
- Bài toán có lời văn gồm mấy phần? Đó là những phần nào? (gồm 2
phần: phần cho biết và phần phải tìm)
- Trình bày bài giải thường có mấy dòng? (3 dòng)
- Dòng thứ nhất viết gì? (viết câu lời giải)
- Dòng thứ hai viết gì? (viết phép tính)
- Dòng thứ ba viết gì? (viết đáp số)
- Viết xong bài giải bạn cần làm gì? (kiểm tra lại lời giải, phép tính, tên
đơn vị và đáp số)
Một số lưu ý khi dạy Giải toán có lời văn
Dạng 1: Dạng bài dựa vào tóm tắt để giải bài toán. Dạng bài này thường
khó cho học sinh khi viết câu lời giải và lựa chọn phép tính.
* Ví dụ 1: Bài 3 (trang 121): Giải bài toán theo tóm tắt sau:

16



Tóm tắt:

: 5 hình vuông
Thêm
: 4 hình tròn
Có tất cả : … hình vuông và hình tròn?

- Giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm hoặc cặp đôi dựa vào hình
vẽ và tóm tắt nêu bài toán rồi tìm cách giải.
- Đại diện một số nhóm nêu bài toán, một số nhóm trình bày miệng bài giải.
Bài giải
Có tất cả số hình vuông và hình tròn là:
5 + 4 = 9 (hình)
Đáp số: 9 hình
* Ví dụ 2: Bài 3 (trang 122): Giải bài toán theo tóm tắt sau:
Tóm tắt:

: 2 gà trống

:
5 gà mái
Có tất cả : … con gà ?
- Giáo viên yêu cầu học sinh dựa vào tóm tắt nêu bài toán rồi tìm cách giải.
- Học sinh trình bày bài giải trên bảng lớp.
Bài giải
Có tất cả số con gà là:
2 + 5 = 7 (con gà)
Đáp số: 7 con gà
Với dạng bài này, giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước:

+ Dựa vào tóm tắt, nêu thành lời bài toán.
+ Tự phân tích đề toán để tìm cách giải.
+ Giải bài toán.
Hoặc: Qua 2 bài toán trên giáo viên có thể giúp học sinh ghi nhớ như sau:
- Viết câu lời giải: Lấy dòng thứ 3 của tóm tắt. Bỏ dấu hai chấm (:), thay
dấu 3 chấm bằng chữ số, thay dấu chấm hỏi bằng chữ là:
Học sinh viết được câu lời giải như sau:
Bài 3 ( trang 121): Có tất cả số hình vuông và hình tròn là:
Bài 3 ( trang 122): Có tất cả số con gà là:
- Chọn phép tính: Dòng thứ 3 của tóm tắt có các chữ: Có tất cả thì làm
tính cộng.
- Tên đơn vị: ( là từ đứng trước dấu chấm hỏi trong câu hỏi của bài toán):
Bài 3 (trang 121): hình
17


Bài 3 (trang 122): con gà
Dạng 2: Loại bài liên quan đến đơn vị đo độ dài: cm
* Ví dụ 1: Bài 2 (trang 123): Giải toán theo tóm tắt sau:
Tóm tắt
Đoạn thẳng AB : 5 cm
Đoạn thẳng BC : 3 cm
Cả hai đoạn thẳng : ... cm?
Bài giải
Cả hai đoạn thẳng dài là:
5 + 3 = 8 (cm)
Đáp số: 8 cm
Với dạng bài này, giáo viên cần giúp học sinh nắm vững:
- Cách ghi câu lời giải: Lời giải phải có chữ dài
Chẳng hạn: Độ dài cả hai đoạn thẳng là:

Hoặc: Cả hai đoạn thẳng dài số xăng- ti- mét là:
- Đơn vị tính là đơn vị đo độ dài cm (viết tắt)
*Ví dụ 2: Bài 3(trang 151):
? cm

2 cm
13 cm

Bài giải
Sợi dây còn lại dài là:
13 – 2 = 11( cm)
Đáp số: 11cm
Dạng bài này, giáo viên giúp học sinh nhìn tóm tắt nêu thành bài toán rồi
lựa chọn phép tính phù hợp.
Việc nêu bài toán và lựa chọn phép tính với dạng bài tóm tắt này đối với
học sinh lớp 1 là vô cùng khó khăn. Vì vậy tôi đã hướng dẫn các em cách nhận
biết như sau: Dấu chấm hỏi ( ?) đặt ở đoạn thẳng dài nhất thì làm tính cộng, còn
nó nằm ở một trong hai đoạn thẳng còn lại thì làm tính trừ. Như vậy học sinh sẽ
dễ lựa chọn phép tính và làm đúng. Sau này khi làm quen rồi, học sinh sẽ dần
dần hiểu được bản chất của dạng bài này.
Dạng 3: Dạng bài có từ trong đó
* Ví dụ: Bài 2 (trang 151): Tổ em có 9 bạn, trong đó có 5 bạn nữ. Hỏi tổ
em có mấy bạn nam?
Bài giải
Tổ em có số bạn nam là:
9 - 5 = 4 (bạn)
Đáp số: 4 bạn

18



Với dạng bài này cần giúp học sinh hiểu ‘‘trong đó’’có nghĩa là: trong số
9 bạn của tổ em đã có 5 bạn nữ và học sinh rút ra được nếu trong bài toán có từ
“trong đó”thì làm tính trừ.
Dạng 4: Đơn vị tính không giống nhau.
* Ví dụ : Bài 4 (trang 132): Nhà Lan có 20 cái bát, mẹ mua thêm 1 chục
cái nữa. Hỏi nhà Lan có tất cả bao nhiêu cái bát?
Bài giải
1 chục cái bát = 10 cái bát
Nhà Lan có tất cả số bát là:
20 + 10 = 30 (cái bát)
Đáp số: 30 cái bát
Dạng bài này cần hướng dẫn học sinh đổi về cùng một đơn vị (cái). Khi
trình bày phải thêm dòng đổi đơn vị tính và viết ở dòng đầu tiên bên dưới chữ
Bài giải.
Tóm lại: Hầu hết các bài toán có lời văn đều vận dụng kiến thức toán
được cung cấp theo phân phối chương trình.Tuy nhiên, việc phân tích đề, tóm
tắt, giải bài toán phải luôn luôn được củng cố duy trì và nâng dần mức độ.
*Song cơ bản vẫn là các mẫu lời giải cho các bài toán thêm là:
- Có tất cả là:
- Số (đơn vị tính) + có tất cả là:
- Tên: (Đoạn thẳng, sợi dây, băng giấy…) + dài là:
*Mẫu lời giải cho các bài toán bớt là:
- Còn lại là:
- Số + đơn vị tính + còn lại là:
- Tên (Đoạn thẳng, sợi dây, băng giấy…) + còn lại dài là:
Đối với những học sinh tiếp thu bài nhanh, các em có thể chọn được nhiều
câu lời giải khác nhau.
Tóm lại, khi dạy Giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một giáo viên cần lưu ý:
- Khắc sâu các bước giải bài toán có lời văn cho học sinh.

Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu và giải tốt "Bài toán có lời văn" giáo
viên cần giúp các em hiểu chắc, hiểu sâu loại toán này. Ở mỗi bài, mỗi tiết về
"Giải toán có lời văn" giáo viên cần phát huy tư duy, trí tuệ, phát huy tính tích
cực, chủ động của học sinh bằng việc hướng cho học sinh tự tóm tắt đề toán, tự
đặt đề toán theo dữ kiện đã cho, tự đặt đề toán theo tóm tắt cho trước, giải toán
từ tóm tắt, nhìn tranh vẽ, sơ đồ viết tiếp nội dung đề toán vào chỗ chấm (...), đặt
câu hỏi cho bài toán.
- Tạo tình huống cho học sinh tham gia giải toán một cách tích cực.
Bằng cách cho sẵn lời giải, học sinh tự nêu phép tính hoặc cho sẵn phép
tính, học sinh tự nêu lời giải phù hợp. Cho hình vẽ học sinh tự nêu bài toán và
giải. Phối hợp các hình thức dạy học cá nhân, cặp đôi, thảo luận theo nhóm, thi
chữa bài nhanh nhằm phát huy tính tích cực học tập cho học sinh.
Thảo luận nhóm, tự tìm tòi cách giải. Tham gia các trò chơi củng cố kiến
thức vào cuối giờ học hoặc đầu giờ học.
19


Tạo thói quen biết chia sẻ, giúp nhau cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ học
tập. Phát huy khả năng điều hành nhóm hoạt động học tập của từng cá nhân.
Luân phiên làm nhóm trưởng, thư kí để phát huy khả năng, bồi dưỡng năng lực
cho học sinh.
- Hình thành kĩ năng kiểm tra lại bài cho học sinh.
Học sinh thường có thói quen làm xong bài không kiểm tra lại bài đã làm.
Giáo viên cần giúp các em tạo thói quen kiểm tra bài đã làm bằng cách như: Tự
kiểm tra bài, đổi vở hoặc nói cách làm, nêu kết quả để kiểm tra chéo… Sau khi
kiểm tra học sinh tự nêu lỗi của mình và sửa lỗi, hoặc nhận xét bài làm của bạn.
Việc này giáo viên phải tổ chức thường xuyên trong từng tiết học và phải có lời
nhận xét cụ thể đến từng học sinh về ý thức thực hiện, tinh thần nhận xét, rút ra
kinh nghiệm cho bản thân.
- Giúp phụ huynh hiểu cách hướng dẫn con mình giải bài toán có lời văn

như thế nào cho phù hợp để phụ huynh hiểu và hỗ trợ con chuẩn bị bài ở nhà.
2.4. Hiệu quả:
Sau thời gian áp dụng những kinh nghiệm trên để hướng dẫn học sinh
học tập và tham gia các hoạt động, tôi đã tiến hành khảo sát về kiến thức, kĩ
năng và năng lực của học sinh lớp mình khi học dạng Bài giải toán có lời văn
như sau:
Kết quả khảo sát
1. Khảo sát năng lực tham gia các hoạt động của học sinh trong giờ học Toán

Số
HS
KS

Tinh thần, thái độ
tham gia hoạt động
HS còn nhút HS thích và
nhát, chưa
tích cực
tích cực tham tham gia các
gia hoạt động hoạt động

40

SL
8

Tỉ lệ
20 %

SL

32

Tỉ lệ
80 %

Năng lực tổ chức và tham gia hoạt động nhóm
HS chưa
linh hoạt
trong điều
hành nhóm
SL
10

Tỉ lệ
25%

Tự tin trình
bày ý kiến, tự
giác tham gia
HĐ nhóm
SL
19

HS tự tin chia
sẻ, giúp đỡ bạn
trong nhóm,
điều hành
nhóm tốt
Tỉ lệ
SL

Tỉ lệ
47,5%
11
27.5 %

2. Khảo sát kiến thức, kĩ năng học dạng bài Giải toán có lời văn của học sinh:

Số HS
khảo
sát

40

HS viết đúng
câu lời giải,
còn sai phép
tính và đáp số

HS viết đúng
phép tính và
đáp số nhưng
còn sai câu lời
giải

SL
3

SL
4


Tỉ lệ
7,5 %

Tỉ lệ
10 %

HS viết đúng câu
lời giải và phép
tính nhưng còn sai
đáp số
SL
1

Tỉ lệ
2,5 %

HS làm đúng
cả lời giải,
phép tính và
đáp số
SL
32

Tỉ lệ
80 %

20


Kết quả khảo sát trên cho thấy số học sinh hoàn thành tốt bài tập đã nâng

lên rõ rệt, những học sinh chưa biết viết câu lời giải đã tự mình viết được câu lời
giải đúng. Những học sinh tiếp thu nhanh đã biết nêu được nhiều lời giải đúng,
tìm cách giải khác nhau cho một bài toán. Học sinh đã giải thành thạo các dạng
bài giải toán có lời văn chiếm tỉ lệ cao trong lớp.
Ngoài ra, vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy
Giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một đã giúp nâng cao chất lượng giải toán
có lời văn của học sinh. Số học sinh mạnh dạn trình bày ý kiến tăng lên rõ rệt.
Học sinh biết tự học trong nhóm cũng tăng đáng kể, các em biết giúp đỡ nhau,
cùng nhau chia sẻ để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Không khí lớp học sôi nổi
hơn tạo môi trường học tập thân thiện, vui vẻ. Học sinh tiếp thu bài một cách
chủ động, sáng tạo, hiểu bài nhanh, vững chắc và vận dụng tốt.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Qua việc nghiên cứu và áp dụng các phương pháp dạy Giải toán có lời văn
cho học sinh lớp Một cho thấy học sinh thường mắc lỗi nhiều ở câu lời giải. Sau
thời gian áp dụng kinh nghiệm sáng kiến, học sinh biết viết câu lời giải đã đạt
kết quả rất cao, vì vậy đã đạt tỉ lệ cao về hoàn thiện giải bài toán có lời văn. Việc
các em chủ động tìm tòi, khám phá, tích cực học tập và chiếm lĩnh kiến thức đã
giúp các em nắm vững, nắm sâu kiến thức và biết vận dụng linh hoạt trong thực
hành. Thông qua một số phương pháp, kĩ thuật dạy học theo hướng tích cực, giờ
học toán trở nên sôi động hơn, các em thấy hứng thú hơn với việc được tự mình
tìm tòi kiến thức.Vì vậy theo chủ quan của bản thân tôi thì kinh nghiệm sáng
kiến này có thể áp dụng và phổ biến nhằm nâng cao chất lượng cho học sinh về
việc giải toán có lời văn.
Trên đây là quá trình nghiên cứu, áp dụng kinh nghiệm đã nhiều năm dạy
lớp Một mà tôi đã tích lũy được vào đổi mới phương pháp dạy học nói chung và
phương pháp dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một nói riêng. Tôi hy
vọng sẽ tiếp tục nghiên cứu thành công về đổi mới phương pháp dạy Toán và
nâng cao hiểu biết cho bản thân trong quá trình dạy học ở Tiểu học.
3.2. Kiến nghị:

3.2.1. Đối với giáo viên:
- Cần nghiên cứu kĩ các dạng bài và mức độ của dạng bài ở từng giai đoạn
trong chương trình sách giáo khoa.
- Sử dùng đồ dùng trực quan hợp lí, tránh lạm dụng.
- Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học toán, nhằm phát huy tính
tích cực, hứng thú học toán của học sinh.
- Nhận xét học sinh đúng nhưng không nặng nề hay chê bai. Cần động
viên sự tiến bộ của các em là chính.
- Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong từng tiết
dạy. Phát huy hết năng lực sẵn có của học sinh để giúp các em có cơ hội tự mình
tìm tòi kiến thức, tự giác sẵn sàng chia sẻ cùng bạn.
21


- Tổ chức các hoạt động dạy học gây hứng thú học tập. Áp dụng linh hoạt
các kĩ thuật dạy học tích cực trong giờ học.
3.2.2.Đối với nhà trường:
- Đưa nội dung Giải toán có lời văn vào chương trình Bồi dưỡng giáo viên
để giáo viên có thêm điều kiện trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau.
-Tổ chức các tiết dạy chuyên đề về Giải toán có lời văn có áp dụng
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để rút kinh nghiệm.
Trên đây là một vài kinh nghiệm bản thân tôi đúc rút được qua quá trình
giảng dạy. Tuy nhiên do năng lực còn hạn chắc hẳn sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của Hội đồng Khoa học các cấp và bạn
bè đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được áp dụng có hiệu quả và
thiết thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 3 năm 2019
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,

không sao chép nội dung của người khác.
Người viết SKKN

22



×