Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 5 6 tuổi theo hướng lấy trẻ làm trung tâm ở trường mầm non thọ thế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 26 trang )

MỤC LỤC
Cấu trúc
Mục lục
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọ đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu quả hoạt động
khám phá khoa học theo hướng lấy trẻ làm trung tâm đối với
trẻ 5-6 tuổi trường mầm non Thọ Thế.
2.2. Thực trạng của việc tổ chức hoạt động khám phá khoa
học cho trẻ 5-6 tuổi theo hướng lấy trẻ làm trung tâm ở
trường mầm non Thọ Thế - H. Triệu Sơn trước khi áp dụng
sáng kiến
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khám phá
khoa học cho trẻ 5-6 tuổi theo hướng lấy trẻ làm trung tâm ở
trường mầm non Thọ Thế
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm đã được hội
đồng đánh giá xếp loại
Phụ lục

Trang
1


2
2
3
3
3
4
4
5

6
19
21
21
21
22
23
24-26

1. Mở đầu
1


1.1. Lí do chọn đề tài:
Năm học 2018-2019 ngành học mầm non bước sang năm thứ ba thực hiện
chương trình giáo dục mầm non theo hướng lấy trẻ làm trung tâm. Muốn nâng cao
chất lượng giáo dục thì trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giỏi về
chuyên môn, vững vàng về nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, có kỹ năng nghiệp
vụ sư phạm, nhiệt tình yêu nghề mến trẻ gần gũi trẻ. Biết ứng dụng công nghệ thông
tin và khai thác những thông tin trên mạng nhằm áp dụng vào các hoạt động thiết
thực một cách hợp lý và mang tính giáo dục cao. Biết phối hợp chặt chẽ với cha mẹ

trẻ để nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ. Tăng cường tổ chức các hoạt động cho trẻ
theo hướng lấy trẻ làm trung tâm.
Có thể nói thực hiện mục tiêu giáo dục lấy trẻ làm trung tâm thì các hoạt động
trải nghiệm ngày càng đóng vai trò quan trọng mà trọng tâm là hoạt động khám phá
khoa học; bởi trẻ ở lứa tuổi này rất thích tìm hiểu, khám phá môi trường xung quanh;
thế giới xung quanh thật bao la rộng lớn, có biết bao điều mới lạ hấp dẫn và còn có
bao lạ lẫm khó hiểu, trẻ tò mò muốn biết, muốn được khám phá. Khám phá khoa học
mang lại nguồn biểu tượng vô cùng phong phú, đa dạng, sinh động, đầy hấp dẫn với
trẻ thơ, từ môi trường tự nhiên (cỏ cây, hoa lá, chim ….) đến môi trường xã hội (công
việc của mỗi người trong xã hội, mối quan hệ của con người với nhau …) và trẻ hiểu
biết về chính bản thân mình, vì thế trẻ luôn có niềm khao khát khám phá, tìm hiểu về
chúng. Khám phá khoa học đòi hỏi trẻ phải sử dụng tích cực các giác quan chính vì
vậy sẽ phát triển ở trẻ năng lực quan sát, khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp,…
nhờ vậy khả năng cảm nhận, tư duy của trẻ sẽ nhạy bén, chính xác, những biểu
tượng, kết quả trẻ thu nhận được trở nên cụ thể, sinh động và hấp dẫn hơn. Qua
những thí nghiệm nhỏ trẻ được tự mình thực hiện trong độ tuổi mầm non sẽ hình
thành ở trẻ những biểu tượng và chính là cơ sở khoa học sau này của trẻ.
Bản thân tôi trực tiếp được tham gia khóa học bồi dưỡng thường xuyên qua đợt
tập huấn module trực tuyến của Bộ giáo dục trong đó có module dành cho bậc mầm
non đề cập đến phương pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, thiết kế môi trường giáo
dục lấy trẻ làm trung tâm và cách lập kế hoạch trên quan điểm giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm. Nắm bắt và áp dụng ngay trong lớp học nơi đơn vị công tác tôi nhận thấy
khám phá khoa học là bộ môn mang tính ứng dụng cao và đặc biệt cần chú ý đến đặc
điểm cá nhân, nhu cầu, hứng thú của trẻ trong đó có sự phù hợp về điều kiện đơn vị
và địa phương trẻ sinh sống nhưng không được tách rời mục tiêu chung của giáo dục,
đặc biệt là việc chuẩn bị hành trang cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi vào lớp 1.
Để tổ chức hoạt động khám phá khoa học đồng thời giúp trẻ hứng thú tiếp cận
và học tốt hoạt động khám phá khoa học bản thân rất trăn trở, làm thế nào để tạo
được hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt động khám phá khoa học? Và tôi đã tìm ra
“Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 5-6

tuổi theo hướng lấy trẻ làm trung tâm ở trường mầm non Thọ Thế”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Việc xây dựng hoạt động dựa trên hứng thú, nhu cầu, kinh nghiệm và khả năng
của trẻ, bản thân mong muốn đưa ra một số giải pháp phù hợp nhất với trẻ 5-6 tuổi
lớp A2 để hình thành thói quen chủ động, thích tự trải nghiệm khám phá về thế giới
2


xung quanh nhằm tạo cơ hội cho trẻ được phát triển toàn diện, không chỉ chú trọng
tới sự phát triển trí tuệ mà còn nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển thể chất và khả năng
giao tiếp xã hội của trẻ. Đồng thời, thông qua nghiên cứu lần này thu hút được sự
tham gia của phụ huynh, các tổ chức, đoàn thể khác có trách nhiệm cùng nhà trường
nâng cao chất lượng giáo dục trẻ. Từ đó rút ra được một số bài học cho bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường cũng như tự học tập nâng cao kiến thức, tay nghề, kỹ
năng sư phạm.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khám phá khoa học cho trẻ
mẫu giáo 5-6 theo hướng lấy trẻ làm trung tâm áp dụng trực tiếp cho trẻ 5-6 tuổi ở
trường mầm non Thọ Thế, Huyện Triệu Sơn, Tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
Phương pháp thống kê xử lý số liệu:
Phương pháp trực quan, thực hành, trải nghiệm
Phương pháp đánh giá trẻ mầm non

2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận của việc tổ chức hoạt động khám phá khoa học lấy trẻ
làm trung tâm đối với trẻ 5-6 tuổi trường mầm non Thọ Thế.
3



Vấn đề tạo hứng thú cho trẻ trong lý luận dạy và học có những quan niệm khác
nhau về vai trò của giáo viên và học sinh, nhưng quy tụ lại có hai hướng: Hoạt động
lấy giáo viên làm trung tâm hoặc hoạt động lấy học sinh làm trung tâm. Những năm
gần đây các tài liệu giáo dục ở nước ngoài và trong nước thường nói tới việc cần thiết
phải chuyển từ dạy học lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy học lấy trẻ làm trung
tâm, đây là một xu hướng tất yếu của nền giáo dục mà chúng ta đang áp dụng hiện
nay.[1]
Trong công tác giảng dạy người giáo viên luôn quan tâm trước hết đến việc
hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền thụ tới trẻ cho hết nội dung quy định trong
chương trình, cố gắng làm cho mọi học sinh hiểu và nhớ những lời cô dạy. Cũng từ
đó hình thành kiểu học thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ.
Để khắc phục tình trạng đó, cần phát huy tính tích cực chủ động học tập của
trẻ, quan tâm đến nhu cầu khả năng của mỗi cá nhân trẻ trong tập thể lớp. Các
phương pháp “Dạy học tích cực”, “Lấy người học làm trung tâm” đã đưa lại hiệu quả
cao.
Theo tiến sĩ Phan Thị Thu Hiền, chuyên gia về giáo dục đầu đời tại Việt Nam
cho biết “Cách tiếp nhận tốt nhất để giáo dục các phương pháp dạy học tích cực nhằm
thúc đẩy sự phát triển tính chủ động, khả năng tư duy phản biện và giải quyết vấn đề
cho trẻ là cách tiếp cận tốt, thường thể hiện tính tích hợp cao và kết nối việc học với
thực tế đời sống của trẻ”[1]. Hiện nay trên thế giới có một số mô hình, cách tiếp cận
trong giáo dục đầu đời được các nhà chuyên gia giáo dục đánh giá cao. Mỗi mô hình,
cách tiếp cận có thể có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau, nhưng hầu hết các
nhà giáo dục hàng đầu trên thế giới đều thừa nhận những mô hình kể trên đều tốt.
Tại trường mầm non Thọ Thế, căn cứ vào kế hoạch nhiệm vụ năm học 20182019 của trường: Chương trình giáo dục Mầm non theo Thông tư 28/2016/TTBGDĐT ngày 30/12/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc sửa đổi, bổ sung một
số nội dung của Chương trình giáo dục mầm non ban hành kèm theo Thông tư
17/2009/TT-BGDĐT ngày 25/07/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo: Hoạt
động chủ đạo của trẻ “Chơi mà học, học mà chơi”[3] thông qua các hoạt động đa
dạng phong phú mà trẻ lĩnh hội kiến thức trong cuộc sống xung quanh trẻ.

Chương trình giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, tạo điều kiện cho mỗi đứa trẻ
được hoạt động tích cực phù hợp với sự phát triển của bản thân trẻ, đáp ứng tối đa
nhu cầu và hứng thú của trẻ trong quá trình giáo dục.[2]
Thực tế cho thấy việc tổ chức các hoạt động theo hướng lấy trẻ làm trung tâm
đã tạo ra một không gian mở cho trẻ, khuyến khích trẻ phát triển tư duy và khả năng
giải quyết vấn đề. “Giaó viên tạo cơ hội cho trẻ tích cực hoạt động, chú trọng hướng
dẫn trẻ bằng phương pháp trải nghiệm, khám phá, quan sát, bắt chước, sáng tạo,
tưởng tưởng, thử nghiệm, thực hành giao tiếp, giải quyết nhiệm vụ, học có hướng
dẫn,…tương tác theo cá nhân, nhóm và cả lớp, thông qua chơi là chủ yếu.”[2]. Nếu
trẻ được tạo nhiều cơ hội tự tham gia trải nghiệm khám phá thì trẻ có thể được phát
triển tư duy sáng tạo, có nhiều cơ hội phát triển ngôn ngữ, tình cảm xã hội, phát triển
thẩm mỹ, thể chất, phát triển nhận thức. Những lợi ích đó có liên hệ trực tiếp với
4


phương pháp dạy của các giáo viên, đó chính là cách tổ chức các hoạt động cho trẻ
theo hướng lấy trẻ làm trung tâm.
2.2. Thực trạng hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 5-6 tuổi theo hướng
lấy trẻ làm trung tâm ở trường mầm non Thọ Thế.
a. Thuận lợi
Trường mầm non Thọ Thế có cơ sở khang trang với 10 phòng học, một dãy
nhà hiệu bộ, 1 phòng chức năng, 1 phòng y tế; sân chơi rộng rãi an toàn, có cây xanh
bóng mát và đồ chơi ngoài trời theo quy định;
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên
có đủ phương tiện để chăm sóc và dạy trẻ như mở các lớp bồi dưỡng công nghệ thông
tin cho giáo viên, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ…
Đa số phụ huynh của lớp nhiệt tình, quan tâm chu đáo tới con em và thường
xuyên trao đổi với giáo viên về tình hình học tập của con em mình.
Năm học 2018-2019 tôi được nhà trường phân công đứng lớp mẫu giáo A2 (56 tuổi) với tổng số trẻ là 26 trẻ trong đó có 11 nam, 15 nữ, không có trẻ dân tộc;
không có trẻ khuyết tật; đa số trẻ của lớp nhanh nhẹn, có sức khoẻ tốt; lớp được trang

bị đầy đủ các trang thiết bị, đồ dùng thuận tiện như: đàn, ti vi,.. phù hợp với trẻ. Bản
thân có trình độ trên chuẩn; tâm huyết với ngành học, yêu nghề mến trẻ có phẩm chất
nghề nghiệp, nghiệp vụ sư phạm tốt có tinh thần cầu tiến và là giáo viên cốt cán của
trường.
b. Khó khăn
Đa số ở độ tuổi này trẻ còn mải chơi, chưa tập trung chú ý trong học tập; nhiều
phụ huynh nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của việc tham gia trải nghiệm và
tổ chức hoạt động khám phá khoa học đối với sự phát triển của trẻ, thường phụ huynh
chỉ quan tâm xem con mình đã đọc, viết được chữ cái hay chưa mà không quan tâm
đến các mặt khác.
Trẻ còn thụ động, ít có sự tự tin mạnh dạn và cũng ít có nhu cầu hứng thú được
tham gia, vốn kiến thức rất hạn chế nên trẻ chưa phát huy được hết tính tích cực của
mình khi tham gia vào hoạt động khám phá khoa học cũng như các hoạt động khác.
Kinh tế địa phương còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến việc huy
động sự tham gia của phụ huynh.
Trong thực tế khi giáo viên tổ chức cho trẻ trải nghiệm thì còn lúng túng, chưa
linh hoạt, sáng tạo trong quá trình giảng dạy. Chưa có nhiều kỹ năng trong việc sử
dụng biện pháp gây hứng thú, thường là câu hỏi đóng, không lấy trẻ làm trung tâm
nên chưa phát huy tính tích cực, chủ động của trẻ. Cách xây dựng kế hoạch, lựa chọn
mục tiêu, lối dẫn dắt lôi cuốn trẻ còn nhiều hạn chế; đa số giáo viên còn dạy trẻ theo
hướng lấy giáo viên làm trung tâm, cô hướng dẫn nhiều, nói nhiều; trẻ ít được thực
hành trao đổi.
Qua khảo sát chất lượng của trẻ lớp A2 đầu tháng 9/2018 cho thấy hứng thú
tham gia vào giờ học của trẻ còn thấp; tỉ lệ trẻ có ý thức tự thực hiện tốt yêu cầu của
tiết học, nắm vững kiến thức vận dụng linh hoạt sáng tạo vào thực tế chưa cao; đặc
biệt khả năng tư duy phản biện và giải quyết vấn đề của trẻ rất thấp. (Xem phụ lục 1)
5


2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khám phá khoa học cho

trẻ 5-6 tuổi theo hướng lấy trẻ làm trung tâm ở trường mầm non Thọ Thế”.
2.3.1. Giải pháp thứ nhất: Chú trọng bồi dưỡng chuyên môn cho bản thân
Chất lượng chuyên môn phụ thuộc rất lớn vào bản thân mỗi giáo viên do đó
yếu tố con người đóng vai trò quyết định mà các văn kiện của Đảng và Nhà nước đều
nêu rõ trong chỉ thị 40/CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban bí thư TW Đảng về việc xây
dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Người thầy
cần giỏi về chuyên môn, đồng thời lại phải tốt về nhân cách mới thực hiện được
nhiệm vụ của mình, thực sự là những “Kỹ sư tâm hồn”. Bồi dưỡng về nhận thức và
chuyên môn của bản thân mỗi giáo viên là một việc làm vô cùng cần thiết giúp giáo
viên có nhận thức đúng đắn trang bị cho giáo viên những hiểu biết, các kiến thức về
chuyên môn giúp giáo viên chủ động, tự tin trong quá trình tổ chức các hoạt động
chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và hoạt động khám phá khoa học nói riêng.
Từ nhận thức về ý nghĩa của việc tự học tự bồi dưỡng, bản thân tôi luôn tham
gia đầy đủ các buổi bồi dưỡng chuyên môn do Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ chức,
các buổi sinh hoạt chuyên môn tại nhà trường, lắng nghe và ghi chép một cách
nghiêm túc, mạnh dạn trao đổi với giảng viên, cán bộ quản lí các trường những vấn
đề còn chưa rõ, chưa hiểu, những vấn đề mà tôi quan tâm về đổi mới phương pháp
giảng dạy.
Xác định tự học, tự nghiên cứu tài liệu cũng là một việc làm không thể thiếu
được trong việc nâng cao nghiệp vụ của giáo viên nên tôi đã tìm kiếm những tài liệu,
sách vở về đổi mới phương pháp giảng dạy, lấy trẻ làm trung tâm, kỹ năng nghiệp vụ
của giáo viên và tự đọc, tự nghiên cứu để rút ra được những vấn đề cần thiết đối với
bản thân trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy đặc biệt là trọng việc tổ chức
hoạt động khám phá khoa học.
Dự giờ thao giảng có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc bồi dưỡng và tự bồi
dưỡng của mỗi giáo viên, qua dự giờ thao giảng cả người dạy và người dự đều rút ra
được những kinh nghiệm về chuyên môn cho mình. Để giúp bản thân hiểu sâu sắc
vấn đề đổi mới phương pháp và đối chiếu giữa kiến thức sách vở với thực tiễn tôi đã
mạnh dạn xây dựng một số hoạt động và đăng ký dạy thao giảng để cán bộ quản lí
nhà trường và đồng nghiệp dự giờ, thông qua đó tôi được nghe đồng nghiệp thảo

luận, góp ý rút kinh nghiệm, được nghe các đồng chí cán bộ quản lí phân tích cụ thể
các tiết dạy đó là: Tiết dạy đã đổi mới chưa; đổi mới ở chỗ nào; đã lấy trẻ làm trung
tâm chưa; có gì khác so với cách dạy khác và tiết dạy đó thực sự mang lại hiệu quả
chưa?... Từ đó rút ra được những kinh nghiệm cho bản thân trong việc đổi mới tổ
chức và việc vận dụng vào hoạt động khám phá khoa học lấy trẻ làm trung tâm vào
quá trình giảng dạy.
Tham gia các buổi chuyên đề cấp huyện, tìm hiểu và học BDTX đặc biệt là
việc vận dụng kiến thức đã học ở module mầm non trực tuyến.
Tham gia thi giáo viên giỏi trường, huyện nhằm nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và với kỳ thi giáo viên giỏi cấp huyện vừa qua bản thân cũng đã dạy một
tiết về hoạt động khám phá khoa học được hội đồng thi đánh giá cao, góp phần vào
6


thành tích chung khi được khen thưởng trong tốp 6 thí sinh xuất sắc nhất ở kỳ thi giáo
viên giỏi cấp huyện năm học: 2018-2019.
2.3.2. Giải pháp thứ hai: Tăng cường thiết bị, đồ dùng dạy học và tạo môi
trường cho trẻ hoạt động khám phá khoa học lấy trẻ làm trung tâm.
Đây là giải pháp quan trọng mà người giáo viên tổ chức hoạt động khám phá
khoa học theo hướng lấy trẻ làm trung tâm cần phải có đó là sự sáng tạo trong thiết kế
xây dựng, lựa chọn đề tài cũng như tạo dụng cụ dạy học đồ dùng đồ chơi, cách sưu
tầm tranh ảnh, xây dựng mô hình, tạo và lựa chọn môi trường hoạt động học trong và
ngoài lớp cho trẻ giúp trẻ có điều kiện tiếp cận với cách học mới gây được sự tò mò
thích khám phá trong trẻ hơn. Khi sử dụng biện pháp này trẻ được tiếp xúc với cách
học mới mà trẻ hằng mong đợi ở trường, đồ dùng, thiết bị học càng phong phú thì trẻ
sẽ có điều kiện tiếp cận nhiều hơn làm khắc sâu hình tượng, ghi nhớ và nảy sinh
nhiều sáng kiến với đồ dùng hơn.
* Môi trường tinh thần:
Nhằm tạo môi trường tốt nhất cho trẻ hoạt động khi xây dựng tiết dạy bản thân
đã nghiên cứu kỹ nội dung đề tài, xác định trọng tâm kiến thức, kỹ năng bài học và

các hình thức tổ chức hoạt động diễn ra trong tiết dạy.
Chuẩn bị hệ thống câu hỏi, mục đích giải quyết, dự kiến các tình huống ở trẻ
và hướng khắc phục.
Lựa chọn hình thức tổ chức tiết học phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của
lớp, phù hợp với đề tài và lĩnh vực mà mình đã chọn.
Tạo sự gần gũi, sự tin cậy cho trẻ được bộc lộ khả năng và ý thích của bản thân
một cách rõ ràng nhất như bố trí trẻ ngồi học theo nhóm để tăng cường sự giao lưu ở
trẻ với trẻ khi bàn bạc trong nhóm hay giữa trẻ với cô khi phối kết hợp giữa hai giáo
viên trong lớp chia nhau qua các nhóm để trò chuyện….
Ví dụ: Để chuẩn bị cho hoạt động phám phá sự kỳ diệu của nước tôi bố trí như
sau: Cho trẻ ngồi thành 4 nhóm: nhóm 1 là nhóm cây, hoa…; nhóm 2 các con vật
dưới nước; nhóm 3 là các loài chim, nhóm 4 là các loài vật sống trên cạn; 1 trẻ cầm ô
ra múa cùng cô đóng làm mưa. Một cô sẽ đóng làm giọt nước, cô còn lại là người dẫn
dắt câu chuyện, đến các phần trải nghiệm cầm, nắm nước hay cảm giác sờ vào nước
đá; có cầm được nước đá hay không, hay các con hòa cát vào nước thì thấy hiện
tượng gì?...
Ví dụ: Góc yên tĩnh xa góc hoạt động ồn ào; góc xây dựng và góc phân vai ở
gần nhau và xa góc sách, góc xây dựng tránh lối đi lại. Góc tạo hình gần nguồn nước,
góc thiên nhiên ở ngoài hiên. Các góc có khoảng rộng, cách nhau hợp lý để bảo đảm
an toàn và vận động của trẻ, thuận tiện cho trẻ khám phá.
* Môi trường vật chất:
Bên cạnh đầu tư trang trí phù hợp chủ đề, bản thân chú trọng đến việc tự làm
đồ dùng đồ chơi ở góc và sắp xếp sao cho thu hút trẻ; vừa tạo cho trẻ khám phá, trải
nghiệm thông qua hoạt động góc, tạo môi trường để trẻ tự trải nghiệm.
Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề: “Thế giới thực vật”
Ở góc thiên nhiên là góc dành riêng cho trẻ để khám phá xung quanh; ở góc
này tôi trồng nhiều cây xanh, bố trí sẵn bình nước tưới, để trẻ vừa chăm sóc cây và
7



khám phá; Trong quá trình chăm sóc hình thành kỹ năng, kỹ xảo lao động, phẩm chất
yêu lao động, thiên nhiên, ý thức trách nhiệm trong công việc.
Trong hoạt động ngoài trời tôi cho trẻ quan sát những sự thay đổi lá trên từng
cây; sự giống nhau và khác nhau giữa các loại cây ra hoa, cây ăn quả, cây cho bóng
mát. Từ đó trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và hình thành thái độ đúng đắn
với môi trường, rèn luyện kỹ năng chăm sóc cho cây.
Ví dụ: Ở chủ đề nghề nghiệp góc phân vai tôi chuẩn bị các loại đồ dùng phục
vụ cho nhiều ngành nghề khác nhau để trẻ lựa chọn và chơi theo theo ý thích hoặc đó
cũng chính là nơi cô cho trẻ khám phá về cửa hàng tạp hóa của “Cô chim công” trong
hoạt động “giới thiệu về công việc của tôi”…

Cửa hàng tạp hóa của cô chim công trong hoạt động khám phá
- Tạo ranh giới giữa các góc hoạt động
Ví dụ: Sử dụng giá dựng đồ chơi quay lại tạo thành ranh giới cho góc chơi.
Ranh giới ở các góc không che tầm nhìn của trẻ và không cản việc quan sát của giáo
viên. Thay đổi vị trí các góc sau mỗi chủ đề để tạo cảm giác mới lạ, kích thích hứng
thú của trẻ. Ngoài ra tôi cũng dùng vỏ hến, ốc trai, sò … vỏ trứng vệ sinh sạch sẽ vừa
làm đồ dùng, đồ chơi phong phú vừa rẻ tiền vừa dễ kiếm. Các tranh, lô tô đều được
phân loại để ở giá vừa dễ lấy, dễ tìm.
Ví dụ: Tôi phân loại lô tô: Lô tô con vật xếp vào một ô, lô tô các loại quả xếp
vào một ô; Đối với tranh đều có chữ cái tương ứng ở dưới cũng được phân loại xếp
gọn gàng và dễ kiếm.
- Tạo phương tiện cho trẻ khám phá ngay trên các mảng tường:
Tôi chọn một góc sáng dễ quan sát, tôi làm một cây chuối từ nhiều chất liệu,
cây có lá, có buồng nổi hẳn lên trên bề mặt của tường. Bất cứ ai bước vào lớp học
cũng bị thu hút sự chú ý bởi loại cây này. Tôi nghĩ đây chính là một loại phương tiện
8


đồ dùng để cho trẻ được trải nghiệm, được khám phá, nó sẽ hấp dẫn hơn nhiều các

bức tranh vẽ mà trẻ vẫn thường được học…Hay ở mảng chủ đề tôi gắn thân cây nổi
với các lá linh động gắn vào dạ có thể dễ dàng tháo gỡ và thay thế tạo sự mới mẻ cho
chủ đề. Tất cả những điều đó như tạc vào tâm hồn trẻ cả một thế giới tự nhiên sống
động, tươi mát, trong trẻo; để trẻ đắm mình trong thế giới tự nhiên để trầm trồ, ngắm
nghía, thậm chí là đưa tay để sờ, để cảm nhận. Sự vui tươi, hứng khởi đã lộ rõ trên
khuôn mặt trẻ bởi chính cô giáo chúng đã mang đến cho chúng cả một thế giới thiên
nhiên, thế giới bạn bè đầy thân thiện.
Các tranh tường là những góc mở rất thuận lợi để trẻ hoạt động khám phá cũng
như sáng tạo và tích cực hơn. Với chất liệu từ dạ nên trẻ thoải mái sáng tạo gắn họa
tiết vào mảng tranh tường và chỉnh sửa tùy ý tưởng của trẻ, không bị dập khuôn lại
phát huy được dấu ấn cá nhân của trẻ trên mảng hoạt động mở.

Hoạt động ở mảng chủ đề chính

Hoạt động với góc xây dựng

2.3.3. Giải pháp thứ ba: Tạo tình huống có vấn đề cho trẻ giải quyết.
Có thể nói rằng: Việc tạo các tình huống trong quá trình giảng dạy là rất cần
thiết; nó giúp trẻ chú ý vào hoạt động hơn, trẻ cần suy nghĩ để giải quyết vấn đề, qua
đó khả năng chú ý, tư duy của trẻ phát triển.[4]
- Với chủ đề Động vật:
Tôi tiến hành cho trẻ xem một phần hình ảnh để trẻ đoán ra con vật ẩn sau hình
ảnh, hoặc cho trẻ xem hình ảnh vịt đang bị khỉ đuổi bắt cạnh đó có một cái hồ nước.
Cô lo lắng nói: Các con hãy chỉ cho bạn vịt cách nào để không bị khỉ bắt?
Từ tình huống này trẻ nhớ lại đặc tính của loài vật và ghi nhớ rằng vịt biết bơi
có thể xuống nước, còn khỉ không biết bơi sẽ không xuống nước bắt vịt được; như
vậy trẻ đã tìm ra được giải pháp cho vấn đề cô đưa ra một cách tích cực và mang hiệu
quả cao.
- Với chủ đề nước và hiện tượng tự nhiên:
9



Bài khám phá đất, đá, sỏi: Cô áp dụng câu chuyện “Quạ uống nước”: Bây giờ
nước trong lọ còn rất ít cổ lọ lại nhỏ nên Quạ không thể nào thò đầu xuống đáy lọ để
uống nước mà xung quanh là bãi đất trống - các con hãy nghĩ cách giúp bạn Quạ kẻo
bạn ấy khát khô cả cổ rồi?
Lúc này trẻ sẽ bàn với nhau cách giúp quạ uống nước trong lọ, sau đó trẻ nói
lên cách của mình; cô có thể để trẻ thử thực hiện với cách mà trẻ nêu ra để cùng tìm
cách giải quyết; dần dần cô hướng đến việc dùng sỏi bỏ vào lọ cho nước dâng lên và
uống để thấy được lợi ích của những viên đá, sỏi trong tình huống này.
Với đồ dùng này cô cũng có thể đưa ra tình huống khác như: Các con nghĩ chai
nước này có thể đầy lên được không? Bạn nào nghĩ được cách gì để chúng ta có được
chai nước đầy nào? Hay các con nghĩ bỏ sỏi vào chai thì có hiện tượng gì xả ra?...
Cùng một loại đồ dùng nhưng tôi có thể sử dụng trong nhiều tình huống khác
nhau vừa là phương tiện giáo dục trẻ song cũng giúp trẻ có cái nhìn toàn diện hơn về
tác dụng đa dạng của đồ dùng tùy theo mục đích giáo dục, chủ đề thực hiện.

Tình huống “giúp Quạ uống nước” trong chủ đề đất, đá, sỏi
2.3.4. Giải pháp 4: Tạo điều kiện cho trẻ tham gia hoạt động trải nghiệm
dựa trên năng lực và đặc điểm cá nhân
Nếu có ai nói rằng “cho trẻ hành động theo ý thích và suy nghĩ của trẻ là sai
lầm” thì tôi nghĩ chính người nói như thế mới sai lầm. Bởi với vai trò là một người
lớn, một giáo viên thì nhiệm vụ chính của chúng ta là giúp trẻ gặp khó khăn, hướng
dẫn trẻ một cách kịp thời để luôn đi đúng hướng. Tuyệt đối không để ý nghĩ là mình
nói trẻ làm gì thì trẻ làm đó, mọi việc là có người lớn chuẩn bị sẵn chỉ cần làm theo y
như vậy thì sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra. Việc này vô hình dung đã để lại sự chủ
quan, ỷ lại vào người lớn nơi trẻ.
Với vai trò là giáo viên hàng tuần trước khi nghỉ ngày thứ 7 và chủ nhật tôi gợi
ý cho trẻ một nhiệm vụ như quan sát cây trong vườn,..quan sát đồng lúa trước khi
bước vào chủ đề quê hương…; hoặc sau khi đã khám phá ở hoạt động trên lớp để trẻ

được vừa chơi với hai ngày nghỉ, đồng thời trẻ được chứng tỏ với ba mẹ ở nhà những
gì trẻ đã được hướng dẫn từ cô giáo và bây giờ khi nói với bố mẹ trẻ lại một lần nữa
10


được học cách nói chuyện, cách trình bày của chính người thân của trẻ; giúp cho trẻ
khắc sâu kiến thức đã được học, bản thân trở nên mạnh dạn, tư tin hơn.
Ví dụ: Tôi gợi ý với trẻ đề tài “ Hãy nói một nghề mà bé biết. Đồng thời nói
lên ước mơ của bản thân mình sau này thích làm nghề gì? Tại sao?”.
Với đề tài này tôi cho trẻ được về nhà hỏi những người thân quen về một nghề
hoặc yêu cầu bố, mẹ dẫn đi quan sát, thậm chí cả việc trò chuyện với người đang làm
các nghề để trẻ được trực tiếp nghe, quan sát rồi suy nghĩ và nêu được lý do khi chọn
một nghề sau này; trẻ có thể tham gia trải nghiệm thử qua đó sẽ có vốn kiến thức rất
nhiều và cứng từ đây chính là nền tảng để trẻ mạnh dạn tự tin, phát triển tư duy trí
nhớ và kỹ năng xã hội….
Trẻ mầm non là lứa tuổi rất hiếu động, thích khám phá, tìm tòi, thích được sờ,
ngửi, nắn….Vì vậy một trong những phương pháp giáo dục mang lại hiệu quả cao
nhất đối với trẻ khi tổ chức hoạt động khám phá là phương pháp thực hành và trải
nghiệm. Thông qua các thao tác nhìn, sờ, ném, ngửi…trẻ dễ dàng lĩnh hội nắm bắt và
khắc sâu kiến thức.
Với trẻ nhận thức tốt và nhanh cô đặt câu gợi mở các vấn đề khó hơn, còn với
trẻ nhận thức chậm cô chú ý gợi ý từng bước một từ dễ đến khó nhưng độ khó vừa
phải để trẻ có thể hiểu được, với trẻ nhút nhát cô nhẹ nhàng tình cảm thủ thỉ, còn với
trẻ linh hoạt năng động thì tạo cho trẻ cảm giác phấn khích tham gia…
Ví dụ: Khi tìm hiểu về quả cam tôi dùng quả cam thật cho trẻ quan sát và trải
nghiệm, cho trẻ sờ, nếm, ngửi. Tôi nói: “Hãy quan sát và nói cho cô nhận xét của con
về loại quả này? Cho trẻ tự bổ cam nếm thử vị của cam sau đó hỏi trẻ về vị của cam
(có trẻ nói chua, trẻ nói ngọt) từ đó tập cho trẻ suy nghĩ xem lí do tại sao có bạn nếm
thấy chua mà có bạn lại nếm thấy ngọt?
Khi được trải nghiệm thực tế trẻ đã nắm vững những kiến thức tôi muốn truyền

đạt một cách tự nhiên chứ không phải sự áp đặt của cô như trước đây; tuy nhiên với
những trẻ khả năng tiếp thu chậm tôi thường khuyến khích và đặt câu hỏi dễ hơn cho
trẻ như: Con thấy quả này ở đâu rồi? Cô và con cùng bổ cam nhé…
Ngoài việc tạo cơ hội cho trẻ trực tiếp trải nghiệm với đồ thật vật thật, thông
qua hoạt động khám phá tôi còn thường xuyên cho trẻ tham gia trải nghiệm tìm hiểu
các hiện tượng thông qua hoạt động thực hành thí nghiệm; thí nghiệm đơn giản luôn
tạo cho trẻ sự hứng thú, kích thích trẻ tích cực hoạt động; phát triển ở trẻ tính tò mò,
ham hiểu biết, thích khám phá, tìm tòi, phát triển óc quan sát, phán đoán và các năng
lực hoạt động trí tuệ; Chia trẻ thành nhóm, trong nhóm có nhóm trưởng để trẻ hoạt
động nhằm tăng cường sự tương tác giữa trẻ.
Ví dụ: Tìm hiểu các trạng thái của nước:
Đặt 4 chậu nước về 4 nhóm cho trẻ cầm, nắm nước trong bàn tay, hỏi trẻ có
cầm, nắm nước được không? (Hỏi theo nhóm)
Vì sao ta không cầm, nắm được nước? (Hỏi theo nhóm)
Cô chốt lại: Nước là chất lỏng nên không cầm, nắm được.
Chúng mình vừa biết được nước là một chất lỏng, vậy ngoài chất lỏng nước
còn có ở dạng nào?
Cô đưa khay đá cho trẻ sờ, thấy cảm giác như thế nào? (Hỏi từng nhóm)
11


Vì sao nước lại đông cứng và có hình dạng khác nhau?
Cô tóm lại: Nước có thể chuyển từ chất lỏng sang chất rắn khi ở nhiệt độ dưới
0 độ c và hình dạng của đá phụ thuộc vào từng khuôn đựng (dạng rắn)
Trời mưa suốt bao nhiêu năm mà vẫn không hết nước, các con có biết tại sao
không?...
Lúc này trẻ ở các nhóm sẽ bàn bạc và nêu ý kiến của đội mình; trẻ có thể nêu
ra nhiều ý kiến khác nhau trong quá trình đó tôi gợi ý thêm cho trẻ, khích lệ trẻ để trẻ
tích cực tư duy tìm ra câu trả lời. Bản thân cũng đặc biệt chú ý lắng nghe các ý kiến
của trẻ trong đó chú ý để tất cả trẻ đều tham gia vào bàn bạc, suy nghĩ tìm hướng giải

quyết…

Thí nghiệm nước đổi màu
2.3.5. Giải pháp năm: Một số trò chơi nhằm tạo sự hứng thú cho trẻ hoạt
động khám phá khoa học.
Đối với trẻ mầm non thì việc “Chơi mà học- học mà chơi” sẽ giúp trẻ tiếp thu
những kiến thức một cách dễ dàng và sâu sắc nhất. Ngoài ra “trò chơi còn có tác dụng
cũng cố, bổ sung và phát triển thêm các tri thức mà trẻ vừa lĩnh hội, tái tạo lại biểu
tượng đã học thông qua những hoạt động thực tiễn”[5]. Do đó trò chơi củng cố trong
giờ hoạt động khám phá là rất quan trọng. Trò chơi càng phong phú đa dạng bao
nhiêu thì các tri thức trẻ lĩnh hội càng sâu sắc và trẻ càng nhớ lâu bấy nhiêu
Ví dụ 1: Khi cho trẻ làm quen với chủ đề động vật cô có thể tổ chức cho trẻ
chơi với các trò chơi sau đây:
* Trò chơi 1: “Bắt cá”
Chuẩn bị: Cá, bể nước nông, chậu
Cách chơi: Cho trẻ xuống bể bắt cá trong một thời gian là một bản nhạc, bạn
nào bắt được nhiều cá hơn thì bạn ấy chiến thắng
Luật chơi: Thi xem ai bắt được nhiều cá hơn thì bạn ấy chiến thắng
Nhận xét sau khi chơi: Sau khi trẻ bắt được cá cô hỏi bạn bắt được nhiều cá bí
quyết để bắt được cá và cho trẻ quan sát nhận xét con cá vừa bắt được.
12


* Trò chơi 2: “Làm bè trôi trên sông” sử dụng trong tiết: khám phá khoa học
“vật nổi, vật chìm trong nước”
Chuẩn bị: Dọc mùng, Que xiên, chậu hoặc bể nước.
Cách chơi: Chia làm hai đội, số trẻ ở mỗi đội bằng nhau. Chơi hai vòng
+ Vòng 1: “Ai khéo hơn ai”
Khi có hiệu lệnh chơi trẻ làm những chiếc bè trong một khoảng thời gian nhất
định đội nào làm được nhiều hơn thì đội đó chiến thắng vòng 1.

+ Vòng 2: “Đội nào nhanh hơn”
Sau khi làm xong bè, hai đội về hai hàng và thi đua xem đội nào thả được
nhiều bè hơn thì đội đó chiến thắng trong vòng 2.
Ví dụ 2: Khi cho trẻ làm quen với chủ đề nghề nghiệp cô có thể tổ chức cho trẻ
chơi với các trò chơi sau đây:
* Trò chơi 1: Thử tài chiến sĩ
Luật chơi: Các chiến sĩ ở mỗi đội có một bức tranh thể hiện nơi làm việc của
chiến sĩ. Các chiến sĩ tí hon bước đi trên phao qua sông nhanh tay, tinh mắt lựa chọn
trong rổ của đội mình những hình ảnh công việc phù hợp với đội mình dán vào tranh,
kết thúc 3 phút đội nào dán được nhiều hình ảnh phù hợp sẽ dành chiến thắng ở phần
chơi này. (Khi chơi cô mở nhạc bài “Chúng tôi là chiến sĩ” để vừa kích thích tinh thần
của trẻ qua nhịp điệu bài hát vừa thắp lên niềm tự hào được đóng vai chiến sĩ để chơi
tích cực hơn, quyết tâm hơn)
* Trò chơi 2: Chiến sĩ giúp dân
Phần chơi này các chiến sĩ giúp bà con vùng lũ chuyển lương thực qua suối. Vì
nước lũ chảy xiết nên các chiến sĩ phải lội dích dắc qua suối chuyển những bao gạo
sang bên kia suối mới có xe chở đi. (3 đội chơi vận chuyển lương thực qua suối, cô
mở nhạc có tiếng nước lũ để kích thích trẻ)

Hình ảnh trò chơi phục vụ hoạt động khám phá công việc của chú bộ đội
13


2.3.6. Giải pháp thứ sáu: Ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng phần
mềm power point vào tổ chức hoạt động khám phá khoa học:
Đổi mới phương pháp tổ chức hoạt động cho trẻ đòi hỏi người giáo viên phải
tích cực tìm tòi, học hỏi để luôn sáng tạo, đổi mới cách thức tổ chức các hoạt động
nhằm tạo cơ hội tốt nhất để trẻ được tham gia vào các hoạt động, tiếp thu kiến thức
một cách chủ động giúp trẻ phát triển toàn diện cả về thể lực và trí tuệ; Như ta biết
tư duy của trẻ mẫu giáo ở độ tuổi này chủ yếu là tư duy hành động – tr ực quan,

đồng thời phát triển tư duy hình ảnh – tr ực quan [5]; thông qua phần mềm trẻ
được nâng cao khả năng tiếp cận thao tác với máy tính một cách khoa học và tích
cực.
Ví dụ: Khám phá về luật lệ giao thông với chương trình “hiểu biết giao thông”
tôi sử dụng phần mềm power point vào bài dạy như:
Cô nói: “Đây là câu hỏi dành cho các đội chơi trong chương trình ngày hôm
nay”; lúc này trên màn hình chạy hình ảnh với các ô số.
Lần lượt cho trẻ đại diện cho đội chơi lên lật mở các ô số: 1, 2, 3 và về thảo
luận với đội mình để trả lời chính xác về câu hỏi.
Câu 1- Khi bị tắc đường thì người tham gia giao thông tuân theo hiệu lệnh của
ai?
- Trẻ ở nhóm “thủy thủ” đã bấm mở ô số có quyền trả lời trước các nhóm còn
lại có quyền trả lời hoặc bổ sung.
Câu 2- Khi ngồi trên tàu xe chúng ta không được có hành động gì? (tương tự
như nhóm trước các trẻ ở đội “phi công”)
Câu 3- Khi nhìn thấy tín hiệu giao thông này, chúng ta cần phải làm gì?
(Cho trẻ quan sát hình ảnh để bổ sung cho các đáp án)

Trẻ được lên bấm chọn ô số tương ứng với câu hỏi dành cho đội mình
14


Môi trường xung quanh đối với trẻ vô cùng rộng lớn khó hiểu, trẻ lại tò mò
hiếu động, luôn đặt ra vô vàn câu hỏi. Nó là cái gì ? Như thế nào ? Vì sao nó lại như
vậy?... Chính vì thế cô giáo phải biết áp dụng phương pháp dạy học tích cực, dám đổi
mới và lựa chọn ra những hình thức khác nhau trong mỗi một chủ đề tránh nhàm
chán đối với trẻ khi có những chủ đề kéo dài ba đến bốn tuần mà cô chỉ với một hình
thức hát hay đọc thơ thì không thể lôi cuốn thu hút trẻ trong quá trình hoạt động.
Ví dụ: Cho trẻ “Quan sát một số con vật sống trong rừng”. Nếu chỉ quan sát
tranh thì tiết học sẽ trở nên đơn điệu, trẻ sẽ nhàm chán. Nhưng cô ứng dụng phần

mềm, sáng tạo ra câu chuyện về các con vật, cô vừa kể truyện vừa cho trẻ quan sát
các con vật đang di chuyển trong rừng, những con vật “ thật ” thì trẻ sẽ rất thích thú,
trẻ tập trung vào hoạt động tích cực hơn, giờ học đạt kết quả như mong muốn. Qua đó
giáo dục trẻ biết tự chăm sóc, bảo vệ bản thân trước những con vật hung dữ, trước sự
thay đổi thời tiết, biết yêu thương, chăm sóc cho cây cối, con vật nuôi.
Những sự vật, hiện tượng xung quanh đều có ý nghĩa đối với trẻ, để những cái
đẹp đi vào tâm hồn trẻ một cách sâu sắc, điều quan trọng là cô giáo phải truyền thụ
thế nào cho trẻ tiếp thu nhẹ nhàng, thoải mái để trẻ nhớ lâu.
Ví dụ: Khám phá về nước nếu chỉ nói giáo dục trẻ tiết kiệm nước mà không
cho trẻ xem những vi deo về sự khan hiếm nước với hình ảnh những đứa trẻ phải chờ
từng giọt nước, hay những hành động tiết kiệm nước của các bạn nhỏ để làm gương
cho trẻ thì làm sao trẻ khắc sâu ghi nhớ, hiểu được sâu sắc về vấn đề; Nếu chỉ nói cô
lao công rất vất vả mà không có được sự hỗ trợ của vi deo, hình ảnh cô lao công đẩy
những xe rác bốc mùi hôi thôi giữa màn đêm trời lạnh căm căm hay hình ảnh anh bộ
đội giúp dân lợp nhà, đưa các em nhỏ qua suối thì sao thấy được hết giá trị nhân văn
và tấm lòng của những con người đó.
Để tìm hiểu về công việc của chú bộ đội, cô lao công, hay bất cứ sự vật, sự
việc gì tôi không chỉ dùng hình ảnh đơn thuần mà tôi có thể tạo hiệu ứng cho những
hình ảnh nhằm kích thích trẻ, gây cho trẻ sự chú ý.

15


Các hình ảnh được chạy hiệu ứng ra từng hình ảnh một
2.3.7. Giải pháp thứ bảy: Tận dụng triệt để môi trường và nguyên vật liệu
sẵn có ở địa phương cho trẻ được trải nghiệm khám phá; đồng thời phối hợp tốt
với phụ huynh để giáo dục trẻ.
Ngay từ đầu năm học tôi lên kế hoạch phối hợp giữa gia đình, nhà trường, kế
hoạch đó được xây dựng cụ thể theo từng chủ đề. Bản thân đã trao đổi với các bậc
phụ huynh để phụ huynh giúp trẻ phát huy tính sáng tạo, tư duy của trẻ trong việc

khám khá sự vật hiện tượng xung quanh ở mọi lúc mọi nơi.
Ví dụ: Trong chủ đề “Thế giới thực vật”: Hôm nay tôi cho trẻ làm “Tìm hiểu
về sự nảy mầm của cây”; trẻ được tham gia trải nghiệm và thực hiện công việc xong
do thực nghiệm cần thời gian trẻ mới thu được kết quả và có thể một số trẻ nghỉ nên
tôi thông qua trao đổi với phụ huynh để phụ huynh nắm được từ đó tạo điều kiện cho
trẻ được thực hiện việc gieo hạt ở nhà; khi được cô thường xuyên hỏi thăm về sản
phẩm thì trẻ tỏ ra rất hứng thú bởi chính trẻ thực hiện, đặc biệt là khi thu được kết quả
trẻ
nhớ
hơn,
hiểu

kích
thích
trí
ham
học
hỏi.
Phụ huynh còn tham gia lao động vệ sinh trường lớp, trồng cây xanh, sưu tầm
nguyên vật liệu thiên nhiên, làm đồ dùng đồ chơi phục vụ trẻ chơi và học.
Ở góc tuyên truyền, thông báo cho cha mẹ trẻ biết các kiến thức chăm sóc giáo
dục trẻ ở trường mầm non, những nội dung hoạt động của trẻ ở lớp, chế độ ăn của trẻ
hàng ngày, những yêu cầu của nhà trường đối với gia đình hoặc những nội dung mà
gia đình cần phối hợp với cô giáo. Thông qua cuộc họp cha mẹ trẻ tôi đưa ra kế hoạch
hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ cho cha mẹ học sinh nắm được, tuyên truyền để phụ
huynh cùng tham gia vào giáo dục rèn luyện các cháu, vận động cha mẹ học sinh
đóng góp các trang thiết bị, cung cấp tài liệu, nguyên vật liệu phục vụ hoạt động cho
16



các cháu đầy đủ. Có phụ huynh đã sưu tầm các loại tranh ảnh về các con vật hoa quả,
các bậc phụ huynh đã ủng hộ các cây cảnh, cây hoa và một số loại cây ăn quả để
trồng ở vườn trường và góc thiên nhiên; vì phần lớn trẻ ở lớp có bố mẹ làm nông nên
các sản phẩm của nông nghiệp được phụ huynh ủng hộ rất nhiệt tình.
Chú trọng việc khai thác và xử lí thông tin của người thân trong gia đình về trẻ:
Tìm hiểu về thông tin cá nhân của trẻ giúp cho bản thân có cơ sở để xây dựng chương
trình, lập kế hoạch và tổ chức được hiệu quả như: Đối với trẻ hiếu động tôi thường
đưa ra gợi ý sâu hơn để trẻ khám phá; Đối với trẻ nhút nhát, thiếu tự tin tôi thường
dùng những lời động viên trẻ nói lên suy nghĩ của mình, chú ý hơn đến trẻ khuyến
khích trẻ từ những hiểu biết đơn giản rồi tăng dần mức độ khó tùy thuộc hứng thú của
trẻ.
Ngoài ra dựa trên điều kiện ở địa phương và gia đình phụ huynh tôi lập kế
hoạch và thực hiện một số hoạt động phối hợp như:
Tháng 9/2018: Vui tết Trung Thu với việc tổ chức văn nghệ, phá cỗ. Mâm cỗ
Trung Thu do các gia đình góp lại được bầy đẹp mắt, cô đóng vai chị Hằng còn vai
chú cuội do một bé nhanh nhẹn, tinh nghịch đóng. (Hoạt động trải nghiệm tết Trung
Thu)
Tháng 11/2018: Tổ chức cho trẻ thăm nhà bạn trong chủ đề gia đình theo
nhóm, tổ. Hoạt động này nhằm giúp trẻ khám phá xã hội, bằng việc tạo mối quan hệ
bạn bè tại gia đình.
Tháng 12/2018: Phối hợp với bộ đội khu vực Đồi Nhơm để giao lưu với trẻ
nhằm rèn kỹ năng giao tiếp, hiểu biết về công việc, trang phục, hành lý… của chú bộ
đội, thêm yêu quý bộ đội, biết ơn và hiểu sự vất vả, những hy sinh của các chú cũng
như thêm yêu quê hương đất nước, yêu con người, tự hào dân tộc.
Tháng 01/2018: Tổ chức lễ hội xuân, du xuân với các loại hoa, quả, bánh làm
từ vải vụn, chai, lọ, xốp; Trong lễ hội xuân tổ chức các trò chơi dân gian thi nấu ăn,
gian hàng ẩm thực, xuân quê em… để có sự so sánh, trải nghiệm.
Tháng 02/2018: Trải nghiệm đi mua sắm cùng cha mẹ: Với trải nghiệm này tôi
tổ chức bày các gian hàng ngoài sân chơi theo hai cách:
Cách thứ nhất là dùng trải nghiệm mang tính tượng trưng như: Gian hàng giầy

dép làm từ xốp chai nhựa…; quầy hàng hoa quả với các loại quả khâu từ vải vụn, hay
cắt ghép phun màu từ các chai nhựa…; quầy hàng quần áo làm từ xốp, từ giấy gói
hoa được tận dụng lại, từ chai nhựa….; hay ở đó là quầy bán thực phẩm tươi như
mực làm từ xốp và bông, tôm từ vải vụn….
Cách thứ hai là trải nghiệm mua sắm thật: Huy động sự đóng góp của phụ
huynh để tổ chức bầy các quầy hàng bằng đồ thật, với một số mặt hàng tôi phối hợp
với chủ hàng để bầy bán tại khu vực chơi tổ chức cho trẻ và bố mẹ cùng tham gia
mua sắm; Đây là trãi nhiệm hết sức thú vị trong năm học này đã làm và thu hút sự
chú ý của phụ huynh cũng như mạng lại cho trẻ rất nhiều cảm xúc.
Tháng 03/2018: Lễ hội 8/3, làm quà tặng bà, tặng mẹ….Huy động sự tham gia
của bố, ông cùng làm quà tặng bà, tặng mẹ, chị em gái.
Tháng 4/2018: Thăm tượng đài liệt sĩ và nghe hội cựu chiến binh kể về những
năm tháng chiến đấu. Chú ý phối hợp với hội cựu chiến binh xóm thống nhất nội
17


dung cần truyền đạt như các em bé như các cháu trong thời chiến sống ra sao để trẻ
so sánh và giáo dục trẻ trân trọng cuộc sống hiện tại, tự hào với sự chiến đấu anh
dũng của cha ông để dành độc lập vào 30/4/1975…
Tùy vào chủ đề tôi cho trẻ trải nghiệm với điều kiện sẵn có tại địa phương như:
Dùng vỏ chai nước uống để làm ấm chén, cốc…hay là tạo hình cho bồn hoa trong
trường nhằm khám phá về chất liệu nhựa với tái sử dụng nhựa bảo vệ môi trường.
Ngay khu vực sát trường có nhà dân đang xây dựng tôi nắm bắt cơ hội cho trẻ
tìm hiểu về nghề xây dựng với các công việc và dụng cụ sinh động, cụ thể ngay trước
mắt trẻ. Bản thân trẻ được trò chuyện với chính những người làm nghề xây dựng từ
đó có hiểu biết rõ nét hơn về nghề xây dựng, tình huống này còn đc áp dụng khi tôi
tiến hành cho trẻ tìm hiểu về đất cát, sỏi qua chủ đề hiện tượng tự nhiên.
Hay với chủ đề quê hương, đất nước, Bác Hồ tận dụng cánh đồng lúa sát
trường tôi cho trẻ ra trải nghiệm khám phá về đồng lúa quê em, con đường làng…;
Cạnh trường có cửa hàng tạp hóa tôi tiến hành cho trẻ tham quan, trải nghiệm về cách

bày trí, các mặt hàng, giá cả…

Hoạt động khám phá đồng lúa

Khám phá cây ăn quả ở nơi trẻ sinh sống

18


Hoạt động khám phá cửa hàng tạp hóa
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
2.4.1. Hiệu quả đối với hoạt động giáo dục:
Sau một thời gian thực hiện các giải pháp, biện pháp thử nghiệm tại lớp A2 (56 tuổi) trường Mầm non Thọ Thế, tôi hoàn toàn hài lòng với kết quả trẻ tiếp thu kiến
thức qua các hoạt động khám phá khoa học lấy trẻ làm trung tâm.
Hi vọng rằng từ những kinh nghiệm trên sẽ giúp ích cho các giáo viên trong
trường có được cách truyền thụ kiến thức cho trẻ ngày càng đạt hiệu quả cao, hấp dẫn
và lôi cuốn trẻ.
Những biện pháp trên đã có tính khả thi sau gần một năm áp dụng tại lớp mẫu
giáo lớn A2 (5-6 tuổi), trường Mầm non Thọ Thế. Chất lượng học của trẻ nâng lên,
qua khảo sát, qua dự giờ 100% trẻ thực sự thích thú khi được tìm tòi khám phá, đáp
ứng được nhu cầu của bản thân, tích cực tham gia hào hứng vào các hoạt động tập thể
từ đó giúp trẻ phát triển nhận thức, quan sát và khả năng tư duy độc lập phản biện và
giải quyết vấn đề. Trẻ có kỹ năng sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, mạch lạc, nắm vững
kiến thức, kỹ năng vận dụng linh hoạt sáng tạo vào thực tế. (Xem phụ lục 2)
So sánh kết quả khảo sát trước và sau khi áp dụng đề tài ta sẽ thấy rõ hơn hiệu
quả mà sáng kiến mang lại như sự hứng thú tham gia vào giờ học của trẻ tăng từ
53,85% lên 100%; Trẻ nắm vững kiến thức, kỹ năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào
thực tế tăng từ 50% lên 92,3%; khả năng tư duy phản biện và giải quyết vấn đề tăng
từ 38,5% lên 96,15% … Còn một vài trẻ chưa đạt ở một số tiêu chí là do khả năng

nhận thức của trẻ chậm nhưng so với đầu năm thì trẻ đã tích cực và chủ động hơn
nhiều khi tham gia hoạt động ( Xem phụ lục 3)
2.4.2. Hiệu quả đối với bản thân
19


Sáng kiến đã mang lại nhiều kỹ năng và kinh nghiệm cho bản thân khi thiết kế,
lựa chọn chủ đề sát với đặc điểm nhận thức của trẻ mình trực tiếp dạy. Qua đó hình
thành các kỹ năng, tác phong nghiệp vụ, sáng tạo trong các hình thức tổ chức các
hoat động ở trường cho trẻ.
2.4.3. Hiệu quả đối với đồng nghiệp và nhà trường:
Trong quá trình áp dụng sáng kiến tôi đã lan tỏa ảnh hưởng của mình đến đồng
nghiệp qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, qua các hoạt động phối hợp với các tổ
chức, đoàn thể và kết quả cho thấy; “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động khám phá khoa học cho trẻ Mẫu giáo lớn A2 (5 - 6 tuổi) theo hướng lấy trẻ
làm trung tâm tại trường Mầm non Thọ Thế” đã góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động khám phá khoa học cho trẻ đồng thời giúp nâng cao chất lượng chung các
hoạt động khác. Mức độ nhận thức của trẻ đã tăng lên rõ rệt so với đầu năm học. Các
giải pháp có tính khả thi đã thúc đẩy trẻ phát triển toàn diện.
Thực hiện được các giải pháp trên đã giúp tôi tự tin trong quá trình giảng dạy,
không những thế trẻ còn hứng thú, phát huy được mọi tiềm ẩn trong mỗi cá thể trẻ,
trẻ năng động linh hoạt, tích cực hơn trong quá trình học và chơi; từ đó hình thành ở
trẻ tính tự lập, kỹ năng sống mới, đánh dấu bước hình thành và phát triển nhân cách
mới ở trẻ tạo tâm thế vững chắc cũng như tiềm năng cho trẻ bước vào các cấp học
tiếp theo.
Với kết qủa và ý nghĩa đạt được sáng kiến có thể nhân rộng và áp dụng ra toàn
khối cũng như các độ tuổi trong trường. Cha mẹ trẻ tin tưởng khi gửi con đến Trường
mầm non, hiểu được tầm quan trọng của Giáo Dục Mầm Non trong thời đại mới và
đặc biệt sẽ có tầm nhìn mới về vai trò, trách nhiệm đối với con em mình.


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Các giải pháp có mối quan hệ chặt chẽ đan xen bổ sung cho nhau nhờ vào
những giải pháp chủ đạo và những giải pháp hỗ trợ.
20


Giải pháp xây dựng chương trình, kế hoạch phù hợp tình hình của lớp và của
trẻ là giải pháp làm nòng cốt của đề tài cùng với những giải pháp bổ trợ như tích hợp
đan xen giữa các hoạt động; Qua đó tạo được môi trường mở cho trẻ thực hiện cùng
với đồ dùng trực quan phong phú và đa dạng sẽ tạo ra được hứng thú, nhu cầu muốn
tham gia hoạt động của trẻ.
Mỗi một giải pháp có ý nghĩa và tác dụng riêng nhằm giải quyết từng vấn đề
của thực trạng nhưng chúng đều có chung một nhiệm vụ là tạo nguồn hứng thú, kích
thích tính tự lập, suy nghĩ giải quyết vấn đề cao, tự tin thể hiện được nhu cầu, nhận
thức của bản thân trẻ.
Đây cũng là kết quả mang đến thành công của đề tài sáng kiến nhằm hướng và
đạt tới mục tiêu giúp trẻ học tốt, thể hiện hết mình trong mọi hoạt động. Giáo viên khi
sử dụng linh hoạt các giải pháp trên sẽ đạt được hiệu quả cao trong công tác dạy học
3.2. Kiến nghị
Đối với nhà trường:
Ban giám hiệu tích cực tham mưu với chính quyền để nhanh chóng hoàn thiện
khu trường mới cho các hoạt động nhà trường được thuận lợi; Tiếp tục cung cấp thêm
đồ dùng đồ chơi, tài liệu phục vụ cho các hoạt động nhất là việc phối hợp với các đơn
vị tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn để trẻ được tham gia trải nghiệm nhiều hơn.
Đối với Phòng Giáo dục:
Bản thân mong muốn có thêm nhiều cơ hội giao lưu, trao đổi học tập kinh
nghiệm từ đồng nghiệp nên đề nghị Phòng Giáo dục, Sở Giáo dục nghiên cứu tổ chức
các diễn đàn, hội thảo để cho giáo viên được học tập, trao đổi kinh nghiệm.
Trên đây là “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khám phá khoa học

cho trẻ 5-6 tuổi theo hướng lấy trẻ làm trung tâm ở trường mầm non Thọ Thế” của
bản thân tôi. Rất mong được sự góp ý bổ sung của hội đồng khoa học, của các đồng
nghiệp để bản sáng kiến được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2019
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan bản sáng kiến này là
do bản thân tự làm không copy của ai.
Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Hà Thị Thu
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo Phan Thị Thu Hiền (2011): “Áp dụng mô hình dạy học lấy học sinh làm
trung tâm của phương tây tại Việt Nam và những sự khác biệt về văn hóa bị bỏ qua”
tại hội nghị The Third Conference Engaging with Viet Nam, Hà Nội: 12/2011
21


[2]. Hướng dẫn thực hành áp dụng quan điểm lấy trẻ làm trung tâm trong trường
mầm non- NXB Giáo dục
[3]. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ và
đạo đức nghề nghiệp cán bộ quản lý, giáo viên mầm non năm học 2018-2019 NXB
Giáo dục
[4]. Tài liệu rèn kỹ năng sống cho trẻ mầm non- NXB Giáo dục
[5]. Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non – Nguyễn Ánh Tuyết

DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG

ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả: Hà Thị Thu
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường mầm non Thọ Thế
22


T
T

1

2
3

4

5

Tên đề tài sáng kiến
Một số biện pháp nâng
cao chất lượng môn văn
học cho trẻ mẫu giáo 3 –
4 tuổi.
Giải pháp nâng cao chất
lượng khám phá môi
trường xung quanh cho
trẻ 4-5 tuổi.
Một số biện pháp dạy tạo
hình cho trẻ 4 – 5 tuổi.
Một số giải pháp rèn

luyện nhằm nâng cao kỹ
năng sống cho trẻ 5-6
tuổi trường mầm non Thọ
Thế
Một số giải pháp rèn
luyện nhằm nâng cao kỹ
năng sống cho trẻ 5-6
tuổi A3 trường mầm non
Thọ Thế

Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại.

Phòng GD&ĐT

C

2006 – 2007


Phòng GD&ĐT

B

2007 – 2008

Phòng GD&ĐT

B

2008– 2009

Phòng GD&ĐT

B

2016 – 2017

Phòng GD&ĐT

C

2017 - 2018

PHỤ LỤC 1
Bảng khảo sát chất lượng của trẻ lớp A2 đầu tháng 9/2018

23



STT

Đạt

Tiêu chí
Số trẻ

Chưa đạt

Tỷ lệ %

Số trẻ

Tỷ lệ %

1

Trẻ hứng thú tham gia vào
giờ học

14

53,85

12

46,15

2


Trẻ có ý thức tự thực hiện
tốt yêu cầu của tiết học

13

50

13

50

3

Trẻ nắm vững kiến thức, kỹ
năng vận dụng linh hoạt
sáng tạo vào thực tế

13

50

13

50

4

Trẻ có kỹ năng sử dụng
ngôn ngữ rõ ràng, mạch lạc


15

57,7

11

42,3

5

Khả năng tư duy phản biện
và giải quyết vấn đề

10

38,5

16

61,5

PHỤ LỤC 2
Bảng khảo sát chất lượng của trẻ lớp A2 vào tháng 04/2019

24


STT

Đạt


Tiêu chí
Số trẻ

Chưa đạt

Tỷ lệ %

Số trẻ

Tỷ lệ %

1

Trẻ hứng thú tham gia vào
giờ học

26

100

0

0

2

Trẻ có ý thức tự thực hiện
tốt yêu cầu của tiết học


26

100

0

0

3

Trẻ nắm vững kiến thức, kỹ
năng vận dụng linh hoạt
sáng tạo vào thực tế

24

92,3

2

7,7

4

Trẻ có kỹ năng sử dụng
ngôn ngữ rõ ràng, mạch lạc

26

100


0

0

5

Khả năng tư duy phản biện
và giải quyết vấn đề

25

96,15

1

3,85

PHỤ LỤC 3
Bảng so sánh kết quả khảo sát trước và sau khi áp dụng đề tài
25


×