Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

MỘT VÀI NÉT VỀ CHÍNH TẢ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.46 KB, 6 trang )

Một Vài
Nhận Xét
Về Chính
Tả Việt
Nam
Vấn đề viết
đúng tiếng
Việt vẫn
được giới
làm báo,
làm sách
nhắc đến từ
lâu và chỉ
chau mày
hay lắc đầu
mỗi khi đọc
một bản
thảo hay
một ấn
phẩm có
nhiều "lỗi"
chính tả.
Sau đấy lại
thôi, không
bàn đến nữa,
làm như
chuyện viết
sai tiếng
Việt là một
thứ bệnh
nan y của


người Việt-
nam, đành
chấp nhận,
phải "sống
với nó" vậy.
Điều lạ là
ngay từ
trong học
đường, ở
cấp tiểu học
đã có những
giờ chính tả
để dạy cho
học sinh viết
đúng tiếng
mẹ đẻ. Ấy vậy mà khi đã trưởng thành, trên cương vị nhà văn,
nhà báo, nhà thơ - điều này cũng xẩy ra ngay trong giới cầm bút
Pháp - lỗi chính tả lại không được xem là một giá trị cần phải
gìn giữ.
Ngược lại, khi nói đến "Lỗi chính tả" thì một số rất đông đảo
người làm văn học, viết sách, làm thơ lại dựa vào một cuốn tự
điển hay, tệ hơn, trên một thói quen nào đó để quả quyết sự viết
đúng của một số chữ, không cần đếm xỉa đến công dụng của
chính tả.
Kẻ viết bài này không có ý áp đặt một khuôn phép chính tả vì
đấy là nhiệm vụ của một viện hàn lâm đặc trách về ngôn ngữ.
Nhưng gần đây, trước những sự xác định nên xem ngôn ngữ
được dùng trong các tự điển Miền Bắc như một giá trị tuyệt đối,
nên dùng làm tiêu chuẩn, của vài cán bộ văn hóa cộng sản nêu
lên, và hơn nữa, trước lối nhắm mắt chấp nhận những tiêu

chuẩn chính tả đã được một số từ điển gia, pháp lý gia hay thần
học gia tên tuổi sử dụng, tưởng cũng nên đặt lại vắn đề "lỗi
chính tả" một cách dân chủ tiến bộ và thông minh hơn.
Từ xưa, do địa vị "nôi văn hóa Việt", ngôn ngữ miền Bắc được
xem như tiêu chuẩn để viết đúng tiếng Việt. Và trong gần hai
thế kỷ, tinh thần thống trị ấy được giới làm văn chấp nhận một
cách thoải mái vì tính "chuộng nhàn" vốn là một dân-tộc-tính
của ta. Trong khi ấy, ngay vào buổi sơ khai của nền văn học
quốc ngữ, Phan-kế Bính đã có những nhận xét rất nghiêm chỉnh
về những sai lầm chính tả trong tiếng nói của mỗi vùng Bắc,
Trung, Nam.
Ví dụ: Người Bắc nói: ông zời (ông trời), mặt zăng (mặt trăng),
uống ziệu (uống rượu), zồng cây ăn chái (trồng cây ăn trái),
phong chào chanh đấu (phong trào tranh đấu), nhọ nhem (lọ
lem), con zộng (con nhộng), con zện zăng tơ (con nhện giăng
tơ), zọng zao hàng (giọng rao hàng), xự zối zá (sự dối trá) v.v...
Do đó, có sự lầm lẫn trong cách viết những chũ bắt đầu bằng tr,
ch, gi, d, nh, s, x ...
Nguời Trung (người Huế), không quen (vì ngại hay không thấy
là cần thiết) phân biệt dấu hỏi dấu ngã, cũng như lẫn lộn những
chữ:
nh/gi đầu chữ - ví dụ: cái già (cái nhà)
con giện (con nhện)
c/t cuối ch" - ví dụ : rửa mặc (rửa mặt) - chuyện lặc vặc (chuyện
lặt vặt)...
- n/ng cuối chữ - ví dụ: ăng cơm (ăn cơm) - băng khoăng (băn
khoăn) ...
Nhiều nhà văn người Nam cũng có tinh thần ấy, không chú
trọng sự phân biệt hỏi ngã, và có những lầm lẫn về chính tả như
người

Trung.
Ngoài ra
còn có sự
lẫn lộn :
- v/gi như:
giội giàng
giủ nhao đi
giề (vội
vàng rủ
nhau đi về)
- ượu/ụ như:
ún giụ (uống
rượu)
- t/c và
au/ao như:
giủ nhao
chơi cúc bắt
(rủ nhau
chơi cút bắt)
- trời mưa
như trúc
(trút) v.v...
Nói như vậy
không có
nghĩa là
người Nam,
người Trung
cũng như
người Bắc
nói chuyện

với nhau
không ai
hiểu ai cả vì
tiếng nói
của mỗi địa
phương đầy
rẫy những
lỗi!
Vậy vấn đề
là thế nào là
"lỗi" chính
tả? Nên xác
định như thế
nào để
thống nhất
chính tả
tiếng Việt?
Trước hết, không nên dựa vào thói quen hay vì có một "vị chức
sắc văn học" nào đấy đã dùng nên mọi người phải rập khuôn
theo.
Trước khi nói đến sự xác định - chuyện ấy "còn khuya", vả lại,
đấy là việc làm của một viện hàn lâm ngôn ngữ quốc gia - tôi
xin tạm đặt một nguyên tắc chính về "sự" viết đúng: một chữ
viết đúng không tạo sự lẫn lộn ý nghĩa với một chữ khác.
Ví dụ: con dao, dao động (chuyển động đong đưa) - giao thiệp
(vận chuyển sang nơi khác)
nổi trôi (nằm trên mặt nước) > nông nổi (không sâu) - nỗi niềm,
nông nỗi (trạng thái tâm hồn).
trinh tiết (không bị hoen ố) - chiến chinh (đi xa)
Nếu không, có thể tùy tiện mà dùng trong khi chờ đợi thẩm

quyền của một viện hàn lâm đặc trách xác định thể thức chính
tả.
Ví dụ:
dòng sông = giòng sông nhưng không nên viết dòng dống, dòng
dã ! (mời xem phần phụ lục)
sử dụng = xử dụng nhưng không thể viết xử xanh, sử án, ngu
suẩn v.v...
lầm lỗi = nhầm lỗi nhưng không ai viết nhầm nhì (lầm lì)
dơ duốc = nhơ nhuốc nhưng không nên dùng nhơ nháy (dơ
dáy), nhơ nháng (dơ dáng)
giữ dìn # giữ gìn , dữ dìn v.v... (d và gi là một âm để hợp với
một âm khác. Ví dụ : d+ơ, d+ìn - gi+a, gi+ỏi ) Trư(c)ng hợp
chữ gì là trầm bình thanh của âm gi ?
Vậy trong những đoạn sau đây, tôi xin bàn riêng về vấn đề :
1- dấu hỏi, dấu ngã
2- phận biệt tr và ch (đầu chữ)
3- phân biệt d, và gi (đầu chữ)
4- n và ng (cuối chữ)
5- c và t (cuối chữ)
***
I- Dấu hỏi và dấu ngã
1- Nguyên tắc chung, căn bản: Tiếng Việt gồm có những chữ
thuần túy Việt nam và những chữ hán-việt. Vậy khi áp dụng
"luật" hỏi, ngã phải cần phân biệt tiếng Việt thuần túy và tiếng
hán-việt (tiếng tàu trở thành tiếng việt)
1- Tiếng Việt thuần túy là những tiếng đã có sẵn trong ngôn
ngữ của ta: nhà, vườn, ruộng, ăn, uống, đi, nằm, ngồi, buồn,
vui, giận, ghét v.v...
Những chữ hán (chữ tàu) đồng nghĩa với những chữ ấy như:
gia, viên, điền, thực, ẩm, hành, ngọa, tọa, sầu, hỉ, nộ, hỉ v.v...

được đem dùng trong ngôn ngữ của ta gọi là chữ hán-việt.
Vậy làm thế
nào để phân
biệt được
chữ nào là
thuần túy
Việt-Nam?
Ngoài
những trạng
từ thường có
dạng đơn
âm như đã,
cũng,
những, mải,
mãi, hãy, để,
cả, rồi, mà,
nhưng, vì,
nếu, như,
nếu như
v.v... cách
phân biệt tốt
nhất là suy
từ những
chữ kép láy.
Kép láy là
những chữ
có một tiếng
chính (có
nghĩa) và
một tiếng

phụ (không
có nghĩa)
được ghép
vào để nghe
cho êm tai
(euphonie).
Ví dụ :
buồn-bã,
vui-vẻ, nhớ-
nhung, ồn-
ào, lo-lắng,
chát-chúa,
v.v...
Một tiếng
đơn âm trở
thành kép
láy phải
theo định
luật phối âm (assonance) của tiếng Việt.
1a- Định luật ấy là :
* Huyền < > ngã < > nặng
- dấu huyền/ dấu ngã: bẽ-bàng, rõ-ràng
- dấu ngã/ dấu nặng: rõ-rệt, rũ-rượi
- dấu ngã/ dấu ngã: đĩ thõa,
- dấu huyền/ dấu huyền: bàng-hoàng, chàng-ràng
- dấu nặng/ dấu nặng: bịn-rịn, lục-đục.
- dấu huyền/ dấu nặng nặng-nề, bề-bộn * Hỏi < > sắc < > không
- không dấu/ dấu hỏi: bỏ-bê, vui-vẻ, bảnh bao, hở hang...
- dấu hỏi/ dấu sắc: lở-lói, rả-rích, hí hửng
- dấu hỏi/ dấu hỏi: đỏng đảnh, xởi-lởi, lỉnh-kỉnh, lủng củng...

- không dấu/ không dấu: lông bông, lang thang, thênh thang,
mênh mông...
- không dấu/ dấu sắc: le lói, thâm thúy, trơ tráo, nhâng nháo...
- dấu sắc/ dấu sắc: tí-tách, nhắng nhít, rối rít, thút thít...
1b- Cách suy ra dấu hỏi, ngã: Nhờ định luật ấy, ta có thể nhận
diện được dấu hỏi, dấu ngã đối với một số chữ đơn âm như:
rõ < rõ ràng, rõ rệt
ngỡ < ngỡ ngàng, lỡ làng
rảnh < rảnh rang, bảnh bao
hỏi < hỏi han, lở lói
nở < nở nang, hở hang
ngỗ < ngỗ nghịch # ngổ-ngáo
ngẩm < ngán ngẩm # ngẫm nghĩ = ngẫm + nghĩ)
mải < mê mải (mải làm quên ăn) # mãi (làm việc mãi không
thôi)
Chú ý : Do đó, ta có thể giải thích được nguyên nhân của nh"ng
âm hỏi, ngã trong những trường hợp sau :
cũng = cùng
đã = đà
tĩnh = tịnh
ngỡ = ngờ v.v...
1c- Ngoại lệ: Tuy nhiên, trong bất cứ ngôn ngữ hay văn phạm
nào cũng vậy, luôn luôn có những ngoại lệ buộc ta phải thận
trọng khi dùng dấu hỏi, dấu ngã. Ví dụ :
- trong những chữ kép gồm có hai chữ đều có nghĩa: ủ-rũ (ủ-ê +
rũ rượi); rảnh rỗi (rảnh rang + rỗi)
- nhiều tiếng không đứng trong định luật nói trên như: trơ trẽn,
phỉnh phờ, ngoáo ộp, xiêng xẹo, lam lũ, mỏi mòn, ngoan ngoãn,
khe khẽ v.v...
Cũng may mà những trường hợp ngoại lệ không có nhiều nên

không đến nỗi làm nản lòng người có dụng tâm viết chính tả
đúng!
2- hỏi, ngã
trong chữ
hán-việt
Như trên đã
nói, khi các
cụ của
chúng ta
đem dùng
tiếng tàu
trong ngôn
ngữ của ta,
các cụ đã
nghiên cứu
thông minh
về cách phát
âm của tiếng
tàu. Tôi nói
thông minh
vì tiếng tàu
không có
nhiều thanh
(son) - hỏi,
ngã, th, tr, đ,
r, n - như
tiếng việt và
hơn nữa
không có
nhiều âm

(ton) - nhị
âm
(diphtongue
), tam âm
(triphtongue
) như của ta,
nhưng các
cụ đã nhận
thấy được
sự dị biệt
của mỗi chữ
nên đã đem
dấu hỏi, dấu
ngã vào
những tiếng
hán-việt ấy.
Ví dụ: phụ
=/= phủ
ương =/=
ang
iêu =/= iu
phúc =/= phú
Do đấy, dấu hỏi, dấu ngã được đặc biệt dùng cho mỗi loại chữ
hán-việt. Tổng quát, ta nhận thấy những loại sau đây :
2a - Chỉ dùng dấu hỏi những chữ bắt đầu bằng:
A - Â : ải, ảnh, ẩm, ẩn, ẩu v.v...
B: bản, bảng, bảo, bỉ, biển, bổng lộc, bỉnh bút , biển lận v.v..
Ngoại lệ : bãi chức, bãi triều
C: cải, cảm, cảo, cẩm, cảng v.v... Ngoại lệ : long cỗn, cưỡng
bách, lưu cữu

CH: chẩn, chỉnh, chỉ, chủng, chưởng, chử (cái chày)
D: Không có ngoại lệ
Đ: đả, đảm, đảng, đảo, đẳng, điểm, điển, điểu, đỉnh v.v...
Ngoại lệ: đãi, đễ, đỗ
GI: giả, giảng, giản, giảng, giảo v.v...
K, KH: kiểm, kỷ (ghế), thế kỷ, kỷ cương, khả, khảo, khiển, khổ,
khoản, khuyển, khủng...
Ngoại lệ: kỹ thuật, kỹ lưỡng...
PH : phản, phẩm, phỉ, phổ, phủ v.v...
Ngoại lệ: phẫn, phẫu
S: sản, sảng, sảnh, liêm sỉ, sổ, sở, sủng, sử, sửu v.v...
Ngoại lệ: sãi vãi, sĩ tử, sĩ phu, suyễn.
T : tải, tảng, tảo, tẩy, tẩu, tiểu, tỉnh tủy, tổ, tuyển, tử v.v...
Ngoại lệ : tẫn, tễ, tiễn, tiễu trừ, tĩnh mịch, tuẫn tiết.
TH : thải, thảm, thưởng, thủy, thủ, thủy v.v... Ngoại lệ : thuẫn,
thũng
U : ủ, uẩn, uyển, ủng v.v...
X : xảo quyệt, ung xỉ, ngu xuẩn, xử v.v... Ngoại lệ : xã thôn.
Y : ỷ (dựa vào), yểm trợ v.v...
2b - Chỉ dùng dấu ngã, những chữ bắt đầu bằng :
D: dã man, kiều diễm, dĩ nhiên, dung dưỡng v.v...
L: lũng đoạn, lõa thể, lưỡng lự v.v...
M: mã lực, miễn dịch, mãnh, mãng v.v...
N niển (nghiên mực), niểu (hiếm dùng)
NH: nhiễu loạn, mộc nhĩ, thanh nhã v.v...
V: vĩnh viễn, võ công, võng v.v...
2c - Đặc biệt: Khi dùng dấu hỏi, khi dùng dấu ngã, những chữ
bắt đầu :
bằng H:
hải cảng # kinh hãi

hảo, hiểm, hiển, hiểu, hỏa, hoảng, hổ phách, hủ, hủy, hưởng
hãm hại, hãn mã, hãnh diện, trì hoãn, hỗ tương, hỗn hợp, huyễn
hoặc, hữu trách.
bằng Q :
quĩ đạo, thủ qũy,
quảng đại, quỉ quái .
3 - Kết
luận :
Vấn đề dấu
hỏi, dấu
ngã, thiết
nghĩ, không
nên xem là
tiên quyết
trong ngôn
ngữ và văn
chương. Nó
chỉ là một
sự tô điểm
cho sự phát
âm, lúc nói
và lúc hát
chứ không
hẳn là một
điểm trọng
yếu về giá
trị văn
chương. Khi
nằm trong
khuôn khổ

của một câu
hay một
cụm chữ
(contexte),
dù viết sai,
ta vẫn hiểu
được ý
nghĩa của
chữ được
dùng kia
mà! Bằng
chứng là
người Trung
(Huế),
người Nam
không chú
trọng hỏi,
ngã lắm
nhưng văn
chương của
họ cũng
không đến
nỗi nào. Nếu
cho vấn đề hỏi ngã này là quan yếu hoặc thích xem đấy là một
"cái gì thêm lên" (un plus) cho tiếng Việt được hay, đẹp thì nên
dụng tâm học hỏi cách viết cho đúng. Thế thôi. Còn không thì
không nên đặt thành vấn đề tranh luận rườm rà, tạo nên những
mặc cảm kỳ quái.
Trong tinh thần ấy, tôi chỉ mong là những nhận xét về cách
nhận diện dấu hỏi, dấu ngã trên đây không làm nản lòng "khách

mộ điệu" mà thôi.
Phụ lục :
1- Những cái vô lý trong Tự điển Việt-Pháp (Lê Khả Kế +
Nguyễn Lân) của nhà xuất bản Khoa học xã hội ở Hà nội.
Để góp ý về sự bàn cãi về riêng chữ D và GI, vì có nhiều bạn
dùng quyển tự điển này để xác định cách viết D và GI, với tất
cả lòng kính quí của tôi, tôi xin chép ra đây vài điểm "trục trặc"
của hai Cụ Lê-khả Kế và Nguyễn Lân. (Nguyễn Lân, bút hiệu là
Từ-Ngọc, tác giả "Cậu bé nhà quê" là thầy dạy pháp văn và
việt-văn đầu tiên của tôi, năm 1943)
2a- Vô lý : Với một tinh thần khẳng định dựa trên quan niệm
"tiếng Bắc" được phát âm đúng, nên dùng làm tiêu chuẩn chính
tả cho ch" viết, ta có thể thấy nh"ng điểm "ngoan cố" sau đây :
tr. 195 : con dộng - tr. 752 : con nhộng
tr. 279 : dấp giọng - tr. 739 : nhấp giọng
tr. 287 : diếc móc - tr. 745 : tr.nhiếc móc tr. 290 : dịp - tr. 748 :
nhịp nhàng
tr. 295 : dơ bẩn, dơ duốc - tr. 754 ; nhơ nhuốc, nhơ nhớp
tr. 294 : dồi (boudin) - tr. 751 : nhồi nhét (bourrer) . Có sự lẫn
lộn, trong khi sự khác nhau là dồi bột (nhào bột=pétrir) và nhồi
nhét (bourrer)
vân vân...
Cái vô lý là hai tác giả chỉ dựa vào "thói quen" phát âm của
miền Bắc để xác định cách dùng chữ D.
2b- Chữ D dùng cho những chữ sau đây có thể tạo ra nhầm lẫn,
vậy ta nên chọn lực một cách viết. Ví dụ :
dây (vết bẩn vấy, dính dấp bừa bãi)# dây dưa (kéo dài trong một
th(c)i gian dài) # giây (sợi giây, giây phút)
dấu (vết hằn không phai lạt, để ghi nhận) # giấu (cất giấu)
Dấm (chất nước chua) # nhấm (ăn, uống từng miếng nhỏ).

Không thể dùng dấm dẳng được. (tr.276)
Dìm (ấn xuống) : không thể viết gìm được vì gì+m hay g+ìm
đều "lỗi" chính tả.
vân vân...
2c- Tiện đây, nhân lúc xem kỹ những chữ bắt đầu bằng D của
quyển tự điển ấy, tôi cũng xin nêu lên một trường hợp sai lầm
để, khi ta trân trọng văn học thì ta phải biết suy nghĩ, chứ không
nên cúi đầu tuân phục những tự điển gia quá. Ví dụ : dễ ợt =
facile comme un bonjour. Tiếng Pháp dùng : simple comme
bonjour vì :

×