Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Sử dụng phương pháp so sánh trong dạy học phần văn bản nhằm nâng cao chất lượng bộ môn ngữ văn 7 ở trường PTDTBT THCS xuân lẹ, thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.87 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP SO SÁNH TRONG DẠY HỌC
PHẦN VĂN BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
BỘ MÔN NGỮ VĂN 7 Ở TRƯỜNG PTDTBT THCS XUÂN
LẸ, THƯỜNG XUÂN, THANH HÓA

Người thực hiện: Lê Thị Hào
Chức vụ: Tổ trưởng Tổ KHXH
Đơn vị công tác: Trường PTDTBT THCS Xuân Lẹ
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HÓA, NĂM 2019
1


MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. Mở đầu ………………………………………………………………
2
1.1. Lí do chọn đề tài …………………………………………………..
2
1.2. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………...
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu ……………………………………………..
3


1.4. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………….
3
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm …………………………………...
3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm ………………………….
3
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ….
4
2.3. Một số giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề ……………………
5
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm ………………………………
13
3. Kết luận, kiến nghị …………………………………………………
15
3.1. Kết luận ……………………………………………………………
15
3.2. Kiến nghị …………………………………………………………..
15

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài

2


Mục tiêu giáo dục của Đảng và nhà nước ta là “Nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Đặc biệt trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước hiện nay thì việc đào tạo để học sinh trở thành những con người
phát triển toàn diện về nhân cách, trí tuệ, thể chất là một yêu cầu cấp thiết đặt ra
cho toàn xã hội nói chung và ngành Giáo dục nói riêng.

Môn Ngữ văn có một vị trí rất quan trọng trong hệ thống các môn học ở
nhà trường phổ thông. Nó góp phần hình thành những con người có ý thức tự tu
dưỡng, biết yêu thương gia đình, bạn bè; có lòng yêu nước; biết hướng tới
những tư tưởng, tình cảm đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự
công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Trong những năm gần đây, việc đổi
mới phương pháp dạy học đã trở thành yêu cầu thiết yếu của mọi hoạt động giáo
dục. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của lí luận dạy học hiện đại trên thế
giới, các nhà nghiên cứu lí luận dạy học Việt Nam đã nghiên cứu và đưa ra các
định hướng đổi mới về phương pháp dạy học: “Thống nhất theo tư tưởng tích
cực hóa hoạt động học tập của học sinh, dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo
viên”. Học sinh tự giác, chủ động tìm tòi, phát hiện kiến thức, tiếp thu vấn đề và
có ý thức vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến thức, kĩ năng đã thu nhận được.
Đối với môn Ngữ văn, vấn đề phương pháp càng có ý nghĩa quan trọng,
đặc biệt khi dạy phần Văn bản (phần Văn học theo tên gọi cũ). Một thực tế mà
hầu hết các giáo viên dạy Văn đều nhận thấy là: Dạy phần Văn bản rất khó. Dạy
đúng, đủ, chính xác đã là vấn đề không phải luôn dễ dàng: dạy để cho hay, học
sinh học hào hứng càng khó hơn. Tuy nhiên, không phải vì thế mà việc dạy phần
Văn bản trở nên bế tắc. Cùng một Văn bản vẫn có giáo viên dạy tốt và ngược
lại. Rõ ràng vấn đề mấu chốt chính là ở phương pháp. Trước mỗi Văn bản cụ
thể, giáo viên cần phải chọn và kết hợp một cách linh hoạt các phương pháp
khác nhau. Trong đó, “so sánh” trở thành một phương pháp cần thiết, hữu ích
khi dạy - học phần Văn bản của môn Ngữ văn.
Từ những suy nghĩ đó, tôi quyết định chọn “Sử dụng phương pháp so
sánh trong dạy học phần Văn bản cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng bộ
môn Ngữ văn 7 ở trường PTDTBT THCS Xuân Lẹ” làm đề tài nghiên cứu để
cùng tìm ra giải pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn 7 cho học
sinh cùng khu vực.
1.2. Mục đích nghiên cứu
3



Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn ở trường PTDTBT THCS
Xuân Lẹ, tôi luôn trăn trở làm thế nào để nâng cao được chất lượng của bộ môn
cho phù hợp với xu thế đi lên của xã hội?. Qua nhiều năm giảng dạy ở tất cả các
khối lớp cũng như các đối tượng học sinh khác nhau, tôi đã vận dụng nhiều
phương pháp và tự rút ra được một số kinh nghiệm nhất định cho bản thân mình
đặc biệt là kinh nghiệm “Sử dụng phương pháp so sánh trong dạy học phần
Văn bản cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn 7”. Tôi hi
vọng rằng bằng những kinh nghiệm đó, mình có thể đóng góp một phần nhỏ bé
để phục vụ cho sự nghiệp giáo dục của nhà trường ngày càng vững mạnh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu cụ thể của sáng kiến này là học sinh khối 7 trường
PTDTBT THCS Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tìm hiểu qua thực tế giảng dạy.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thống kê, tổng kết rút kinh nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Dạy - học Ngữ văn được coi là một môn khó trong xã hội hiện đại. Với
thực tế tâm lí học sinh rất ngại học Ngữ văn do các em có điều kiện tiếp xúc với
các phương tiện thông tin hiện đại đem lại nguồn thông tin nhanh chóng. Từ đó
các em nảy sinh tâm lí ngại đọc Văn và học Ngữ văn. Tuy nhiên, các phương
tiện thông tin nhanh thường mang lại cho các em những kiến thức rất hời hợt và
không mang lại hiệu quả giáo dục cao. Vì thế, việc dạy học Ngữ văn trong nhà
trường vẫn giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong việc giáo dục và hình thành
nhân cách cho học sinh.
Trong quá trình dạy học Ngữ văn, tôi nhận thấy việc áp dụng phương
pháp dạy học mới với các hình thức dạy học của nó đã đem lại những hiệu quả

rõ rệt khiến các em tránh được tâm lí ngại học và yêu thích bộ môn này hơn.
Tuy nhiên, việc áp dụng các hình thức dạy học mới vào quá trình giảng
dạy vẫn còn nhiều khó khăn, đòi hỏi tôi phải tiếp tục tìm tòi, vận dụng các
4


phương pháp mới để việc dạy học có được những kết quả khả quan hơn và tôi đã
đặc biệt chú ý đến việc “Sử dụng phương pháp so sánh trong dạy học phần Văn
bản cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn 7”.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng dạy học phần văn bản môn Ngữ văn ở hầu hết các trường
THCS hiện nay cho thấy: để luôn dạy tốt phần Văn bản là một việc tương đối
khó khăn đối với một giáo viên nhất là những giáo viên mới vào ngành, chưa có
nhiều kinh nghiệm hoặc những giáo viên hạn chế về năng lực sư phạm Văn.
Thực chất cái khó không phải là vấn đề khai thác kiến thức tác phẩm. Điều này
các giáo viên có thể thực hiện được. Vấn đề là làm sao có thể truyền đạt được
một cách suôn sẻ những đơn vị kiến thức của bài học theo yêu cầu đặt ra, đồng
thời khơi dậy được sự hào hứng, tích cực sự đồng cảm của học sinh. Cũng từ
thực trạng trên cho thấy rằng: Ở những giờ dạy Văn bản chưa được tốt chủ yếu
là do người dạy chưa sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học. Đặc biệt ít có
sự liên hệ so sánh, nếu có thì mới chỉ có ở mức độ sơ sài, vì chưa thấy được tác
dụng của việc sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần Văn bản. Việc
giáo viên ít sử dụng phương pháp so sánh cùng với các phương pháp khác làm
cho giờ học trở nên buồn tẻ, khô khan, kém linh hoạt đặc biệt không phát huy
được tốt năng lực tư duy, sự hào hứng, tích cực của học sinh, ảnh hưởng đến
hiệu quả của giờ dạy - học phần Văn bản. Ngoài ra còn do tồn tại một số thực
trạng sau:
2.2.1. Từ phía giáo viên
- Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không
nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao.

- Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương
pháp trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của
học sinh.
- Thời lượng hạn chế nên rất khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm
cặp từng học sinh trong một tiết dạy.
2.2.2. Từ phía học sinh
- Một số học sinh vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thế
cho giờ học văn.
5


- Vì trường nằm trên địa bàn thuộc vùng kinh tế khó khăn, hầu hết gia
đình học sinh đều làm ruộng hoặc làm vườn nên các em phải phụ giúp gia đình
ngoài giờ lên lớp, ít có thời gian học.
- Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí
như xem ti vi, chơi game, . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý
thức học bị lôi cuốn, sao nhãng việc học.
Nhận thức được việc cần phải giải quyết các vấn đề tồn tại ở trên khi
thực hiện giảng dạy bộ môn Ngữ văn 7, cùng với phương pháp này chính là tiền
đề và là cơ sở để giải quyết các khó khăn vướng mắc của học sinh khi học phần
văn bản nên tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và viết thành sáng kiến, trước khi áp
dụng sáng kiến kinh nghiệm tôi đã khảo sát thực trạng ở lớp 7A học kì I, năm
học 2017- 2018 và thu được kết quả:
Loại
Tổng số (29HS)

Giỏi
SL
%
0

0

Khá
SL
%
3
10,3

TB
SL
11

%
37,8

Yếu
SL
%
9
31,0

Kém
SL
%
6
20,9

2.3. Một số giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
Xuất phát từ nhận thức cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học ấy, là
giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy, tôi luôn có những băn khoăn, trăn trở nên

sử dụng các hình thức dạy học như thế nào, đặc biệt là những hình thức dạy học
mới phù hợp với phương pháp dạy học hiện đại, để có được những giờ dạy đạt
hiệu quả cao tôi đã áp dụng những giải pháp sau:
2.3.1. Sử dụng phương pháp so sánh để làm rõ hoàn cảnh sáng tác của
văn bản
Văn bản bao giờ cũng đi liền với hoàn cảnh sáng tác. Việc nắm vững hoàn
cảnh sáng tác sẽ giúp học sinh cảm nhận đầy đủ hơn về văn bản. Văn bản có thể
giống nhau hoặc khác nhau về hoàn cảnh sáng tác. So sánh sẽ làm cho học sinh
dễ nhớ hơn là tách biệt từng Văn bản.
Ví dụ 1: Khi dạy văn bản “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng” của Hồ
Chí Minh (Ngữ văn 7, tập 1). Nếu giáo viên hỏi: Em hãy cho biết hoàn cảnh ra
đời của bài thơ? Như thế học sinh sẽ chỉ biết hoàn cảnh của bài một cách riêng
lẻ, không tích hợp được kiến thức, không gợi được tư duy của học sinh và khó

6


nhớ. Thế nên khi làm bài cũng không ý thức để vận dụng nó vào bài làm. Vì vậy
nên đưa vào tình huống so sánh như sau.
Giáo viên hỏi: Hoàn cảnh sáng tác của hai văn bản có gì giống và khác nhau?
Học sinh trả lời: Hai văn bản trên có điểm giống nhau là:
- Giống nhau: Đều ra đời trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống
Pháp lần II, những đêm Bác ở chiến khu Việt Bắc.
- Khác nhau:
+ Bài Cảnh khuya: 1947
+ Bài Rằm tháng giêng: 1948 (đặc biệt ghi nhớ hoàn cảnh sau chiến thắng
Việt Bắc thu đông).
Như vậy nhờ có phép so sánh này, hoàn cảnh sáng tác của mỗi văn bản
được đối chiếu nhau đã làm lộ ra đặc điểm cần khai thác: năm 1947 (trước chiến
dịch Việt Bắc thu đông) cuộc kháng chiến của ta vẫn còn nhiều khó khăn, tương

quan giữa ta và địch còn rất bấp bênh. Mọi người đều rất lo lắng cho sự thắng
lợi của cuộc kháng chiến, nhất là những người chèo lái con thuyền cách mạng,
đứng đầu là Hồ Chủ tịch (tác giả). Chính vì thế ở bài “Cảnh khuya”- “lo lắng”
vẫn là một nét tâm trạng của nhân vật trữ tình và cũng là âm hưởng bao trùm
toàn bài. Năm 1948 (sau chiến dịch Việt Bắc thu đông), diễn biến kháng chiến
đã có lợi cho ta, bài “Rằm tháng giêng” đã mang một âm hưởng khác: nhân vật
trữ tình hiện lên trong tư thế ung dung, chủ động, lạc quan và tin tưởng. Giọng
thơ hào hùng có niềm vui phơi phới. Rõ ràng nếu không có sự so sánh này học
sinh khó có thể nắm bắt được nội dung trên.
Ví dụ 2: Khi dạy văn bản “Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê” của Hạ
Tri Chương. (Ngữ văn 7, tập 1).
Giáo viên hỏi: Đều viết về tình cảm quê hương nhưng hoàn cảnh ra đời
của văn bản “Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê” so với hoàn cảnh ra đời
của bài “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch có gì đáng chú ý?
Học sinh trả lời: Khác nhau: Bài ‘‘Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về
quê” được tác giả viết khi về thăm quê trong một hoàn cảnh ngậm ngùi chua xót.
Còn bài “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” lại được tác giả viết khi xa quê, trong
tâm trạng nhớ quê khắc khoải. Khi học sinh chỉ ra được sự khác nhau ở câu hỏi

7


trên là đã định hướng đúng tình cảm, tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đi vào
phân tích văn bản.
2.3.2. Sử dụng phương pháp so sánh giúp học sinh nhận rõ đặc trưng thể
loại
Đối với học sinh lớp 6 và lớp 7, thể loại là khái niệm mới bắt đầu làm
quen. Vì thế
so sánh để cho học sinh nhận rõ đặc trưng thể loại là rất quan trọng.
Khi dạy chùm bài thơ Trung đại, học sinh được làm quen với khá nhiều

thể loại thơ (thất ngôn, ngũ ngôn, song thất lục bát… đặc biệt là các thể thơ
Đường). Các thể thơ này đều có những quy định nghiêm ngặt về vần, luật. Để
học sinh nắm chắc được đặc điểm các thể loại đó thì trước hết giáo viên phải cho
học sinh đối chiếu yêu cầu của mỗi thể loại với các bài thơ cụ thể. Từ đó, giúp
học sinh nhận ra được mỗi bài thơ đó có đáp ứng đúng yêu cầu thể loại hay
không. Tương tự như vậy, giáo viên cho học sinh đối chiếu giữa bản phiên âm
với bản dịch thơ để học sinh thấy được tài năng của người dịch, đồng thời nhận
ra được những điểm chưa đúng với bản phiên âm.
Ví dụ: Ở bài “Sông núi nước Nam” đối chiếu giữa bản phiên âm với bản
dịch học sinh sẽ nhận ra ở bản dịch phần vần gồm các từ “ở, sở, vỡ” là thanh
trắc chưa đáp ứng được với ba vần bằng ở bản phiên âm “cư, thư, hư”.
- Tôi có thể cho học sinh So sánh cùng thể loại:
Ví dụ: Dạy văn bản “Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê” của Hạ Tri
Chương.
Giáo viên hỏi: Về thể loại em thấy giống văn bản nào đã học? Đó là thể loại
gì?
Học sinh trả lời: “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch, “Buổi
chiều đứng ở Phủ Thiên Trường trông ra” của Trần Nhân Tông, “Phò giá về
kinh” của Trần Quang Khải, “Sông núi nước Nam” của Lí Thường Kiệt. Đều là
thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
- Hoặc Tôi cho học sinh So sánh khác thể loại:
Ví dụ: Khi dạy văn bản “Qua đèo ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.
Giáo viên hỏi: So sánh thể thất ngôn bát cú Đường luật với thể thất ngôn
tứ tuyệt Đường luật?

8


Học sinh trả lời:
- Giống nhau: Đều là Đường luật (vần, số chữ trong mỗi câu đều là 7

chữ).
- Khác nhau: Số câu (8 câu và 4 câu).
Sự so sánh này rất cần thiết. Phần nhiều học sinh chỉ nắm bắt được những
thể loại dễ nhận diện về mặt hình thức như; Truyện ,Thơ.
- Tôi cũng có thể So sánh đặc trưng về mặt thi pháp của thể loại:
Ví dụ: Khi dạy văn bản “Một thứ quà của lúa non-cốm” của Thạch Lam.
Giáo viên hỏi: Những đặc trưng giống và khác nhau giữa tuỳ bút với thơ,
truyện?
Học sinh trả lời:
Giống thơ ở chỗ chủ yếu biểu hiện cảm xúc của cái tôi trữ tình.
Khác truyện ở chỗ không có cốt truyện.
2.3.3. Sử dụng phương pháp so sánh khi tiến hành phân tích văn bản
Được áp dụng để làm rõ chi tiết về nội dung hay nghệ thuật của Văn bản.
Đây là hình thức so sánh thường được áp dụng nhiều nhất.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Cảnh khuya” của Hồ Chí Minh.
Giáo viên hỏi: Em hãy cho biết cách so sánh “tiếng suối” trong bài “Cảnh
khuya” của Hồ Chí Minh với bài “Côn sơn ca” của Nguyễn Trãi có gì khác
nhau?
Học sinh trả lời: Bài “Côn sơn ca”: âm thanh được cảm nhận rất gần,
trầm (rì rầm). Bài “Cảnh khuya”: âm thanh được cảm nhận từ xa, trong, cao
(trong như tiếng hát xa). So sánh tiếng suối với tiếng hát của con người, vì vậy
tiếng suối trở nên gần gũi, ấm áp, có hồn.
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.
Giáo viên hỏi: Cụm từ “Ta với ta” ở hai bài “Qua đèo Ngang” và “Bạn
đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến có gì khác nhau?
Học sinh trả lời:
- Bài “Qua đèo Ngang” cụm từ “ta với ta” là một người, thể hiện nỗi cô
đơn giữa cảnh trời đất bao la.
- Bài “Bạn đến chơi nhà” cụm từ “ta với ta” là hai người, khẳng định một
tình bạn gắn bó hoà hợp.

9


Ví dụ 3: Dạy Văn bản “Mẹ tôi” của Ét-môn-đô đơ A-mi-xi.
Giáo viên: Tại sao bố không nói trực tiếp với En-ri-cô mà lại viết thư?
Hai cách nói ấy có gì khác nhau?
Học sinh trả lời: Viết thư vừa thể hiện những tình cảm sâu kín, vừa giữ
được sự kín đáo, giảm bớt cảm giác xấu hổ cho người mắc lỗi, đó là cách ứng
xử tế nhị trong giao tiếp.
Ví dụ 4: Khi dạy vở chèo ‘‘Quan Âm Thị Kính”, đoạn trích “Nỗi oan hại
chồng”. Trong khi tìm hiểu về ngôn ngữ của nhân vật Sùng bà, tôi yêu cầu học
sinh tìm song song những lời nói của Sùng bà khi nói về nhà mình và khi nói về
nhà Thị Kính. Học sinh sẽ tìm được:
Khi nói về nhà mình
Khi nói về nhà Thị Kính
- Giống nhà bà đây giống phượng - Tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng
giống công.
lơ.
- Trứng rồng lại nở ra rồng.

- Liu điu lại nở ra dòng liu điu.

- Nhà bà đây cao môn lệnh tộc.

- Mày là con nhà cua ốc.
- Đồng nát thì về Cầu Nôm

Con gái nỏ mồm về ở với cha.
Qua đó, học sinh sẽ so sánh và rút ra nhận xét về ngôn ngữ của Sùng bà:
khi nói về nhà mình thì vênh váo, khoe khoang, hãnh diện; còn khi nói về nhà

Thị Kính thì dè bỉu, coi thường. Từ đó, học sinh thấy được sự phân biệt đối xử
của Sùng bà đối với Thị Kính.
2.3.4. Sử dụng phương pháp so sánh giúp học sinh dễ dàng rút ra kết
luận
Giáo viên yêu cầu học sinh so sánh chính là đưa học sinh vào tình huống
có vấn đề: Nó kích thích học sinh phải tư duy để nhận biết các dấu hiệu
thuộc tính
giống và khác nhau của đối tượng để rút ra kết luận.
Ví dụ 1: Khi dạy Văn bản “Cổng trường mở ra” để làm nổi bật tâm trạng
của người mẹ vào đêm trước ngày khai trường của con, tôi đã cho học sinh tìm
trong văn bản những chi tiết chỉ tâm trạng của mẹ và con vào đêm trước ngày
khai trường.

10


Đứa con
- Giấc ngủ đến dễ dàng

Người mẹ
- Mẹ không ngủ được.

- Có niềm háo hức.

- Mẹ không tập trung được vào việc gì
cả.

- Trong lòng không có bận tâm gì.

- Trằn trọc, băn khoăn.


=> Là một đứa bé ngây thơ, trong - Thao thức, lo lắng.
sáng.
=> Là một người mẹ sâu sắc, yêu
thương con hết mực.
Từ đó, giúp học sinh cảm nhận được tình cảm sâu sắc của người mẹ dành
cho con của mình.
Ví dụ 2: Khi dạy Văn bản “Sau phút chia li” - Trích “Chinh phụ ngâm”
của Đặng Trần Côn (Ngữ văn 7, tập 1), tôi có thể đưa ra tình huống so sánh: có
thể dùng “Sau phút chia tay” được không? Tại sao?
Để giải quyết câu hỏi này học sinh buộc phải tiến hành so sánh để nhận
biết những điểm giống nhau và khác nhau giữa các đối tượng “chia li” và “chia tay”
cụ thể.
- Giống nhau: Chào để rời xa nhau (Từ điển tiếng Việt phổ thông A của
nhà xuất bản Khoa học Xã hội, trang 210).
- Khác nhau:
+ Chia li: rời xa nhau mỗi người một ngả không còn sống chung với nhau
nữa (Từ điển tiếng Việt phổ thông A-C, NXB Khoa học Xã hội, trang 209).
+ Chia tay: chưa có sắc thái biểu cảm.
Học sinh rút ra kết luận: Không thể dùng “chia tay” mà phải dùng “chia
li” mới diễn tả được tính chất sầu thương, bi kịch của đôi vợ chồng chinh phu, chinh
phụ.
Do vậy sử dụng phương pháp so sánh hợp lý sẽ kích thích được tính tích
cực của học sinh, hạn chế thụ động, giúp giờ học sinh động hơn. Qua đó, giúp
học sinh rèn kĩ năng tạo lập kiểu văn bản cảm thụ và phân tích để làm bài nghị
luận văn bản ở các lớp tiếp theo trong chương trình và là mấu chốt để bồi dưỡng
học sinh năng
khiếu.
11



- Phương pháp so sánh giúp cho cả học sinh và giáo viên có cái nhìn hệ
thống về một phương diện nào đó giữa các văn bản. Điều này khắc phục được
một phần hạn chế của nội dung chương trình sách giáo khoa Ngữ văn, khi mà
tính liên kết dọc (theo Văn học sử) bị phá vỡ.
- Trong phương pháp so sánh, đối tượng được so sánh hầu hết là đơn vị
kiến thức mà học sinh được học qua. Khi so sánh học sinh phải huy động lại
kiến thức đó. Do vậy, so sánh chính là một hình thức giúp học sinh củng cố lại
kiến thức, ghi nhớ và khắc sâu.
2.3.5. Sử dụng phương pháp so sánh giúp học sinh khái quát kiến
thức
Khái quát hoá là thao tác tư duy nhằm rút ra bản chất chung trên cơ sở
phân tích những hiện tượng giống nhau. Hình thức so sánh này thường áp dụng
ở những tiết học mang tính chất “tổng kết” về một tác giả, một chùm bài...
Ví dụ 1: Tôi cho học sinh So sánh hai văn bản “Qua đèo ngang” và bài
“Chiều hôm nhớ nhà” của bà Huyện Thanh Quan để rút ra những phong cách
của tác giả.
Học sinh trả lời: Những đặc điểm chính về phong cách thơ của bà Huyện
Thanh Quan:
- Ngôn ngữ thơ trau chuốt, trang nhã, chuẩn mực.
- Ngoại cảnh thường vào buổi chiều tà, buồn vắng lặng.
- Nhân vật trữ tình luôn ở trạng thái cô đơn, hoài niệm hướng nội.
Ví dụ 2: Tôi cho học sinh So sánh hình thức biểu hiện của những câu ca
dao than thân để rút ra đặc điểm về nghệ thuật.
Học sinh trả lời: Những câu ca dao than thân thường dùng những con vật
bé nhỏ tội nghiệp để thể hiện cuộc sống vất vả, cơ cực của người nông dân trong
xã hội xưa.
Ví dụ 3: Tôi cho học sinh So sánh tác dụng của những yếu tố thần kì
trong các truyện cổ tích (Ngữ văn 6) để rút ra vai trò của nó trong truyện?
Học sinh trả lời: Yếu tố thần kì trong các truyện cổ tích thường chỉ xuất

hiện để trợ giúp các nhân vật bất hạnh, nhân vật “đàn em” mỗi khi nhân vật này
gặp hoàn cảnh khó khăn.Chính vì thế, nó là cơ sở để trí tuệ dân gian thể hiện

12


khát vọng chiến thắng giữa cái thiện và cái ác, thực hiện tư tưởng “Ở hiền gặp
lành”.
Trong phạm vi của đề tài, bài viết chỉ đề cặp đến một số hình thức so sánh
thông thường trong các giờ dạy Văn của môn Ngữ văn. Ngoài ra còn rất nhiều
hình thức so sánh khác, giáo viên có thể áp dụng trong các hoạt động khác nhau
của giờ học như: Hoạt động kiểm tra bài cũ; Hoạt động củng cố; Hoạt động
luyện tập…
* Một số chú ý khi sử dụng phương pháp so sánh
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
cần chú ý một số điểm sau:
Trước hết giáo viên cần phải nắm chắc kiến thức để có thể vận dụng
phương pháp so sánh một cách chính xác, linh hoạt thực sự hữu dụng, tránh đưa
ra tình huống so sánh khập khiễng, không rút ra được bản chất của hiện tượng,
hoặc không nhằm vào những vấn đề cơ bản trọng tâm.
Tình huống so sánh phải kích thích được tư duy của học sinh. Nhưng
cũng cần chú ý đến tính vừa sức, tránh khó quá. Với những câu hỏi khó, giáo
viên có thể gợi dẫn bằng những câu hỏi nhỏ, chi tiết hơn.
Ví dụ 1: So sánh những đặc trưng thi pháp của hai bài thơ “Qua đèo
Ngang” và “Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan để rút ra phong
cách của tác giả? Câu hỏi này thuộc dạng khó, giáo viên có thể gợi ý cho học
sinh so sánh cụ thể về các yếu tố: Ngôn ngữ, ngoại cảnh, tâm cảnh để rút ra kết
luận.
- Giáo viên cũng cần phải phát huy vai trò của tài liệu tham khảo để phần
liên hệ so sánh được phong phú hơn.

- Có những trường hợp đối tượng so sánh là kiến thức mà học sinh chưa
được tiếp xúc thì giáo viên phải sử dụng bảng phụ cho học sinh trực quan đối
tượng đó.
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Sau phút chia li” nếu giáo viên cho học sinh so
sánh với việc chia li của đôi vợ chồng trong thơ “Cuộc chia li màu đỏ” của
Nguyễn Mĩ thì đương nhiên giáo viên phải sử dụng bảng phụ ghi những câu thơ
cho học sinh so sánh, từ đó rút ra bản chất khác nhau của hai cuộc chia li trong
một hoàn cảnh tương tự.
13


Trong quá trình lên lớp, giáo viên cần giúp cho học sinh nhận thấy vai trò
của phương pháp so sánh, giúp các em có ý thức sử dụng, tạo ra được năng lực
tư duy so sánh. Bởi vì so sánh là một phẩm chất tư duy cần thiết để các em có
thể học
tốt môn Ngữ văn và cả các môn học khác.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua một năm rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những phương pháp
nêu trên . Tôi nhận thấy rằng: những bài học được áp dụng phương pháp này
một cách phù hợp đã đem lại hiệu quả hết sức rõ rệt số học sinh yếu lúc đầu rất
lơ là, thụ động trong việc tìm ra kiến thức thường ỷ lại các học sinh khá, giỏi
trong lớp, sau này đã có thể tham gia góp sức mình vào kết quả học tập của cả
lớp , qua đó các em tự tin hơn không mặc cảm vì mình yếu kém hơn các bạn,
mạnh dạn phát biểu xây dựng bài. Với hệ thống câu hỏi phù hợp, tôi giúp học
sinh nhận ra những đặc điểm của từng đơn vị kiến thức khác nhau, từ dễ đến
khó. Từ đó phát huy được tính tích cực của học sinh. Các em chủ động tìm các
đặc điểm của từng đơn vị kiến thức, sau đó rút ra kết luận và nhờ đó mà học sinh
nắm bắt kiến thức nhanh hơn, nhớ lâu hơn. Kết quả chất lượng dạy học ở môn
Ngữ văn khối 7, học kì II, năm học 2017-2018 được nâng lên.
Cụ thể, thống kê điểm trung bình môn Ngữ văn học kì II lớp 7 năm học

2017 – 2018 của trường PTDTBT THCS Xuân Lẹ là rất khả quan:
Lớp

Sĩ số

7A

29

Giỏi

Khá

Trung bình

SL

%

SL

%

SL

%

3

10,3%


19

65,5%

7

24,2%

Tôi tiếp tục áp dụng những giải pháp trên vào lớp 7B trong năm học
2018-2019. Kết quả môn Ngữ văn 7 của lớp tôi áp dụng (lớp 7B) học kì I như
sau:
Lớp

Sĩ số

Giỏi
SL

Khá
%

SL

Trung bình
%

SL

%


14


7A
(không vận dụng)
7B
(vận dụng)

26

2

8%

10

39%

14

53%

24

6

25%

14


58,3%

4

16,7%

Sau khi áp dụng phương pháp này vào một số bài học và kiểm tra lại, kết
quả cho thấy kiến thức hình thành từ phương pháp này được học sinh ghi nhớ rõ
ràng, tránh được những nhầm lẫn giữa đơn vị kiến thức này với đơn vị kiến thức
khác tương tự và tránh được nhầm lẫn khi vận dụng vào thực tế. Tôi tiếp tục tiến
hành điều tra khảo sát bằng phiếu trắc nghiệm lấy ý kiến của học sinh. Tôi tiến
hành điều tra hai lớp, trong đó một lớp thường xuyên áp dụng và một lớp không
thường xuyên áp dụng phương pháp so sánh. Kết quả điều tra như sau:
Số phiếu phát ra: 50
Số phiếu thu vào: 50
- Số phiếu trả lời đầy đủ: 50
* Kết quả:
- Phương pháp so sánh làm cho giờ học:
Tổng số HS
50

Mức độ (%)
Sinh động

Bình Thường

Không sinh động

82,1%


17,9%

0%

Mức độ (%)
Dễ
16,2 %

Hiệu quả
78,7 %

- Phương pháp so sánh là phương pháp:
Tổng số HS
50

Khó
5,1 %

3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Để giúp cho tôi cũng như các giáo viên khác trong việc giảng dạy môn
Ngữ văn đựơc tốt hơn, chúng ta cần tổ chức cho học sinh tiến hành các phương
pháp so sánh. Bởi phương pháp so sánh là một trong những phương pháp cần
thiết trong khi dạy phần Văn bản môn Ngữ văn. Mỗi giáo viên nên phát huy tác
dụng phương pháp này. Thực chất một số giáo viên, nhất là những giáo viên có

15



kinh nghiệm, có tay nghề cao, họ đã sử dụng phương pháp này từ lâu. Với
những giáo viên trẻ, kinh nghiệm chưa nhiều, họ có sử dụng nhưng việc sử dụng
còn mang tính chất “ngẫu nhiên” chưa ý thức khai thác, chưa phát huy được vai
trò của nó. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả giờ dạy-học Văn bản.
Với những tác dụng thiết thực, phương pháp so sánh có thể áp dụng
không chỉ vào phần Văn bản mà còn áp dụng tốt cho cả phần Tiếng Việt và Tập
làm văn (tên gọi cũ) trong chương trình Ngữ văn.
Trên đây chỉ là một số gợi ý ban đầu, trước hết giúp tôi xác định đúng
tầm quan trọng của việc sử dụng phương pháp so sánh và qua đó trình bày một
cách sơ lược việc sử dụng phương pháp so sánh trong dạy học phần Văn bản
môn Ngữ văn. Hy vọng rằng những kinh nghiệm trên đây sẽ hữu ích, được
nhiều đồng
nghiệp ứng dụng trong việc cải tiến phương pháp dạy học Ngữ văn.
3.2. Kiến nghị
Để học sinh yêu thích môn học là nhiệm vụ của người thầy và để nâng
cao chất lượng dạy và học tôi xin đề xuất một số vấn đề sau:
- Đối với giáo viên: Phải tự học, tự bồi dưỡng và tham khảo nhiều tài
liệu, luôn hỏi đồng nghiệp để không ngừng nâng cao chuyên môn và nghiệp vụ
cho bản thân.
- Đối với nhà trường: Trang bị cho chúng tôi những đồ dùng dạy học,
đặc biệt là tranh ảnh, tư liệu.
- Cung cấp thêm tài liệu tham khảo để hỗ trợ cho việc dạy và học.
- Tổ chức những chuyên đề mang tính chuyên sâu để chúng tôi được học
hỏi, trao đổi kinh nghiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2019

CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

16


Lê Thị Hào

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài tập rèn kĩ năng tích hợp Ngữ văn 7 (Vũ Nho chủ biên).
2. Bồi dưỡng và nâng cao kiến thức Ngữ văn 7 (Nguyễn Văn Điệp chủ biên).
3. Dạy và học từ Hán Việt ở trường phổ thông (Hà Quang Năng chủ biên).
4. Sách giáo khoa Ngữ văn 6.
5. Sách giáo khoa Ngữ văn 7.
6. Sổ tay kiến thức Ngữ văn 7 (Nguyễn Trí chủ biên).
7. Từ điển Tiếng Việt (NXB khoa học xã hội).

17


18



×