Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, các yếu tố tiên lượng và một số kiểu gen vi khuẩn ở bệnh nhân nhiễm Streptococcus suis điều trị tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương (2015 – 2018) (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.36 KB, 148 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Streptococcus suis (Liên cầu lợn) là cầu khuẩn Gram dương có khả năng
gây bệnh trên người với bệnh cảnh lâm sàng đa dạng như viêm màng não,
nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi, viêm nội tâm mạc...[1]. Bệnh do S. suis đang
là một vấn đề thời sự trong chuyên ngành Truyền Nhiễm do những yếu tố về
dịch tễ rất đặc biệt và hậu quả trên lâm sàng rất nặng nề nếu bệnh nhân không
được chẩn đoán và điều trị sớm. Bệnh lây từ động vật (chủ yếu là lợn) sang
người qua thói quen ăn uống thực phẩm sống [2] và vết xây xước trên da

trong quá trình giết mổ, chế biến thịt lợn nên việc dự phòng rất khó khăn
[3],[4]. Bệnh có khả năng thành dịch với tỷ lệ tử vong cao từ 12,8% [5] đến
27,9% [6]. Bệnh nhân nhiễm S. suis sau khi ra viện có thể để lại các di chứng
nặng nề như điếc từ 50% - 66,4% [7],[8], rối loạn tiền đình (22,7%) [5], hoại
tử chi ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn là 86,7% (13/15) [9]. Những biến chứng
này rất ít khả năng hồi phục, dẫn đến những gánh nặng lớn về sức khoẻ cũng
như kinh tế cho bệnh nhân [10],[11].
Thông qua giao thương, tỷ lệ mắc cũng như lan truyền các chủng S. suis

giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đang có xu hướng ra tăng
[12]. Tính đến năm 2014, trên toàn thế giới ghi nhận 1642 trường hợp nhiễm
S. suis được công bố, bệnh chủ yếu tập trung tại khu vực Châu Á (90,2%)
[13]. Tại Việt Nam, bệnh xếp hàng thứ 6/10 bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ mắc
và tử vong cao nhất [14]. S. suis kháng gần như hoàn toàn với các kháng sinh
nhóm tetracycline, erythromycin [15], một số chủng bắt đầu kháng với
ceftriaxon và fluoroquinolone [16],[17]. Các gen kháng thuốc, plasmid được
tìm thấy như erm(B) (erythromycin), cat (chloramphenicol), tet(M), tet(O),
tet(L) (tetracyclin) cũng tăng nguy cơ lan truyền sự kháng thuốc giữa các
chủng S. suis [18]. Cùng với việc chẩn đoán và điều trị muộn dẫn đến tăng tỷ
lệ tử vong cũng như gánh nặng bệnh tật.




2
Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy có hơn 20 gen liên quan tới yếu tố
độc lực của S. suis, trong đó, 03 gen độc lực chính của vi khuẩn bao gồm mrp,

sly, epf có liên quan chính tới quá trình gây bệnh [19]. Tại Việt Nam, các
nghiên cứu về gen kháng thuốc và gen liên quan đến độc lực của S. suis chủ
yếu ở khu vực phía Nam trên các thể bệnh viêm màng não [8],[20],[21],[22].
Khu vực Miền Bắc và Miền Trung một số báo cáo đề cập đến bệnh cảnh viêm
màng não [23],[24],[25], sốc nhiễm khuẩn [9], nhưng chưa có nghiên cứu nào
đề cập đến các kiểu gen gây bệnh cũng như sự phân bố các kiểu gen này trên

các thể lâm sàng. Mặc dù bệnh lưu hành rộng rãi nhưng chưa có một nghiên
cứu nào trong nước đánh giá tổng thể về đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng,
các yếu tố tiên lượng cũng như một số yếu tố độc lực của vi khuẩn. Bệnh viện
Bệnh Nhiệt đới Trung ương là tuyến chuyên khoa đầu ngành về tiếp nhận,
chẩn đoán và điều trị bệnh do liên cầu lợn. Hệ thống xét nghiệm của Bệnh
viện vô cùng hiện đại, có sự hợp tác chặt chẽ với đơn vị nghiên cứu lâm sàng
Trường Đại học Oxford của Anh (OUCRU), do đó các xét nghiệm tại đây có
độ chính xác và tin cậy rất cao. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này tại

Bệnh viện nhằm 3 mục tiêu:
1. Tìm hiểu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và các thể bệnh do
Streptococcus suis gây ra ở người.
2. Xác định các yếu tố tiên lượng tử vong ở bệnh nhân bị bệnh do
Streptococcus suis.
3. Đánh giá mức độ nhạy cảm với kháng sinh và phát hiện một số gen
kháng thuốc, gen độc lực của Streptococcus suis.



3
Chƣơng 1

TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm vi sinh vật và cơ chế gây bệnh của Streptococcus suis
1.1.1. Lịch sử phát hiện
Vào thập niên 1950, tại Anh và Hà Lan, các nhà nghiên cứu thuộc
ngành thú y đã phát hiện được một tác nhân thuộc nhóm Streptococcus gây
viêm màng não và viêm khớp ở lợn. Đây là liên cầu khuẩn được xếp vào
nhóm D theo phân loại của Lancefield và được đặt tên là Streptococcus suis
(theo tiếng La-tinh ―suis‖ nghĩa là lợn).
Năm 1987, Kilpper-Bälz và Schleifer đã phân loại Streptococcus

suis như sau:
Giới

Vi khuẩn

Ngành

Firmicutes

Lớp

Bacilli

Bộ

Lactobacillales


Họ

Streptococcaceae

Giống

Streptococcus

Loài

Streptococcus suis

Hai tác giả này chỉ ra rằng chúng là một nhóm đồng nhất về cả mặt
phân loại hoá học và về gen (phần trăm đồng gen ADN – ADN ít nhất là
73%), do đó các tác giả này đề nghị, một cách rõ ràng, tên gọi chính thức của

vi khuẩn này là Streptococcus suis [26].
1.1.2. Hình thể và tính chất bắt màu
Streptococcus suis là cầu khuẩn gram dương, có hình trứng hoặc thon
dài, đứng riêng lẻ, xếp đôi hoặc thành chuỗi ngắn, không di động, thường

xuyên có vỏ, đường kính 2µm.


4

Hình 1.1. S. suis dƣới kính hiển vi
Hình 1.2. S. suis khi nhuộm Gram
(nguồn: (nguồn: />al/strsu/strsu.home.html)

sassiteforscience/standard2/objective-b)
1.1.3. Tính chất nuôi cấy
Streptococcus suis mọc trên môi trường thạch máu ở 370C và 5 –
10% CO2. Trên môi trường thạch máu, S. suis tạo khuẩn lạc nhỏ, màu xám
với đường kính 0,5 – 1 mm. S. suis sản xuất yếu tố dung huyết kiểu alpha
trên môi trường thạch máu cừu và yếu tố dung huyết kiểu beta trên môi
trường thạch máu ngựa.

S. suis là những vi khuẩn có thể mọc trên môi trường hiếu kị khí tuỳ
tiện, tuy nhiên chúng lại không thể mọc được trong dung dịch có chứa 6,5%
NaCl hoặc môi trường có chứa 0,04% telluric Sự phát triển của S. suis không
đòi hỏi CO2 trừ 1 số chủng phân lập được ở cơ quan sinh dục lợn và ở lợn sữa

(chúng mọc rất tốt với sự có mặt của 5%CO2) [3].
1.1.4. Tính chất hoá sinh học
Một cách tổng quát, S. suis dương tính với test kháng optochine, ADH
(+), ornithine décarboxylase (+), leucine arylamidase (+) , thuỷ phân và acide
hoá tinh bột, thuỷ phân esculine, lên men đường fructose, galactose, D-glucose
(+), glycogen (+), lactose (+), maltose (+).
S. suis đáp ứng âm tính với test sản xuất acetoin, alcaline (-), acide
phosphatase (-) , bêta-galactosidase (-), không acide hoá arabinose, adonitol (-),
fucose (-), mannitol (-), glycerol (-), gluconate (-).


5

1.1.5. Cơ chế bệnh sinh của Streptococcus suis
Khi xâm nhập vào cơ thể, hàng rào đầu tiên mà vi khuẩn gặp phải là hệ
thống miễn dịch tự nhiên như da, niêm mạc, hệ thống chất nhờn…sự tương
tác giữa vi khuẩn và cơ thể vật chủ là một quá trình liên tục và nhiều mặt

[27]. Sau khi xâm nhập vào các rào cản niêm mạc, S. suis có thể di chuyển
đến và tồn tại trong máu, và cuối cùng xâm nhập nhiều cơ quan bao gồm lách,

gan, thận, phổi và tim. Hơn nữa, vi khuẩn này cũng có thể vượt qua hàng rào
máu-não hoặc các tế bào biểu mô mạch não để tiếp cận hệ thống thần kinh
trung ương gây ra viêm màng não [28].

a) Con đường lây truyền
Lây nhiễm S. suis qua đường da và niêm mạc bị xây xước được cho là
con đường lây chính ở người. Ở các nước phương Tây, người làm việc tiếp

xúc trực tiếp với thịt lợn hoặc các sản phẩm sống có nguồn gốc từ lợn có khả
năng nhiễm bệnh cao hơn người bình thường. Tương tự, vụ dịch ở Trung

Quốc (2005), 97% bệnh nhân có tiếp xúc với lợn bệnh (67% có giết mổ lợn,
50% có vết cắt trên da). Cho đến nay, những dữ liệu từ các giám sát dịch tễ
trong các vụ dịch ở Trung Quốc đã cho thấy rất rõ là tiếp xúc trực tiếp với lợn
bệnh là cần thiết để gây nhiễm bệnh S. suis [3],[4]. Trong một nghiên cứu
khác đối chứng về các yếu tố nguy cơ nhiễm S. suis ở Trung Quốc, giết mổ và

cắt xác thịt cũng như xử lý các lợn bệnh hoặc chết đã được xác định là các
yếu tố nguy cơ quan trọng đối với nhiễm bệnh của con người [7],[29]. Tuy
nhiên, một số nghiên cứu gần cho thấy một số lượng ít bệnh nhân có tiền sử
tiếp xúc với lợn [30], một số khác không rõ tiền sử tiếp xúc, điều này gợi ý
còn có những con đường lây truyền khác.
Một số nghiên cứu bằng thực nghiệm trên invivo và invitro cho thấy S.
suis có khả năng di chuyển qua hàng rào tiêu hoá của người, và ăn thịt lợn bị
nhiễm bệnh làm tăng yếu tố nguy cơ lây nhiễm S. suis, đây là vấn đề quan
trọng trong vệ sinh an toàn thực phẩm với mầm bệnh này [31]. Tại Việt Nam



6
và các nước Đông Nam Á, việc sử dụng các chế phẩm sống từ lợn, đặc biệt là
tiết canh làm tăng nguy cơ nhiễm S. suis [2]. Bệnh lý nghiện rượu và xơ gan
làm tăng khả năng di chuyển của S. suis từ hệ tiêu hoá vào máu cũng như đi

qua hàng rào máu - não [32].
Ở trên người, chưa có nghiên cứu nào cho thấy bằng chứng về việc S.

suis có thể lây truyền từ lợn sang người qua đường hô hấp. Năm 2014,
Bonifait và cộng sự, [33] đã tìm thấy có sự hiện diện của serotype 2 hoặc 1/2
trong các mẫu không khí thu được từ tất cả các trang trại chăn nuôi lợn, cũng
như 14/21 công nhân làm việc trong các trang trại chăn nuôi lợn. Điều này

cho thấy, có sự phơi nhiễm đáng kể của những người tiếp xúc thường xuyên
đối với mầm bệnh.

b) Quá trình gây bệnh
Để gây bệnh được S. suis phải định cư trên vật chủ, phá vỡ các rào cản

biểu mô, tiếp cận và tồn tại trong máu, xâm nhập lan tràn đến các cơ quan
khác nhau, và gây ra phản ứng viêm tại các cơ quan đó. Ngoài ra, S. suis còn
có khả năng đi qua hàng rào máu-não xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương
gây ra bệnh cảnh viêm màng não [28].
– Khu trú và xâm nhập qua hàng rào tế bào biểu mô

Streptococcus suis có thể tương tác với các tế bào biểu bì ở vết thương
trên da hoặc với các tế bào biểu mô niêm mạc ở ruột để gây bệnh. Miễn dịch
qua trung gian IgA đóng một vai trò quan trọng trong việc chống lại những
tác nhân gây bệnh xâm nhập qua biểu mô màng nhầy. Tuy nhiên, S. suis có

khả năng sản xuất IgA1 protease nên chúng có thể thoát khỏi hệ thống bảo
vệ này [34]. Sau khi thoát khỏi miễn dịch qua trung gian IgA, S. suis tương
tác với tế bào biểu mô và những protein chất nền ngoại bào thông qua
những protein bám dính và độc tố ly giải tế bào suilysin khiến chúng xâm
nhập qua tế bào biểu mô.


7
– Tồn tại trong máu và đi đến các cơ quan

Sau khi xâm nhập sâu vào trong mô hoặc dòng máu, vi khuẩn sẽ
tăng điều hòa biểu hiện polysaccharide vỏ nang và tất cả những protein

liên quan đến quá trình kháng lại đáp ứng miễn dịch. Polysaccharide vỏ
nang giúp vi khuẩn kháng lại thực bào. Sự tiết suilysin làm giảm thực bào
bằng cách ly giải bạch cầu đơn nhân và bạch cầu trung tính. Cuối cùng,

S. suis theo dòng máu lan tràn đến các cơ quan trong cơ thể và gây ra
tình trạng viêm nhiễm như nhiễm trùng huyết, viêm nội tâm mạc, viêm
phổi và viêm khớp.
– Xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương gây viêm màng não

Streptococcus suis có thể gây viêm màng não. Để xâm nhập được
vào thần kinh trung ương, vi khuẩn tiếp tục vượt qua hàng rào máu – não
bao gồm xâm nhập vào mao mạch thuộc não và xâm nhập từ máu vào dịch
não tủy tại các đám rối mạch. Khi tiếp xúc với các tế bào nội mạc thuộc
đám rối mạch, vi khuẩn xâm nhập và gây độc đồng thời làm tăng tính
thẩm thấu của các mao mạch. Nghiên cứu trên mô hình chuột cho thấy vai
trò quan trọng của phản ứng viêm trong sinh bệnh học của nhiễm khuẩn S.


suis [35]. Có sự hoạt hoá sao mã sớm của TLR2, CD14 và các cytokine
trong đám rối màn mạch và các tế bào biểu mô nội mô mạch não, gợi ý rằng
các cấu trúc này đóng vai trò đường vào của vi khuẩn ở hệ thần kinh trung
ương. Quá trình tương tác và xâm nhập của vi khuẩn với tế bào nội mạc
mạnh não (BMEC) có thể do nhiều cơ chế như kết dính và xâm nhập qua
trung gian protein bề mặt tế bào và các thành phần vách tế bào (chủ yếu là

lipoteichoic acid-LTA) [36]. Cơ chế liên quan đến sự xâm nhập qua đám rối
màng mạch hiện vẫn đang được nghiên cứu [37].

c) Cơ chế giảm thính lực sau viêm màng não do S. suis
Giảm thính lực và điếc là một trong các biến chứng phổ biến của viêm
màng não do vi khuẩn nói chung và đặc biệt là viêm màng não do S. suis nói


8
riêng. Theo kết quả báo cáo tổng quan hệ thống năm 2016 tổng hợp số liệu từ
17 nghiên cứu với 3447 bệnh nhân được báo cáo từ năm 1985 đến năm 2015
cho thấy tỷ lệ bệnh nhân bị giảm thính lực sau viêm màng não do vi khuẩn là
11% (giao động từ 2% đến 35%); tỷ lệ bệnh nhân bị giảm thính lực sâu trung
bình là 5% (giao động từ 2-13%) [38]. Các báo cáo về tỷ lệ bệnh nhân bị

giảm thính lực sau viêm màng não do S. suis có tỷ lệ cao hơn. Theo một
nghiên cứu, với 913 bệnh nhân tổng hợp từ 24 nghiên cứu được báo cáo từ
năm 1980 đến năm 2015 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân bị giảm thính lực sau viêm

màng não do S. suis là 53% (95% CI 49-57%) [39].
Rất ít các nghiên cứu về vị trí tổn thương và cơ chế giảm thính lực
trong viêm màng não do S. suis được báo cáo. Nghiên cứu thực nghiệm trên
lợn bị viêm màng não do S. suis cho thấy giảm thính lực và điếc trong viêm

màng não liên quan với các tổn thương viêm tai trong, trong đó tình trạng tổn
thương viêm mủ của hệ thống ốc tai dường như đóng vai trò chủ đạo, trong

khi tổn thương dây thần kinh thính giác là rất ít. Nghiên cứu cũng cho rằng
các vi khuẩn liên cầu nói chung và S. suis nói riêng, nhờ có khả năng sinh các
ngoại độc tố làm phá vỡ các cấu trúc bảo vệ của hệ thống ốc tai, nên có khả
năng xâm nhập và gây ra tình trạng tổn thương viêm nhiễm khuẩn trong hệ

thống ốc tai [40]. Ngoài ra một vài báo cáo ca bệnh cho thấy tình trạng tổn
thương viêm chảy máu của hệ thống tai trong được xác định bằng phim chụp

cộng hưởng từ cũng có thể đóng góp vai trò gây ra giảm thính lực trong viêm
màng não do S. suis [41].
1.2.Dịch tễ học nhiễm streptococcus suis ở ngƣời
1.2.1 Tình hình nhiễm S. suis trên thế giới
Trường hợp nhiễm khuẩn do S. suis ở người đầu tiên được mô tả vào
năm 1968 tại Đan Mạch [42]. Từ đó, số lượng các trường hợp bệnh được báo

cáo trên toàn thế giới tăng lên rất nhiều ở các nước bao gồm: Hà Lan, Bỉ, Đan


9
Mạch, Anh quốc, Pháp, Đức, Thuỵ Điển, Croatia, Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp,
Canada, New Zealand, Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc, [43] Thái Lan,
Singapore, Nhật Bản [44],[45],[46],[47],[48]. Mối liên quan giữa người bệnh
và sự tiếp xúc với lợn hoặc các sản phẩm của lợn đã được ghi nhận ngay từ
khi phát hiện ra bệnh này [44].
Nhiễm khuẩn do S. suis được coi như bệnh nghề nghiệp tại Anh từ
tháng 4 năm 1987. Tại Hà Lan, ước tính nguy cơ phát triển viêm màng não do


S. suis hàng năm ở những công nhân lò mổ và những người chăn nuôi lợn là
khoảng 3,0/100.000, cao hơn 1500 lần so với những người không làm việc
trong ngành công nghiệp chăn nuôi lợn [49]. Những người làm nghề giết mổ
lợn có nguy cơ mắc bệnh hàng năm là 1,2/100.000 [49]. Ở Đức, người ta đã
nghiên cứu thấy tỉ lệ mang S. suis ở vùng mũi họng ở nhóm nguy cơ cao như:
người giết mổ lợn, công nhân lò mổ, nhân viên chế biến thịt là 5,3% trong khi

tỉ lệ là 0% ở những người không có tiếp xúc với lợn hoặc thịt lợn [50].
Một nghiên cứu ở New Zealand vào năm 1980 cho thấy 9% những
nông dân ở trại sản xuất bơ sữa, 10% những giám sát viên thực phẩm thịt và
21% mẫu huyết thanh của nông dân ở trang trại lợn có kháng thể đặc hiệu với
S. suis typ 2, điều này chứng tỏ sự tồn tại của các trường hợp nhiễm trùng ẩn
ở người [13]. Bên cạnh đó cũng có các báo cáo về nhiễm khuẩn do S. suis ở
người mà không hề có sự tiếp xúc với lợn hoặc các sản phẩm của lợn [51].

Phần lớn các trường hợp mắc bệnh ở người là do S. suis typ2, một số ít do các
type huyết thanh khác như: typ1, 4, và 14. Ở các nước công nghiệp sản xuất
thịt lợn, S. suis typ 2 là một mầm bệnh quan trọng lây truyền từ động vật sang
người [5].


10
Bảng 1.1. Nhiễm bệnh do S. suis ở người được thông báo ở các nước tính đến
2014 [13].
Quốc gia
Toàn thế giới

Số ca mắc
1642


Châu Á

1481 (90,2%)

Châu Âu

140 (8,5%)

Nam Mỹ

9 (0,5%)

Bắc Mỹ

8 (0,5%)

Oceania

(0,2%)

Châu Á là nơi có tỷ lệ nhiễm S. suis cao nhất trên toàn thế giới với tỷ

lệ 90,2% [13]. Sau đó, các trường hợp nhiễm khuẩn do S. suis thường
xuyên được báo cáo. Đặc biệt là 02 vụ dịch lớn tại Trung Quốc được báo cáo
xảy ra vào mùa hè của 2 năm 1998 và 1999 tại các vùng nông thôn của tỉnh
Giang Tô (Jiangsu) với 25 trường hợp mắc bệnh, trong đó 14 trường hợp tử
vong là các trường hợp sốc nhiễm khuẩn và viêm màng não [3],[4]. Tháng 7
năm 2005, một vụ dịch lớn nhất ở người đã xảy ra tại tỉnh Tứ Xuyên, Trung

Quốc với tổng số 204 trường hợp mắc bệnh và 38 trường hợp tử vong do điều

trị không kịp thời [3]. Cùng năm, một số trường hợp rải rác ở các tỉnh và vùng
khác nâng con số mắc bệnh ở Trung Quốc năm 2005 lên 215 trường hợp. Tất
cả các trường hợp nhiễm bệnh đều là các nông dân tham gia trực tiếp vào quá
trình giết mổ các con lợn bị chết không rõ nguyên nhân hoặc do ốm mà chúng
bị làm thịt. Trong vụ dịch này, 61 nông dân (28%) có triệu chứng của sốc
nhiễm khuẩn, trong đó có 38 người chết (62%). Các trường hợp bệnh khác
được báo cáo là nhiễm khuẩn huyết (24%), viêm màng não (48%) hoặc cả hai

[3],[4]. Ngoài ra, tại Hồng Kông, vi khuẩn này được thông báo là một trong
những nguyên nhân chính gây viêm màng não ở người lớn. S. suis cũng là


11
nguyên nhân thường xuyên gây viêm màng não và nhiễm khuẩn huyết ở Thái

Lan [30],[52].
1.2.2. Tình hình nhiễm S. suis ở Việt Nam
Tại Việt Nam, trường hợp nhiễm S. suis đầu tiên được mô tả tại Bệnh
viện Bệnh Nhiệt đới TP Hồ Chí Minh vào 11/1996 với bệnh cảnh viêm màng
não. Trong khoảng thời gian từ 1996 đến 2005 ghi nhận 151 bệnh nhân viêm
màng não do S. suis [8]. Kể từ đó, các ca bệnh do S. suis gây bệnh trên người
được báo cáo khắp 3 miền của đất nước. Tại Huế, từ tháng 1/2006 đến

12/2010 ghi nhận hơn 140 bệnh nhân viêm màng não do S. suis tại Bệnh viện
Trung ương Huế [23]. Tại Miền Bắc, trường hợp bệnh nhân đầu tiên nhiễm S.

suis được khẳng định bằng cấy máu vào tháng 4 năm 2006 tại Viện Các Bệnh
Truyền Nhiễm và Nhiệt đới Quốc Gia (nay là Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới
Trung ương). Tiếp theo, năm 2007, có 43 trường hợp nhiễm S. suis được báo


cáo [24]. Trong 10 năm trở lại đây, số trường hợp nhiễm bệnh do S. suis ngày
càng gia tăng. Tính đến năm 2015, Việt Nam có trên 500 bệnh nhân được báo

cáo [11].Theo Cục y tế dự phòng – Bộ y tế, tính đến năm 2016, tỷ lệ mắc
0,007/100,000 dân, bệnh do S. suis đứng hàng thứ 6 trong 10 bệnh truyền
nhiễm có tỷ lệ mắc và tử vong cao nhất [14].


12

Hình 1.3. Tình hình nhiễm S. suis tại Việt Nam (2016) [14].
Tại miền Nam, các thể bệnh lâm sàng ghi nhận chủ yếu là viêm màng
não. Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 5 năm 2006
đến tháng 6 năm 2009, ghi nhận 101 bệnh nhân viêm màng não do S. suis trên

tổng số 108 bệnh nhân nghi ngờ [21]. Bệnh phân bố vào các tháng trong năm,
nhưng tập trung nhiều từ tháng 4 đến tháng 8 hàng năm. Các biểu hiện lâm
sàng, cũng như các yếu tố nguy cơ lây nhiễm bệnh cũng được đề cập đến.


13
Bệnh cảnh lâm sàng của S. suis tại miền Bắc ghi nhận có sự khác biệt
với 2 miền còn lại. Ngoài những trường hợp viêm màng não do S. suis ở
người được báo cáo thì từ tháng 1 năm 2009 đến tháng 6 năm 2011, ghi nhận

15 bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn do S. suis với tỷ lệ tử vong 40% [9]. Bệnh
nhân thường ủ bệnh ngắn, khởi phát nhanh, rối loạn đông máu nặng, suy đa

tạng và tử vong. Ngoài ra, một số nghiên cứu cũng tập trung sự lây nhiễm S.
suis từ lợn bệnh ngoài cộng đồng sang người. Vào năm 2016, một nghiên cứu

bệnh-chứng với 90 bệnh nhân nhiễm S. suis và 183 bệnh nhân nhiễm trùng
nhóm đối chứng để tìm hiểu mối tương quan giữa hội chứng suy hô hấp cấp ở

lợn và bệnh cảnh viêm màng não do S. suis ở người nhận thấy, các yếu tố tiếp
xúc trực tiếp với lợn ốm, sống trong vùng có dịch bệnh suy hô hấp cấp cũng
như thói quen sử dụng các chế phẩm sống từ lợn bệnh làm tăng nguy cơ

nhiễm S. suis [53]. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, ở miền Bắc, bệnh do S. suis
lưu hành chủ yếu từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm.

1.3. Các thể lâm sàng và yếu tố tiên lƣợng tử vong bệnh nhân nhiễm S. suis
Streptococcus suis gây bệnh trên người với bệnh cảnh lâm sàng đa
dạng như viêm màng não, nhiễm khuẩn huyết, viêm nội tâm mạc, viêm phổi,
viêm khớp, viêm nội nhãn...[13],[54]. Sốc nhiễm khuẩn do S. suis chiếm
khoảng 28%, tỷ lệ tử vong trong nhóm này là 62% [4].
1.3.1. Bệnh cảnh lâm sàng của bệnh nhân nhiễm S. suis
a) Viêm màng não mủ do S. suis
Viêm màng não mủ do S. suis chiếm tỷ lệ 68% trong các bệnh cảnh lâm
sàng của nhiễm khuẩn do S. suis quan sát được trên toàn thế giới [5]. Đặc
điểm lâm sàng của viêm màng não mủ do S. suis cũng giống với viêm màng

não mủ do các căn nguyên thông thường khác. Tuy nhiên, thời gian ủ bệnh
thường ngắn, trung bình khoảng 2,5 ngày (theo nghiên cứu ở vụ đại dịch của

Trung Quốc) [4]. Bệnh nhân thường có các biểu hiện: sốt (84,6% - 100% tùy


14
theo từng nghiên cứu) [44]; ớn lạnh (83,7%); đau đầu (100%); nôn (58,7%);
gáy cứng (100%) ; dấu hiệu Kernig (25%); dấu hiệu Brudzinski (17,3%); đi

ngoài phân lỏng (16,3 %); hôn mê (15, 4%) [4].
Về cận lâm sàng, số lượng bạch cầu trong máu thường tăng cao, trung
bình vào khoảng 15,200 BC (11.000 – 31.000). Số lượng tiểu cầu thường
giảm dưới 100.000 với tỷ lệ 45%. Chọc dịch não tuỷ cho thấy các tính chất
của một viêm màng não mủ với dịch não tuỷ đục: tế bào trong dịch não tuỷ
tăng cao từ vài trăm đến vài nghìn tế bào trong một mm3, trong đó đa số là

bạch cầu đa nhân trung tính, albumin trong dịch não tuỷ tăng, đường giảm
mạnh thậm chí không đo được vì quá thấp [49].
Biến chứng điếc và rối loạn tiền đình ở các bệnh nhân viêm màng não
do S. suis là vấn đề được nhiều báo cáo đề cập đến, từ các trường hợp viêm
màng não báo cáo riêng lẻ ở Mỹ, Hy Lạp đến các báo cáo với quy mô lớn
khoảng một trăm bệnh nhân ở Trung Quốc, người ta nhận thấy các bệnh nhân
viêm màng não do S. suis thường nghe kém hoặc điếc hẳn 1 hoặc 2 bên tai
kèm theo là các biểu hiện chóng mặt, đi lại không vững [49]. Theo một tổng
kết nhiễm khuẩn do S. suis ở Châu Âu và Châu Á từ 1968 đến năm 2005 cho
thấy tỉ lệ giảm thính lực ở các bệnh nhân viêm màng não do S. suis ở Châu
Âu là 50,5%, trong khi đó tỉ lệ này ở Châu Á là 51,9% [55]. Tình trạng giảm

thính lực và điếc sau viêm màng não do S. suis thường rất ít khả năng hồi
phục [10]. Do những tổn thương viêm tại tai trong là yếu tố chính liên quan
đến tình trạng giảm thính lực nên có rất ít các biện pháp can thiệp có thể tác
động nhằm cải thiện thính lực cho bệnh nhân bị giảm thính lực sau viêm

màng não do S. suis. Một vài báo cáo ca bệnh cho thấy với các bệnh nhân có
tình trạng tổn thương xơ ốc tai, việc cấy điện cực ốc tai có thể là biện pháp
can thiệp giúp cải thiện thính lực cho bệnh nhân. Một thử nghiệm lâm sàng
ngẫu nhiên có kiểm soát tại Việt Nam cho thấy việc dùng dexamethasone có



Luận án đầy đủ ở file: Luận án Full












×