Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

KIẾN THỨC, THÁI độ về PHÒNG và xử TRÍ PHƠI NHIỄM với vật sắc NHỌN TRONG TIÊM TRUYỀN của SINH VIÊN điều DƯỠNG TRƯỜNG CAO ĐẲNG y tế hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.53 KB, 56 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

BỘ Y TẾ

NGUYỄN THỊ HÀ

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VỀ PHÒNG VÀ XỬ TRÍ PHƠI
NHIỄM VỚI VẬT SẮC NHỌN TRONG TIÊM
TRUYỀN CỦA SINH VIÊN ĐIỀU DƯỠNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ HÀ NỘI
Chuyên ngành : Điều dưỡng
Mã số

:

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn khoa học:
TS. VŨ THỊ LAN ANH

HÀ NỘI - 2018


2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
SV
SVĐD
ĐTV


ĐTNC
HBV
HCV
HIV
WHO
NVYT
NSI
KSNK
KT

VSN

Sinh viên
Sinh viên điều dưỡng
Điều tra viên
Đối tượng nghiên cứu
Vi rút viêm gan B (Hepatitis B vi rút)
Vi rút viêm gan C (Hepatitis C vi rút)
Vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (Human Immunodefficiency virus)
Tổ chức y tế thế giói
Nhân viên y tế
Tổn thương do kim tiêm
Kiểm soát nhiễm khuẩn
Kiến thức
Thái độ
Vật sắc nhọn

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BẢNG


3

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chấn thương do vật sắc nhọn (VSN) trong thực hành lâm sàng là vấn đề sức
khỏe thường gặp ở sinh viên điều dưỡng (SVĐD). Tỷ lệ bị chấn thương do VSN ở
SVĐD trên thế giới rất khác nhau dao động từ 9,4% - 100% [1] [2]. Chấn thương do
VSN có thể dẫn đến việc lây truyền các bệnh qua đường máu cho SVĐD như HIV,
viêm gan B và viêm gan C [3]. Nguy cơ bị lây truyền bệnh theo kim tiêm từ một
người bệnh có nhiễm khuẩn máu dao động từ mức 0,3% đối với virus gây suy giảm
miễn dịch ở người (HIV) và 3% - 10% đối với viêm gan C và 40% đối với viêm gan
B [4]. Khả năng bị chấn thương do VSN có thể cao hơn ở những đối tượng thiếu
kinh nghiệm, mệt mỏi mà lại phải thường xuyên làm việc trong môi trường mới,
khẩn trương như SV ngành y[5].
Trong khi đó kiến thức về phòng ngừa và xử lý phơi nhiễm với vật sắc nhọn
của SV chưa cao: chỉ có 36,2% SV năm cuối biết đầy đủ chi tiết của việc phòng
ngừa các tổn thương do kim đâm [6]; 85,9% SV không biết hoặc chỉ biết một phần
trong các bước xử trí sau phơi nhiễm, 35,1% SV không quan tâm đến tác hại sau
phơi nhiễm với nguồn bệnh [7], thậm chí 51,6% SV trường đại học khoa học sức
khỏe Arack còn thực hiện nặn máu từ vết thương, hành động xử lý vết thương sai
trầm trọng [8].
Ngoài ra, theo nghiên cứu của Honda, điều dưỡng có thái độ chưa đúng về
phòng chống chấn thương do VSN có nguy cơ mắc chấn thương cao gấp 1,86 lần CI
95% (1,033,38) so với điều dưỡng có thái độ đúng [9].
Ở Việt Nam, tỷ lệ SV xử lý vết thương đúng quy trình sau chấn thương còn
thấp: chỉ có 36,8% SV trường cao đẳng Y tế Kiên Giang thực hành xử lý vết thương
đúng sau chấn thương [10]. Tương tự, trường Đại học Y khoa Vinh có 63% sinh

viên xử lý sai vết thương sau khi bị chấn thương [11]. Tỷ lệ học sinh sinh viên có
kiến thức không đầy đủ liên quan đến tai nạn nghề nghiệp do kim tiêm truyền đâm
là 69,46% [12].


4

Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội đào tạo sinh viên điều dưỡng hệ cao đẳng 3
năm trong đó phần lớn thời gian học năm thứ 2 và năm thứ 3 sinh viên được đi thực
hành lâm sàng ở nhiều bệnh viện khác nhau. Trong quá trình chăm sóc người bệnh
tại bệnh viện thực hiện tiêm truyền là thủ thuật thường quy sinh viên được làm trên
người bệnh cũng đồng nghĩa với việc sinh viên có nguy cơ cao bị phơi nhiễm với
VSN trong tiêm truyền và có khả năng lây nhiễm các bệnh viêm gan B, viêm gan C
và HIV qua vật sắc nhọn. Nhưng nếu sinh viên có kiên thức và thái độ tốt về phòng
ngừa phới nhiễm với VSN trong tiêm truyền sẽ làm giảm nguy cơ bị phơi nhiễm và
khi bị phơi nhiễm SV biết cách xử lý đúng vết thương sẽ giảm nguy cơ bị lây
nhiễm các bệnh qua đường máu. Năm học tới nhà trường có kế hoạch thay đổi về
hình thức đào tạo nội dung phòng ngừa và xử trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn trong
tiêm từ hình thức tự học sang hình thức giảng dạy lý thuyết trên giảng đường cho
SV [13].Với mong muốn tìm hiểu thực trạng kiến thức và thái độ của sinh viên theo
hình thức học cũ để làm cơ sở cho sự thay đổi trong phương thức truyền đạt cho
sinh viên những kiến thức, thái độ tốt nhất nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
với tên đề tài là “Kiến thức, thái độ về phòng và xử trí phơi nhiễm với vật sắc
nhọn trong tiêm truyền của sinh viên điều dưỡng trường Cao đẳng Y tế Hà Nội”
với 3 mục tiêu là:
1.

Mô tả kiến thức, thái độ về phòng và xử trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn

trong tiêm truyền của sinh viên điều dưỡng năm 2 và năm 3

2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan và đề xuất một số giải pháp về giảng
dạy nhằm nâng cao kiến thức và thái độ của sinh viên về phòng và xử trí
phơi nhiễm với vật sắc nhọn trong tiêm truyền.


5

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm
Phơi nhiễm nghề nghiệp
Là sự tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết, chất bài tiết (trừ mồ hôi) có chứa
tác nhân gây bệnh trong khi nhân viên y tế thực hiện nhiệm vụ dẫn đến nguy cơ lây
nhiễm bệnh [14].
Tác nhân gây bệnh qua đường máu
Các vi sinh vật có độc lực ( có khả năng gây bệnh) lây truyền do phơi nhiễm
với máu, sản phẩm của máu và gây bệnh trên người. Các tác nhân gây bệnh đường
máu hay gặp bao gồm viêm gan B(HBV), Viêm gan C (HCV),virus gây suy giảm
miễn dịch ở người (HIV) [14].
Tiêm truyền tĩnh mạch
Là kỹ thuật dùng kim đưa thuốc vào tĩnh mạch với góc tiêm 30⁰ so với mặt
da. Khi tiêm chọn tĩnh mạch nổi rõ, mềm mại, không di động, da vùng tiêm nguyên
vẹn [14].
Tiêm an toàn
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), Tiêm an toàn là một quy trình tiêm:
không gây nguy hại cho người nhận mũi tiêm; không phơi nhiễm cho người thực
hiện mũi tiêm; không tạo chất nguy hại cho người khác và cộng đồng [15].
Đậy nắp kim tiêm
Kỹ thuật đậy nắp kim một tay: nhân viên y tế cầm bơm tiêm bằng một tay và
đưa đầu nhọn của kim vào phần nắp đặt trên một mặt phẳng, sau đó dùng hai tay

đậy lại [14].
Vật sắc nhọn
Bất cứ vật nào có thể gây tổn thương xâm lấn da hoặc qua da; vật sắc nhọn
bao gồm kim tiêm, đầu kim truyền dịch, dao mổ, thủy tinh vỡ, ống mao dẫn bị vỡ
và đầu dây nẹp nha khoa bị phơi nhiễm [14].


6

Tổn thương( chấn thương) do vật sắc nhọn:
Tổn thương do vật sắc nhọn là tình trạng da bị xâm nhập bởi các vật sắc
nhọn và địa điểm xảy ra ở trong một cơ sở y tế. Các vật sắc nhọn có thể gồm: kim,
lưỡi chích, dao mổ và mảnh thủy tinh vỡ [16].
Thùng đựng chất thải vật sắc nhọn
Còn gọi là “hộp đựng vật sắc nhọn”, “hộp an toàn”. Thùng đựng chất thải sắc
nhọn được sản xuất bằng chất liệu cứng, chống thủng, chống rò rỉ được thiết kế để
chứa vật sắc nhọn một cách an toàn trong quá trình thu gom, hủy bỏ và tiêu hủy.
Thùng (hộp) này phải được thiết kế và quản lý theo đúng Quy chế Quản lý chất thải
y tế của Bộ Y tế [14].
Dự phòng sau phơi nhiễm:
Biện pháp ngăn ngừa lây truyền các tác nhân gây bệnh đường máu sau phơi
nhiễm [14].
1.2. Biện pháp phòng ngừa và xử trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn trong tiêm
truyền [14] [17]
1.2.1. Biện pháp phòng ngừa phơi nhiễm với vật sắc nhọn trong tiêm truyền
Loại bỏ mối nguy hại: thay thế các mũi tiêm bằng cách quản lý việc kê đơn,
thay bằng cách đưa thuốc vào cơ thể theo các đường khác như thuốc uống, thuốc
hít, các miếng dán ngoài da… Loại bỏ các vật sắc nhọn và kim tiêm, loại bỏ tất cả
các mũi tiêm không cần thiết. Loại bỏ các vật sắc nhọn và kim tiêm khi có thể bằng
cách thay thế kim tiêm và kim tiêm bằng các dụng cụ tiêm áp lực, sử dụng bộ kết

nối tĩnh mạch trung ương mà không dùng kim tiêm hoặc dùng kim luồn an toàn.
Biện pháp kiểm soát về kỹ thuật: được sử dụng để cô lập và loại bỏ mối
nguy hại khỏi nơi làm việc như sử dụng thùng chứa chất thải sắc nhọn; sử dụng các
thiết bị bảo vệ tránh vật sắc nhọn cho tất cả quy trình ( bơm kim tiêm có tính năng
tự thụt vào, tự đóng hoặc tự cùn đi ngay sau khi sử dụng) khi có thể.
Biện pháp hành chính: các chính sách và chương trình can thiệp nhằm hạn
chế phơi nhiễm với các yếu tố nguy hại. Ví dụ như áp dụng phòng ngừa phổ cập,
xác định các nguồn lực thể hiện cam kết an toàn cho nhân viên y tế, thành lập ủy


7

ban phòng ngừa TTNN do VSN, xây dựng các kế hoạch kiểm soát phơi nhiễm và
tăng cường đào tạo.
Biện pháp kiểm soát thực hành: nâng cao, củng cố các thao tác, thực hành
an toàn, loại bỏ các thói quen, các thao tác đã được xác định có nguy cơ cao đối với
TTNN do VSN. Ví dụ như không đậy lại nắp kim sau khi tiêm, đặt các hộp chứa vật
thải sắc nhọn ở nơi dễ sử dụng, kiểm tra hộp đựng VSN định kỳ và đưa đi xử lý
trước khi hộp đầy, thiết lập các biện pháp an toàn trong việc bảo quản, chuyên chở
và xử lý chất thải sắc nhọn.
Phương tiện bảo vệ cá nhân: sử dụng kính, mặt nạ, găng tay, khẩu trang, áo
choàng...
Các biện pháp phòng ngừa phơi nhiễm với tổn thương da do kim và vật
sắc nhọn
- Luôn luôn đảm bảo rằng bệnh nhân của bạn giữ yên một tư thế khi tiêm (cố
định bệnh nhân);
- Tập trung vào công việc tiêm, không nói chuyện và nhìn đi chỗ khác;
- Bảo đảm khu vực làm việc gọn gàng để đảm bảo rằng bạn không phải đưa
kim tiêm qua các vật cản.
- Đảm bảo an toàn cho bàn tay của nhân viên y tế:

+ Không bẻ cong kim;
+ Không dùng ngón tay động vào thân kim khi chọc kim hoặc rút kim;
+ Không dùng hai tay đậy lại nắp kim tiêm;
+ Không dùng tay đậy nắp kim ngay cả trước và sau tiêm. Nếu cần thiết phải
đậy nắp dùng kỹ thuật “múc” để phòng ngừa tổn thương;
+ Nếu phải tách kim tiêm khỏi bơm tiêm thì hãy sử dụng panh kẹp;
+ Mỗi khi chuyển vật sắc nhọn cho đồng nghiệp nên đạt vào khay để đưa cho
đồng nghiệp;
+ Đừng bao giờ dùng tay để đỡ các vật sắc nhọn đang rơi;
+ Không để vật sắc nhọn lên đồ vải;
+ Không cầm bơm kim tiêm nhiễm khuẩn đi lại tại nơi làm việc. Nếu không
thể cô lập vào hộp an toan luôn sau tiêm thì cần để vào khay tiêm để vận chuyển tới
hộp an toàn
+ Khi đi tiêm phải mang theo xe tiêm có sẵn hộp an toàn;
+ Sử dụng kim có đặc điểm an toàn.
- Tiêu hủy bơm kim tiêm nhiễm khuẩn:
Nguyên tắc:
+ Bơm kim tiêm nhiễm khuẩn phải được coi là chất thải đặc biệt;


8

+ Bơm kim tiêm nhiễm khuẩn phải được cô lập ngay tại nguồn;
+ Bơm kim tiêm nhiễm khuẩn phải được cho vào hộp kháng thủng;
+ Không để bơm kim tiêm nhiễm khuẩn lộ trên bàn tiêm;
+ Không để bơm kim tiêm nhiễm khuẩn rơi vãi trong khuôn viên bệnh viện.
Tiêu chuẩn hộp an toàn:
+ Làm bằng các vật liệu cứng, không bị xuyên thủng;
+ Thu gom cả bơm và kim tiêm;
+ Có quai và có nắp để dán lại khi thùng đã đầy 3/4

+ Hộp có màu vàng, có nhãn đề “Chỉ đựng vật sắc nhọn”
+ Có vạch báo hiệu ở mức ¾ hộp và có dòng chữ: “Không được đựng quá vạch này”.
Cách sử dụng hộp an toàn:
+ Treo cạnh xe tiêm hoặc nơi phát sinh chất thải sắc nhọn
+ Đặt tại nơi thuận tiện với tầm với của tay
+ Chỉ chứa đầy ¾ hộp
+ Không bao giờ mở ra một khi hộp đã chứa đầy và đã đóng nắp.
Vận chuyển hộp an toàn:
+ Đậy kín nắp hộp an toàn trước khi vận chuyển
+ Khi vận chuyển để hộp cách xa người
+ Cầm quai hộp khi vận chuyển
+ Mang găng dày khi vận chuyển.
Tiêu hủy hộp an toàn có chứa bơm kim tiêm nhiễm khuẩn:
+ Không bỏ ra bãi rác lộ thiên
+ Vận chuyển và thiêu đốt cùng với các chất thải y tế nguy hại.
Chú ý:
+ Không bao giờ sử dụng lại bơm, kim tiêm dùng một lần;
+ Tiêm và truyền chỉ thực hiện nếu thực sự cần thiết.
1.2.2. Xử trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn trong tiêm truyền
Nguy cơ lây nhiễm sau khi phơi nhiễm phụ thuộc vào việc xử trí ngay sau
phơi nhiễm. Vết thương càng được xử trí sớm theo đúng quy trình thì nguy cơ lây
nhiễm càng thấp. Các cơ sở y tế đều cần có kế hoạch kiểm soát phơi nhiễm, kế
hoạch quản lý sau phơi nhiễm và theo dõi NVYT có nguy cơ phơi nhiễm. Việc xử
trí phơi nhiễm vật sắc nhọn trong tiêm truyền cần tuân theo các bước sau:
1.2.2.1. Xử trí vết thương tại chỗ
+
+
+

Rửa ngay vùng da bị tổn thương bằng xà phòng và nước, dưới vòi nước chảy

Để máu ở vết thương tự chảy, không nặn không bóp
Băng vết thương lại


9

1.2.2.2 Báo cáo người phụ trách và làm biên bản
Khi phơi nhiễm nghề nghiệp xảy ra, những thông tin như hoàn cảnh xảy ra
phơi nhiễm, xử trí và quản lý sau phơi nhiễm cần được ghi chép đầy đủ trong hồ sơ
theo quy định của cơ sở y tế nơi họ đang làm việc. Những hồ sơ này phải được giữ
kín. Bên cạnh đó, người bị phơi nhiễm cần tuân theo quy định về quy trình báo cáo
phơi nhiễm nghề nghiệp của Bộ Y tế.
1.2.2.3. Hồ sơ phơi nhiễm nghề nghiệp cần có những thông tin sau:
+

Ngày và giờ xảy ra phơi nhiễm.

+ Thông tin chi tiết về công việc đang thực hiện khi bị phơi nhiễm, địa điểm và hình
thức phơi nhiễm, nếu phơi nhiễm do vật sắc nhọn thì ghi rõ thông tin về loại dụng
cụ gây tai nạn, thời điểm và cách thức bị tai nạn trong quá trình thao tác.
Thông tin chi tiết về phơi nhiễm: loại và số lượng máu, mức độ trầm trọng
của phơi nhiễm: độ sâu của vết thương, mức độ xâm nhập của máu vào cơ thể.
Thông tin chi tiết về nguồn phơi nhiễm: có chứa HBV, HCV, HIV không ?
Thông tin chi tiết về người bị phơi nhiễm: tình trạng tiêm phòng vắc xin
VGB, tình trạng đáp ứng với vắc xin, có nhiễm HCV, HIV không?
1.2.2.4 Đánh giá nguy cơ phơi nhiễm
Tổn thương do kim dính máu đâm xuyên qua da gây chảy máu: Kim nòng
rộng cỡ to, chứa nhiều máu, đâm sâu thì có nguy cơ cao hơn kim nòng nhỏ, chứa ít
máu và đâm xuyên nông.
1.2.2.5 Xác định tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm

+ Đánh giá nguy cơ dựa vào triệu chứng lâm sàng của người bệnh nguồn.
+ Người bệnh đã được xác định HIV (+): Tìm hiểu các thông tin về tiền sử

và đáp ứng đối với thuốc ARV.
+ Nếu chưa biết về tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm: Tư vấn và lấy

máu xét nghiệm HIV.
1.2.2.6 Xác định tình trạng HIV của người bị phơi nhiễm
+ Tư vấn trước và sau khi xét nghiệm HIV theo quy định.


10

+ Nếu ngay sau khi phơi nhiễm, người bị phơi nhiễm có HIV (+) : Đã bị

nhiễm HIV từ trước không phải do phơi nhiễm.
+ Nếu HIV (-) : Kiểm tra lại sau 3 và 6 tháng.
+ Xét nghiệm công thức máu và chức năng gan (ALT) khi bắt đầu điều trị và

sau 2- 4 tuần.
+ Xét nghiệm HIV sau 3 và 6 tháng
+ Hỗ trợ tâm lý nếu cần thiết.

1.2.2.7 Tư vấn và điều trị sau phơi nhiễm
* Tư vấn sau phơi nhiễm
Người được xác định là phơi nhiễm với máu, dịch cơ thể và vật sắc nhọn từ
nguồn có chứa HIV, HBV, HCV cần tới gặp bác sĩ kiểm soát nhiễm khuẩn hoặc
chuyên khoa truyền nhiễm để được tư vấn về nguy cơ nhiễm HIV, HBV và HCV,
những ảnh hưởng có thể xảy ra đối với cuộc sống của họ, cũng như ưu, nhược điểm
của điều trị dự phòng sau phơi nhiễm (khả năng thành công, tác dụng phụ của

thuốc, tuân thủ điều trị thuốc kháng vi rút,...). Người bị phơi nhiễm phải đi khám
ngay khi có bất cứ triệu chứng cấp tính nào trong quá trình theo dõi. Kết quả xét
nghiệm của họ cần được giữ bí mật hoàn toàn.
* Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm với HBV
Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm với HBV cần được thực hiện ngay sau
phơi nhiễm (trong vòng 24 giờ), tùy từng trường hợp cụ thể mà có cách dự phòng
khác nhau:


Nếu NVYT đã có kháng thể với VGB thì tiêm nhắc lại một mũi vắc xin,



Nếu NVYT đã tiêm phòng VGB nhưng kháng thể (-): Tiêm 1 - 2 liều huyết thanh
kháng HBV (HBIG) và 1 mũi vắc xin,



Nếu NVYT chưa tiêm phòng VGB và chưa mắc VGB: tiêm 1-2 liều HBIG và 3
mũi vắc xin.
Theo dõi người bị phơi nhiễm với HBV
Xét nghiệm anti-HBs 1- 2 tháng sau khi tiêm liều vaccin cuối cùng.


11

Tư vấn cho cán bộ bị phơi nhiễm không hiến máu hoặc tạng cơ thể, áp dụng các
biện pháp phòng lây nhiễm cho người khác (dùng bao cao su hoặc kiêng quan hệ
tình dục, cân nhắc không cho con bú sữa mẹ, không dùng chung bơm kim tiêm).
Tư vấn ổn định tâm lý.

Tiêm ngừa vác-xin viêm gan B và HBIG trong vòng 24 giờ sau tai nạn nếu
nhân viên chưa có kháng thể HBV
* Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm với HIV/AIDS bằng thuốc ARV [18]
Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm nên được bắt đầu càng sớm càng tốt cho tất
cả đối tượng có nguy cơ lây nhiễm HIV tối ưu nhất trong vòng 72 giờ, tùy thuộc vào
tình trạng nhiễm trùng của nguồn và loại phơi nhiễm mà có cách dự phòng khác nháu:


Nguồn HIV dương tính nhóm 1 (nhiễm HIV chưa có triệu chứng hoặc tải virus
thấp):

-

Loại phơi nhiễm ít trầm trọng (kim đặc hoạc tổn thương nông): Phác đồ dự 2 thuốc

-

Loại phơi nhiễm trầm trọng hơn (kim rỗng, đâm sâu, kim chích động tĩnh mạch):
Phác đồ mở rộng 3 thuốc



Nguồn HIV dương tính nhóm 2 (nhiễm HIV có triệu chứng, AIDS): phác đồ mở
rộng 3 thuốc cho các loại phơi nhiễm.
Theo dõi người bị phơi nhiễm với HIV/AIDS

-

Theo dõi tác dụng phụ của ARV: Tư vấn cho người được điều trị dự phòng về tác
dụng phụ có thể có của ARV. Không nên ngừng điều trị khi có tác dụng phụ nhẹ và

thoáng qua. Nếu có các tác dụng phụ nặng, chuyển đến các cơ sở y tế ngay.

-

Hỗ trợ tâm lý nếu cần thiết.

-

Xét nghiệm lại HIV sau 3tháng.

-

Tư vấn về việc không được cho máu, nên quan hệ tình dục an toàn, thực hành tiêm
chích an toàn, và không cho con bú cho đến khi loại trừ được tình trạng nhiễm HIV.


12

1.3. Tình hình chấn thương do vật sắc nhọn ở sinh viên điều dưỡng
1.3.1. Trên thế giới
Trên thế giới nhiều nghiên cứu về chấn thương do vật sắc nhọn đã được triển
khai chỉ ra rằng chấn thương do VSN trong thực tập lâm sàng là vấn đề phổ biến ở
sinh viên điều dưỡng. Đồng thời kiến thức về phòng ngừa và xử lý sau phơi nhiễm
với kim tiêm và vật sắc nhọn của sinh viên được nhiều tác giả đề cập tới chưa cao.
Về kiến thức phòng ngừa phơi nhiễm với kim tiêm và vật sắc nhọn, theo
nghiên cứu của tác giả Hani A năm 2017 cho thấy hơn 80% SV cho rằng có thể lây
truyền HIV, HBV qua kim tiêm và SV dễ bị tổn thương do kim tiêm, 76% SV
không ý thức nhận thức được rằng kim không nên uốn cong sau khi sử dụng, 72%
SV tháo kim ra khỏi bơm biêm trước khi thải bỏ, 88% SV đồng ý rằng xử lý kém
vật sắc nhọn dẫn đến phơi nhiễm, 98% đồng ý rằng cách xử lý kim an toàn sẽ giúp

giảm tỷ lệ tổn thương [19]. Tương tự kết quả nghiên cứu của Hani A, nghiên cứu
của tác giả Taimur Saleem cho thấy hơn 85% HS/SV có kiến thức về khả năng
nhiễm viêm gan B, viêm gan C và HIV từ vết thương do kim đâm. Chỉ 16,4%
HS/SV năm thứ 3; 29,5% HS/SV năm thứ 4 và 36,2% HS/SV năm cuối biết đầy đủ
chi tiết của việc phòng ngừa các tổn thương do kim [20]. Để phòng ngừa tổn thương
do kim tiêm, 31,3% SV cho rằng cần đậy nắp kim bằng cách sử dụng kỹ thuật một
tay hoặc đậy nắp bằng cách giữ nắp trên bàn làm việc 40,6%; 85,5% SV cho rằng
nên loại bỏ kim luôn [21]. Chỉ có 16,5% SV tự tin rằng họ có đủ kiến thức liên quan
đến tổn thương do kim tiêm [22]. Sinh viên cho rằng sự thiếu kiến thức về phòng
chống chấn thương do VSN là yếu tố nguy cơ cực kỳ lớn dẫn đến bị chấn thương tại cơ
sở y tế. Nghiên cứu chỉ ra rằng cần phải giáo dục để thúc đẩy nhận thức của sinh viên
về phòng ngừa và sự nguy hiểm của tổn thương nghề nghiệp do vật sắc nhọn [23].
Khi bị phơi nhiễm với kim tiêm hành động xử lý vết thương ngay lập tức
đúng kỹ thuật sẽ giúp giảm nguy cơ lây nhiễm các bệnh qua đường máu.Tuy nhiên,
kiến thức về xử trí vết thương sau phơi nhiễm của SVchưa được tốt. Theo nghiên
cứu của Souza-Borges năm 2014 có 85,9% SV không biết hoặc chỉ biết một phần
trong các bước xử trí sau phơi nhiễm [7]. Sinh viên nha khoa của Raichur ở Ấn Độ


13

nói rằng họ sẽ nặn bóp máu vết thương sau khi bị chấn thương do kim [24] . Tương
tự , nghiên cứu Kin Cheung có 62,1% SV rửa tay ngay dưới vòi nước đồng thời nặn
máu, làm sạch bằng bông cồn 56,9% [25]. Thậm chí, theo kết quả nghiên cứu của
Baghcheghi có 51,6% SV trường đại học khoa học sức khỏe Arack còn thực hiện
nặn máu từ vết thương, hành động xử lý vết thương sai trầm trọng và 10% Sv không
thực hiện bắt cứ hành động nào sau chấn thương [8].
Sau khi bị phơi nhiễm với kim tiêm và vật sắc nhọn SV cần phải báo cáo với
người phụ trách/ quản lý về tình trạng phơi nhiễm để được tư vấn và điều trị dự
phòng nếu cần thiết. Tuy nhiên, tỷ lệ SV báo cáo sau chấn thương theo các nghiên

cứu còn chưa cao. Đánh giá kiến thức của SV về báo cáo chấn thương do VSN có
10,4% không biết phải báo cáo, 44,8% biết một số yêu cầu, 27,1% biết tốt, 17,7%
biết rất tốt về thủ tục báo cáo sau chấn thương [1]. Theo nghiên cứu của SouzaBorges có 32,4% SV bị chấn thương không báo cáo với người quản lý. Sinh viên
viện giải lý do không báo cáo là: sơ suất 37,5%, vết thương nhỏ không có nguy cơ
lây bệnh 12,5%; không cần thiết báo cáo 12,5%; sợ bị phạt 12,5%. Trong số bệnh
nhân nguồn phơi nhiễm có 8,1% bệnh nhân HBV/HCV/HIV (+); 35,1% không quan
tâm đến tác hại sau phơi nhiễm của nguồn bệnh [1]. Khác với kết quả của SouzaBorges, kết quả nghiên cứu của Kin Cheang cho thấy tỷ không báo cáo tổn thương
là 60,7% vì lý do họ coi thiết bị là sạch không bị nhiễm khuẩn (76,5%), nguy cơ lây
nhiễm mầm bệnh thấp (50%), quy trình báo cáo phức tạp (14,7%), sợ bị phạt
(11,8%), không biết báo cáo như thế nào và không có thời gian báo cáo (2,9%) [25].
Một nghiên cứu khác tại trường đại học Mahatma Gandhi cho thấy tỷ lệ SV không
báo cáo sau chấn thương là 77,4% trong đó 47,9% SV không biết phải báo cáo như
thế nào [26]. Vì vậy, nguyên tắc của việc huấn luyện kiểm soát nhiễm khuẩn và tất
cả các chấn thương cần được báo cáo tiếp tục được nhấn mạnh trong quá trình giảng
dạy sinh viên điều dưỡng [27].
Sau phơi nhiễm có hơn ½ sinh viên không xác định tình trạng bệnh nhân mà
mình bị phơi nhiễm qua chấn thương, có 11,4% đã dự phòng phơi nhiễm và 19,54%
đã đi xét nghiệm huyết thanh [28].


14

1.3.2. Tại Việt Nam
Hiện tại, Việt Nam có rất ít đề tài nghiên cứu liên quan kiến thức thái độ về
phòng và xử trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn trong tiêm trên sinh viên điều dưỡng.
Xử lý đúng vết thương và báo cáo sự việc bị chấn thương đến người có trách nhiệm
là hành động sinh viên cần thực hiện nghiêm túc để bảo vệ chính bản thân, đồng
thời cung cấp số liệu cho hệ thống giám sát tai nạn nghề nghiệp.
Kiến thức của SV về phòng ngừa và xử trí sau phơi nhiễm với kim tiêm và
vật sắc nhọn chưa cao. Chỉ có 36,91% HSSV trả lời đúng trên 70% nội dung về kiến

thức về phòng ngừa phơi nhiễm nghề nghiệp do kiêm tiêm truyền, Đa số HSSV chỉ
biết một số chi tiết về quy trình xử trí phơi nhiễm với máu và dịch tiết do kim tiêm
truyền [12]. Theo kết quả nghiên cứu của Hồ Văn Luyến, 80% SV đã được giảng về
phòng và xử trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn nhưng chỉ có 57,8% sinh viên có kiến
thức đúng về phòng ngừa và xử lý chấn thương do vật sắc nhọn [10].
Sau khi bị chấn thương chỉ có 48% SV sơ cứu vết thương ngay lập tức [29],
có 63% sinh viên điều dưỡng xử lý sai vết thương: nặn bóp máu ở vết thương và vệ
sinh bằng dung dịch khử khuẩn [11], thậm chí 11,2% sinh viên không thực hiện bất
kỳ biện pháp nào để xử lý vết thương [30].
Tỷ lệ báo cáo sau phơi nhiễm còn chưa cao. chỉ có 9% SV có báo cáo và
14% SV được làm xét nghiệm máu sau phơi nhiễm trong kết quả nghiên cứu của Đỗ
Nguyên Phương [29]. Một nghiên cứu khác tại trường đại học Y khoa Vinh cho kết
quả có 41% sinh viên điều dưỡng báo cáo sau chấn thương,trong đó 31% báo cáo
đúng người có trách nhiệm, lý do chính SV không báo cáo bởi vì nhận thấy không
có nguy cơ lây bệnh, và báo cáo cũng không giải quyết được vấn đề gì [11].
Người bị chấn thương có thể bị lây nhiễm các tác nhân gây bệnh truyền
nhiễm qua đường máu nguy hiểm như HIV, HBV, HCV, đây là các nhóm bệnh nguy
hiểm hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Trường Đại học Y khoa Vinh năm
2014 có 2 sinh viên điều dưỡng bị kim tiêm cho bệnh nhân AIDS đâm vào tay phải
điều trị PEP [46]. Cho đến nay, tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào về vấn đề kiến
thức, thái độ về phòng và xử trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn trong tiêm truyền trên


15

sinh viên điều dưỡng. Qua một số nghiên cứu ở đối tượng sinh viên y đa khoa, cao
đẳng và trung cấp điều dưỡng cho thấy thực kiến thức về phòng ngừa và xử lý sau
phoi nhiễm còn rất kém [29] [10] [12] [11].
1.4. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ về phòng và xử trí phơi
nhiễm với vật sắc nhọn trong tiêm truyền

1.4.1. Giới
Do đặc thù nghề nghiệp nên tỷ lệ sinh viên điều dưỡng đa phần là nữ ít nam
hơn [12] [11]. Sinh viên điều dưỡng nữ bị chấn thương do vật sắc nhọn trong thực
tập lâm sàng cao gấp 1,8 lần so với sinh viên nam [11]. Tuy nhiên, Nam sinh viên
có sự quan tâm nhiều hơn về yếu tố nguy cơ và tích cực tìm kiếm phương tiện sơ
cứu sau chấn thương hơn nữ [29]. Sinh viên nam có kiến thức chưa đạt về phân loại
rác thải gấp 1,9 lần sinh viên nữ [31].
1.4.2. Năm học
Thời gian học là yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức và thái độ về phòng và xử
trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn. Các sinh viên năm cuối thường có nhận thức tốt
hơn kiến thức và thái độ về phòng và xử trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn, bên cạnh
đó do có thời gian học lâm sàng nhiều hơn, các sinh viên lớp lớn có thể đã từng trải
qua hoặc được chứng kiến các trường hợp bị phơi nhiễm với vật sắc nhọn nhiều hơn
do đó có sự cảnh giác cao hơn. Nghiên cứu của Taimur Saleem chỉ ra rằng có sự
liên quan giữa số năm được đào tạo và kiến thức về phòng ngừa các tổn thương do
kim tiêm, các sinh viên năm cuối có kiến thức tốt hơn về phòng ngừa các tổn
thương do kim tiêm [6]. Tương tự, theo tác giả Mohammat Suliman sinh viên năm
thứ 4 có kiến thức về tổn thương do kim tiêm cao hơn (điểm trung bình 7,4; SD=
1,6) so với sinh viên năm thứ 2 (điểm trung bình 6,5; SD= 1,8) với p< 0,001 [22].
Ngược lại, theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Mai Thơ SVĐD năm thứ 3 có
kiến thức về phòng ngừa chấn thương do vật sắc nhọn trong thực hành lâm sàng cao
hơn gấp 2,8 lần SVĐD năm 4 [11].
1.4.3. Chương trình đào tạo/hình thức đào tạo


16

Việc đào tạo về phòng ngừa và xử trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn trong tiêm
truyền của sinh viên trường Cao đẳng Y tế Hà Nội thuộc nội dung học môn kiểm
soát nhiễm khuẩn được thực hiện bởi bộ môn Kiểm soát nhiễm khuẩn vào năm thứ

nhất với hình thức tự học lý thuyết và đi thực hành lâm sàng bệnh viện 1 tuần. Đã
có nhiều bằng chứng chỉ ra rằng, chương trình đào tạo ảnh hưởng đến kết quả thực
hành dự phòng phơi nhiễm với vật sắc nhọn.
Thiếu tập huấn, đào tạo về phòng ngừa phơi nhiễm nghề nghiệp với các tác
nhân gây bệnh qua đường máu có thể khiến các SV điều dưỡng gặp rủi ro khi họ đi
thực hành lâm sàng tại bệnh viện. Những SV không được đào tạo về phòng ngừa
tổn thương do kim tiêm và vật sắc nhọn có nguy cơ bị tổn thương cao gấp 3 lần so
với SV được đào tạo [25].
Chương trình đào tạo về phòng lây nhiễm có liên quan đến việc có xử trí
đúng sau khi bị chấn thương. Tỷ lệ 1/3 sinh viên còn chưa được tập huấn về phòng
lây nhiễm khi thự tập lâm sàng; những SV được tập huấn thực hiện sơ cứu nhiều
hơn so với sinh viên chưa được tập huấn [29].
Do vậy, SV cần được đào tạo cẩn thận và nghiêm túc về phòng ngừa và xử trí
tổn thương do kim tiêm và vật săc nhọn để làm giảm nguy cơ tổn thương và tăng
cường báo cáo phơi nhiễm giúp giảm nguy cơ lây nhiễm các bệnh qua đường máu
[20] , [32].
1.4.4. Yêu nghề điều dưỡng
Sự yêu nghề là yếu tố có mối liên quan đến kiến thức đạt của sinh viên. Theo
Đoàn Thị Vân, những sinh viên khi được hỏi trả lời là không yêu nghề điều dưỡng thì
có kiến thức chưa đạt về phân loại chất thải y tế gấp 6,4 lần sinh viên yêu nghề [31].
1.4.5. Tâm lý của sinh viên
Tâm lý của sinh viên liên quan đến khả năng bị tổn thương do vật sắc nhọn
và cách xử trí sau phơi nhiễm để làm giảm nguy cơ lây nhiễm các bệnh qua đường
máu. SV lo lắng khi lần đầu tiên đi thực hiện thủ thuật có thể dẫn đến tổn thương


17

[19], [33]. Mức độ lo lắng trung bình 4,72 (SD=2,31) khi tiếp xúc với bệnh nhân
chung nhưng tăng lên 7,09 (SD=2,58) khi tiếp xúc với bệnh nhân có tác nhân gây

bệnh qua đường máu [1].
SV sợ bị phạt và kỷ luật khi báo cáo tổn thương do vật sắc nhọn cho giáo
viên hoặc người phụ trách [7], [23]. SV cũng nên yên tâm rằng chấn thương kim
tiêm sẽ không dẫn đến hành động bị phạt nên bất kỳ chấn thương do vật sắc nhọn
nào cũng phải được báo cáo cho người phụ trách để được dự phòng sau phơi nhiễm
cần thiết nếu cần [1].
Tâm lý chủ quan của sinh viên liên quan đến việc tiêm phòng viêm gan B
(VGB) trước khi đi thực tập tại các cơ sở y tế. Tỷ lệ sinh viên tiêm đủ 3 mũi VGB là
42,7%, tỷ lệ chưa tiêm là 42,9%, 14,4% tiêm chưa đầy đủ, trong đó có 8% sinh viên
nghĩ rằng mình không cần thiết phải tiêm ngừa và đặc biệt có 1% SV không biết nơi
nào tiêm ngừa VGB [29]. Tiêm phòng VGB cho SV trước khi đi thực hành lâm sàng
tại các cơ sở y tế là điều cần thiết [23], [34].
Sau chấn thương do kim tiêm 15% SV phải chịu đựng đau khổ tinh thần,
không ai trong số SV này báo cáo về bệnh mãn tính sau chấn thương do vật sắc
nhọn [26]. Mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng trầm cảm giảm theo thời gian
sau NSI, nhưng bệnh tâm thần kéo dài thêm 1,78 tháng mỗi tháng ở một bệnh nhân
NSI chờ đợi kết quả xét nghiệm âm tính [35]. Các chương trình quản lý sau phơi
nhiễm cần phải chú trọng hơn vào các sáng kiến giáo dục và tâm lý học để cải thiện
việc xác định và điều trị các đối tượng có triệu chứng trầm cảm [36].

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
- Sinh viên cao đẳng điều dưỡng năm thứ 2 đã học xong môn học: Điều
dưỡng cơ sở; Điều dưỡng và kiểm soát nhiễm khuẩn. Sinh viên cao đẳng điều
dưỡng năm thứ 3 trường Cao đẳng Y tế Hà Nội


18


- Sinh viên tự nguyện tham gia
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Sinh viên cao đẳng điều dưỡng năm 2 chưa học xong môn học: Điều dưỡng
cơ sở; Điều dường và kiểm soát nhiễm khuẩn
- Sinh viên không có mặt tại trường trong thời gian nghiên cứu hoặc sinh
viên không muốn tham gia nghiên cứu
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành tại trường Cao đẳng Y tế Hà Nội
2.2.2. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 01 /2018 đến tháng 04 /2019.
Trong đó:
-

Thời gian viết đề cương nghiên cứu từ tháng 01 /2018 đến tháng 5 /2018
Thời gian thu thập số liệu được tiến hành từ tháng 8 đến tháng 9 năm 2018.
Thời gian viết báo cáo và xử lý số liệu từ tháng 10 năm 2018 đến tháng 4 năm 2019.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.3.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu:
- Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu nghiên cho nghiên cứu cắt ngang
cứu tỷ lệ: P =58%

+ P: tỷ lệ ước tính ( tỷ lệ sinh viên có kiến thức tốt về phòng và xử trí với vật
sắc nhọn là 58% [10].
+ d: độ chính xác tuyệt đối mong muốn (d=5%)
Z: Z score tương ứng với mức có ý nghĩ thống kê mong muốn (mức ý nghĩa
thống kê mong muốn là 95%: Z=1,96)
Tính đến thời điểm tiến hành nghiên cứu (8/2018) trường Cao đẳng y tế Hà

Nội có 668 sinh viên năm thứ 3 (cao đẳng điều dưỡng khóa 11) được chia thành 12


19

lớp từ A đến M và 1066 sinh viên năm thứ 2 (cao đẳng điều dưỡng khóa 12) được
chia thành 41 lớp từ A1 đến A41. Tuy nhiên, đến tháng 8/ 2018 chỉ có 12 lớp đầu từ
12A1 đến 12A20 là đã học xong môn Điều dưỡng cơ sở và môn Điều dưỡng và
kiểm soát nhiễm khuẩn. Tổng số sinh viên của 20 lớp này là 520 sinh viên. Do đó,
tổng số sinh viên là: 668+520=1188 sinh viên. Vậy số sinh viên cần lấy vào mẫu
nghiên cứu là:
+ Sinh viên năm thứ 3: 668x380/1188=214 sinh viên.
+ Sinh viên năm thứ 2: 520x380/1188=166 sinh viên
- Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống với hệ số
k=1188/374= 3,2≈4 Vậy lấy k=4
- Cách chọn mẫu: Lập danh sách sinh viên theo thứ tự lớp của từng khóa
+ Cao đẳng khóa 11 (sinh viên năm thứ 3) lập danh sách mẫu theo thứ tự từ
lớp 11A đến lớp 11M, chọn 1 số thứ tự bất kỳ, sau đó lấy tịnh tiến theo hệ số k. Số
thứ tự đầu tiên chọn là số (x), số tiếp theo là x+k, x+2k, x+3k… cứ tiếp tục cho đến
khi lấy đủ 214 sinh viên. Lập danh sách mẫu nghiên cứu có đầy đủ họ tên, ngày
tháng năm sinh, lớp của 214 sinh viên được lựa chọn.
+ Làm tương tự với sinh viên năm thứ 2 (cao đẳng khóa 12) nhưng chỉ lấy
cho đến khi lấy đủ 166 sinh viên. Lập danh sách mẫu nghiên cứu có đầy đủ họ tên,
ngày tháng năm sinh, lớp của 166 sinh viên được lựa chọn.
2.4. Công cụ và quá trình thu thập số liệu
2.4.1. Công cụ thu thập
2.4.1.1 Qúa trình xây dựng bộ câu hỏi
Bộ câu hỏi nghiên cứu được thiết kế dựa trên bộ câu hỏi về kiến thức phòng
ngừa phơi nhiễm nghề nghiệp do kim tiêm truyền của tác giả Nguyễn Thị Hoàng
Thu; bộ câu hỏi về kiến thức, thái độ phòng ngừa bệnh viêm gan B nghề nghiệp của

tác giả Trần Thị Bích Hải năm 2015 và bộ câu hỏi về kiến thức phòng ngừa tổn
thương do vật sắc nhọn của Seham A năm 2015. Các nội dung bao gồm: kiến thức
về phòng và xử lí phơi nhiễm với vật sắc nhọn [12], [20], [37].


20

Các phần còn lại trong bộ câu hỏi được xây dựng dựa trên nội dung của
quyết định số: 3671/QĐ - BYT ngày 27/9/2012 của Bộ Y tế về “Hướng dẫn tiêm an
toàn trong các cơ sở Khám bệnh, chữa bệnh” [14] và quyết định số 5771/BYTK2ĐT ngày 30/08/2012 của Bộ Y tế về “Tài liệu đào tạo phòng và kiểm soát nhiễm
khuẩn” [17].
Qúa trình sinh dựng, hoàn thiện bộ câu hỏi gồm các bước:
+
+
+
+
+
+

Tham khảo tài liệu
Xây dựng bộ câu hỏi
Xin ý kiến chuyên gia
Thử nghiệm bộ câu hỏi trên bệnh nhân
Chỉnh sửa bộ câu hỏi
Thu thập trên sinh viên
Bộ câu hỏi được sự góp ý của: 1 Tiến sỹ chuyên về Hồi sức cấp cứu, là giảng
viên khoa Điều dưỡng- Hộ sinh, trường Đại học Y Hà Nội. Bộ câu hỏi còn nhận
được sự đóng góp ý kiến của 3 Thạc sỹ: 1 Thạc sỹ chuyên về kiểm soát nhiễm
khuẩn, phụ trách kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện Đại học Y Hà Nội, 1 Thạc sỹ là
trưởng khoa kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện Ung Bướu Hà Nội, 1 Thạc sỹ là

trưởng bộ môn kiểm soát nhiễm khuẩn trường Cao đẳng Y tế Hà Nội.
Người nghiên cứu sẽ tiến hành thử nghiệm bộ câu hỏi trên: 26 sinh viên cao
đẳng điều dưỡng lớp 12A1 - trường Cao đẳng Y tế Hà Nội.
2.4.1.2. Nội dung của bộ câu hỏi.
Bộ câu hỏi nghiên cứu bao gồm 2 phần ( phụ lục 1):

 Thông tin cơ bản của đối tượng
 Các nội dung về phòng và xử trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn trong tiêm truyền.

a. Thông tin chung bao gồm









Tuổi
Giới
Năm học
Có yêu nghề điều dưỡng không
Thời gian gần đây đọc tài liệu liên qua đến phơi nhiễm do vật sắc nhọn
Có được hướng đọc, học những kiến thức về phòng ngừa phơi nhiễm với VSN
Có được hướng đọc, học những kiến thức về xử trí phơi nhiễm với VSN
Tự đánh giá mức độ hiểu biết của mình về phòng và xử trí phơi nhiễm với VSN


21


 Hình thức mong muốn đào tạo liên quan đến phơi nhiễm do vất sắc nhọn
 Đã tiêm phòng vắc- xin viêm gan B chưa
 Lý do chưa tiêm vắc - xin viêm gan B

b. Các nội dung liên quan đến phòng và xử trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn
trong tiêm truyền






Kiến thức về các bệnh lây truyền qua đường máu liên quan tới vật sắc nhọn: 3 câu
Kiến thức về thời điểm nhân viên y tế có thể bị phơi nhiễm: 5 câu
Kiến thức về biện pháp phòng ngừa phơi nhiễm: 13 câu
Kiến thức về xử trí phơi nhiễm: 16 câu
Thái độ về phòng và xử trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn trong : 9 câu
2.4.2. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu
Công cụ thu thập số liệu: bộ câu hỏi tự điền
Phương pháp thu thập số liệu: thiết kế sắn bộ câu hỏi tự điền, phát cho mỗi đối
tượng nghiên cứu 1 bộ câu hỏi tự điền để thu thập số liệu
Đối tượng nghiên cứu đã được lập danh sách với đầy đủ họ tên, ngày tháng năm sinh
và lớp được mời họp, thông báo, giải thích cụ thể, rõ ràng và giải đáp tất cả các thắc
mắc về nghiên cứu, quyền lợi và trách nhiệm khi tham gia vào nghiên cứu, sau đó
được lấy ý kiến có đồng ý tham gia nghiên cứu. Sinh viên nào không đồng ý tham gia
nghiên cứu thì cảm ơn, chào ra về. Còn những sinh viên đồng ý tham gia nghiên cứu
được chia ngẫu nhiên vào 5 giảng đường, mỗi bàn 2 sinh viên ngồi, và được phát
phiếu nghiên cứu tự điền. Mỗi giảng đường có 01 điều tra viên hướng dẫn cách điền
phiếu nghiên cứu, hỗ trợ và giải đáp thắc mắc cho sinh viên.

Điều tra viên: 05 người (02 giảng viên bộ môn Điều dưỡng cơ sở và 03 giảng viên
bộ môn Kiểm soát nhiễm khuẩn) được tập huấn kĩ lưỡng, cụ thể, tỉ mỉ về bộ câu
hỏi, những vướng mắc có thể gặp phải, cách giải đáp thắc mắc của SV. Điều tra viên
sẽ hỗ trợ trong quá trình SV điền phiếu nghiên cứu; đảm bảo các SV không trao đổi
với nhau khi điền phiếu; yêu cầu SV có vướng mắc gì chưa hiểu thì hỏi trực tiếp
điều tra viên, SV không ghi hoặc ký tên vào phiếu điều tra (phát vấn khuyết danh).
Khi SV hoàn thành phiếu, điều tra viên phải kiểm tra cẩn thận, nếu chưa đầy đủ


22

thông tin thì yêu cầu SV hoàn thiện. Tập hợp phiếu và đưa lại đầy đủ số phiếu của
phòng mình được phân công phụ trách cho nghiên cứu viên.
Giám sát viên: nghiên cứu viên sẽ giám sát, hỗ trợ điều tra viên trong quá trình thu
thập và làm sạch số liệu
2.5. Phương pháp phân tích số liệu
Quản lý số liệu: Sau khi thu thập, phiếu điều tra được kiểm tra tính đầy đủ của
thông tin. Sau đó phiếu được đưa lại cho nghiên cứu viên để làm sạch, mã hóa, nhập
và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0.
Phân tích số liệu: Kết quả phân tích được chia làm 2 phần:
+ Phân tích mô tả những bảng, biểu thể hiện tần số của các biến nghiên cứu.
+ Các câu hỏi tự điền và in sẽ được chỉnh sửa và mã hóa cho các mục để
nhập máy tính và tất cả các câu hỏi sẽ được kiểm tra lại bởi các điều tra viên chính.
Những dữ liệu được nhập vào máy tính, làm sạch và phân tích bằng cách sử dụng
IBM SPSS (phiên bản 20.0). Số liệu sẽ được phân tích với một loạt các phương
pháp thống kê được trình bày trong phần này. Thống kê mô tả sẽ được sử dụng để
tính toán khoảng tin cậy tần số, độ lệch chuẩn và 95% cho mỗi phân loại ở các phần
của bộ câu hỏi.
Các test thống kê Chi-bình phương sẽ được sử dụng để kiểm tra giữa đặc
điểm chung của đối tượng và sự khác biệt theo biến phân loại trong phần trả lời về

kiến thức, thái độ
2.6. Các tính và cho điểm kiến thức, thái độ ( phụ lục 2)
Phần kiến thức có các câu hỏi từ C12 đến C49 bao gồm cả những câu có
nhiều lựa chọn và trừ câu 38 không tính điểm (vì thể hiện quan điểm của người trả
lời). Nên mỗi ý trả lời đúng được 1). Dựa vào phần trả lời của các câu hỏi trong
phiếu điều tra của ĐTNC, theo thang điểm để tính điểm và đánh giá có kiến thức
đúng hay không đúng được đánh giá cho từng phần. Nếu trả lời đúng trên 3/4 các ý
đúng được coi là kiến thức đúng cụ thể như sau:


23

 Kiến thức về các bệnh lây truyền qua đường máu liên quan tới vật sắc nhọn: 3 câu

có tổng điểm là 8 điểm. Kiến thức đúng khi trả lời đúng ≥ 6 điểm, kiến thức chưa
đúng < 6 điểm
 Kiến thức về thời điểm nhân viên y tế có thể bị phơi nhiễm: 5 câu có tổng điểm là 5

điểm. Kiến thức đúng khi trả lời đúng ≥ 4 điểm, kiến thức chưa đúng < 4 điểm.
 Kiến thức về biện pháp phòng ngừa phơi nhiễm: 13 câu có tổng điểm là 27 điểm.
Kiến thức đúng khi trả lời đúng ≥ 20 điểm, kiến thức chưa đúng < 20 điểm
 Kiến thức về xử trí phơi nhiễm: 16 câu có tổng điểm là 22 điểm. Kiến thức đúng khi

trả lời đúng ≥ 16 điểm, kiến thức chưa đúng < 16 điểm
Điểm tối đa cho phần đánh giá kiến thức chung là: 61 điểm. Nếu trả lời đúng trên
3/4 các ý đúng được coi là kiến thức đúng. Điểm kiến thức chung đúng 46 ≥ điểm;
Điểm kiến thức chung chưa đúng < 46 điểm [10], [11].
Nghiên cứu đo lường thái độ của sinh viên về phòng và xử trí phơi nhiễm với
vật sắc nhọn trong tiêm truyền bằng 10 câu hỏi từ C50 đến C58 trong phiếu điều tra.
Nhằm hạn chế những sai lệch do sự đồng ý hoặc phản đối được trả lời theo dây

chuyền, những quan điểm đưa ra là sự xen kẽ giữa những quan điểm tích cực và
quan điểm tiêu cực. Trong 9 câu hỏi có 4 câu thể hiện quan điểm tiêu cực; 5 câu thể
hiện quan điểm tích cực được đặt xen kẽ nhau.
Đối với 5 câu thể hiện quan điểm tích cức, gộp mức rất đồng ý và mức đồng
ý là 1 điểm, trung lập và không đồng ý 0 điểm. Đối với 4 câu thể hiện quan không
đồng ý là 1 điểm, trung lập và đồng ý là 0 điểm.
Điểm tối đa cho phần đánh giá thái độ là 9 điểm. Nếu ĐTNC trả lời đúng 2/3
ý đúng và trả lời đúng C50 và C54 được coi là thái độ đúng. Điểm đúng 6 ≥ điểm;
không đúng < 6 điểm [37], [38].
2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
Để đảm bảo đạo đức nghiên cứu, chúng tôi sẽ thực hiện các công việc sau đây:
-

Giải thích mục đích ý nghĩa của cuộc điều tra cho ĐTNC để sinh viên hiểu và quyết
định tham gia nghiên cứu. Mọi đối tượng đều có thể hỏi những câu hỏi trước khi
tiến hành nghiên cứu liên quan đến mục đích, quyền lợi của đối tượng nghiên cứu.


24

-

Điều tra trên những đối tượng tự nguyện đồng ý cộng tác, không ép buộc và trên
tinh thần tôn trọng. Đối tượng nghiên cứu có thể bỏ qua những câu trả lời cảm thấy

-

không thích trả lời nó.
Đối tượng nghiên cứu sẽ ký cam kết thoả thuận trước khi tham gia vào nghiên cứu.
Việc phỏng vấn được tiến hành vào thời điểm thuận tiện cho sinh viên sau khi đã


-

kết thúc tiết học trong ngày
Các thông tin cá nhân được đảm bảo giữ bí mật.
Nghiên cứu chỉ nhằm mục đích xác định kiến thức, thái độ của sinh viên về phòng
và xử trí phơi nhiễm với vật sắc nhọn trong tiêm tiêm truyền nhằm mục đích đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao kiến thức, thái độ của sinh viên về vấn đề này trước

-

và trong quá trình đi lâm sàng bệnh viện.
Kết quả nghiên cứu sẽ không ảnh hưởng tới bất kỳ một kết quả xếp loại hoặc học
tập nào của đối tượng tham gia nghiên cứu
2.8. Sai số và cách khắc phục




Các sai số trong nghiên cứu này có thể là sai số hệ thống
Các sai số hệ thống có thể gặp trong nghiên cứu này là sai số thông tin, sai số trong

-

quá trình thiết kế và thu thập thông tin gồm:
Sai số nhớ lại: vì nghiên cứu có hỏi một số thông tin trong quá khứ.
Sai số chọn mẫu ít xảy ra do trong nghiên cứu chúng tôi sử dụng chọn mẫu toàn bộ

với cỡ mẫu đủ lớn để phát hiện vấn đề của nghiên cứu.
• Một số biện pháp khắc phục sai số:

- Bộ câu hỏi được thử nghiệm trên đối tượng nghiên cứu trước khi điều tra chính
-

thức.
Các định nghĩa tiêu chuẩn đưa ra thống nhất, rõ ràng.
Tập huấn kỹ cho điều tra viên về bộ câu hỏi nhằm thống nhất nội dung từng câu hỏi.
Phiếu điều tra được giám sát ngay trong ngày điều tra.
Đối tượng được thỏa thuận tự nguyện tham gia nghiên cứu, khi đó thì thông tin sẽ

-

chính xác hơn.
Để hạn chế thiếu sót thông tin, có quá trình giám sát trong điều tra thu thập số liệu
trong đó các phiếu điều tra được điều tra viên kiểm tra ngay sau khi người tham gia

-

hoàn thành phiếu phỏng vấn để yêu cầu bổ sung những thông tin còn thiếu.
Nhóm nghiên cứu được tập huấn và tuân thủ quy trình nghiên cứu chặt chẽ, đảm
bảo vấn đề đạo đức nghiên cứu, đối tượng tham gia nghiên cứu không ghi hay ký
tên vào phiếu điều tra.


25

Chương 3
DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu (ĐTNC)
Biểu 3.1. Tuổi của đối tượng nghiên cứu
Nhận xét: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là: … + SD

Bảng 3.1: Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu (N=)
Thông tin chung
Giới
Năm học
Có yêu nghề không

Phân loại

Số lượng (N)

Tỷ lệ %

Nam
Nữ
Thứ Năm thứ 2
Thứ Năm thứ 3

Không

Nhận xét:
Bảng 3.2. Một số thông tin liên quan đến việc học tập về phòng và xử trí phơi
nhiễm với vật sắc nhọn trong tiêm truyền
Thông tin
Thời gian gần đây học, đọc tài
liệucó liên quan đếnvề phòng
và xử trí phơi nhiễm với tổn
thương do vật sắc nhọn
Được hướng dẫn học, đọc
những kiến thức về phòng
ngừa

Được hướng dẫn học, đọc
những KT về xử trí phơi nhiễm

Phân loại
< 3 tháng
3 – 6 tháng
7 – 12 tháng
Chưa bao giờ đọc

Không


Không
Chỉ nghe nói nhưng
Tự đánh giá mức độ hiểu biết k biết chi tiết
Biết một số chi tiết
của mình về phòng và xử trí
phơi nhiễm
Biết đầy đủ chi tiết
Không biết gì
Hình thức mong muốn được Tự đọc tài liệu trong
đào tạo về phòng và xử trí phơi giáo trình
nhiễm với vật sắc nhọn
Giảng lý thuyết
Giảng LS tại BV
Khác

Số lượng (N)

Tỷ lệ %



×