Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

HOẠT ĐỘNG CHO VAY và QUẢN TRỊ rủi RO CHO VAY đối với KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP TRONG NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (819.47 KB, 77 trang )

Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ QUẢN TRỊ RỦI
RO CHO VAY ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP TRONG NHTM.
1. Những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay của NHTM
1.1. Ngân hàng Thương mại và các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm NHTM:
Theo điều 20 khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tín dụng (12/12/97): “NHTM là
một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ
và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gởi, sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán”.
1.1.1.2. Đặc điểm của NHTM:
+ Vốn bằng tiền vừa là phương tiện, vừa là mục đích kinh doanh nhưng đồng
thời cũng vừa là đối tượng kinh doanh của NHTM.
+ NHTM kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác. Vốn tự có của
NHTM chiếm một tỷ lệ rất thấp trong tổng nguồn vốn hoạt động, nên việc kinh
doanh của NHTM luôn gắn liền với một rủi ro mà ngân hàng buộc phải chấp nhận
với một mức độ mạo hiểm nhất định. Bởi vì trong hoạt động kinh doanh hằng ngày
của mình, NHTM không những phải bảo đảm nhu cầu thanh toán, chi trả mà còn
phải đảm bảo tốt nhu cầu chi trả tiền gửi của khách hàng.
+ Hoạt động kinh doanh của NHTM có liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh
vực hoạt động và nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. Do đó, tình hình tài chính
của NHTM có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của các DN, tâm lý
của người dân, cũng như của cả nền kinh tế.
+ Hoạt động kinh doanh của NHTM là hoạt động chứa nhiều rủi ro, bởi lẽ nó
tổng hợp tất cả các rủi ro của khách hàng, đồng thời rủi ro trong hoạt động kinh


doanh ngân hàng có thể gây ảnh hưởng lớn cho nền kinh tế vì tính chất lây lan có
thể làm rung chuyển toàn bộ hệ thống kinh tế.
+ Hoạt động kinh doanh của NHTM có những đặc thù riêng mả các DN
trong các ngành khác không có. Đồng thời, hoạt động kinh doanh của NHTM diễn
SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 1


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

biến liên tục trong mỗi loại hình nghiệp vụ và các sản phẩm của NHTM có mối liên
hệ với nhau rất chặt chẽ. Điều này sẽ gây khó khăn trong việc tách riêng từng mặt
hoạt động của ngân hàng để phân tích kết quả tài chính.
1.1.2. Vai trò của NHTM:
Cùng với sự nghiệp đổi mới và đi lên của đất nước thì không thể phủ nhận
vai trò đóng góp to lớn của ngành Ngân hàng.
+ Thứ nhất: NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế, là công cụ quan
trọng thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất.
+ Thứ hai: NHTM là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường thông qua
hoạt động tín dụng của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp.
+ Thứ ba: NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông
qua hoạt động của NHTM, NHTW thực hiện chính sách tiền tệ phục vụ các mục
tiêu ngắn hạn hoặc dài hạn của chính phủ bằng các công cụ như: ấn định hạn mức
tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở để tác
động tới lượng tiền cung ứng trong lưu thông.
+ Thứ tư: Là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế.
1.1.3. Các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM

1.1.3.1. Nghiệp vụ huy động vốn:
Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên chủ yếu của NHTM, thông qua nghiệp vụ
này thì các nghiệp vụ khác của NHTM mới có khả năng thực hiện được. NHTM có
thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gửi của các cá nhân và
các tổ chức kinh tế qua các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và
tiền gửi tiết kiệm. Ngoài ra khi cần thêm vốn, ngân hàng có thể huy động vốn bằng
cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi, các trái phiếu ngân hàng hay vay của NHNN
và các tổ chức tín dụng khác.
Tuy nhiên, ngân hàng phải thu hút vốn trên cơ sở vốn tự có. Vốn tự có được
coi là nền tảng cơ bản để chống đỡ các rủi ro trong kinh doanh. Tỷ trọng giữa vốn
huy động và vốn tự có được quy định cụ thể trong Luật ngân hàng mỗi nước, ở Việt
Nam các NHTM không được phép huy động vốn quá 20 lần tổng số vốn tự có, nếu
vượt quá phải tăng vốn tự có lên để bảo đảm tỷ lệ quy định.
1.1.3.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn:

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 2


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

Trong nền kinh tế thị trường, NHTM thực chất cũng là một doanh nghiệp vì
vậy khi kinh doanh phải coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu và cuối cùng. Để tạo ra
lợi nhuận và thu nhập cho ngân hàng thì các NHTM phải biết sử dụng và khai thác
nguồn vốn một cách triệt để và hiệu quả nhất.
Hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản đem lại phần lợi nhuận cho các
NHTM. Các NHTM dùng nguồn vốn đã huy động được để cho vay và từ đó thu lợi

nhuận trên cơ sở chênh lệch phí đầu vào và phí đầu ra. Thực hiện nghiệp vụ này các
NHTM không những đã thực hiện được chức năng xã hội của mình thông qua việc
mở rộng vốn đầu tư, gia tăng sản phẩm xã hội, cải thiện đời sống nhân dân mà còn
có ý nghĩa rất lớn đến toàn bộ đời sống kỹ thuật thông qua các hoạt động tài trợ cho
các ngành, các lĩnh vực phát triển công nghiệp, nông nghiệp trong nền kinh tế.
Ngoài hoạt động cho vay là chủ yếu, các NHTM còn thực hiện các hoạt động đầu tư
hùn vốn liên doanh liên kết, kinh doanh chứng khoán trên thị trường tài chính. Hoạt
động này vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng vừa góp phần điều hòa lưu thông
tiền tệ trong nền kinh tế.
1.1.3.3. Các nghiệp vụ khác:
Ngoài các nghiệp vụ cơ bản trên, NHTM còn tiến hành các hoạt động dịch
vụ để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng và tăng lợi nhuận cho ngân hàng như:
+ Dịch vụ thanh toán và chuyển tiền
+ Dịch vụ mô giới và đại lý, ủy thác mua bán chứng khoán
+ Dịch vụ bảo quản và quản lý tài sản, chứng từ có giá.
+ Dịch vụ trung gian mua bán trên thị trường ngoại hối.
Thông qua các hoạt động này, ngân hàng được nhận khoản thu nhập dưới
hình thức là hoa hồng.
Có thể nói rằng, các nghiệp vụ của ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nghiệp vụ huy động vốn quyết định quy mô phạm vi hoạt động của ngân hàng.
Nghiệp vụ cho vay ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và
nó chỉ có thể thực hiện trên cơ sở nguồn vốn được huy động. Phát triển các dịch vụ
sẽ thu hút thêm được nhiều khách hàng, tạo điều kiện mở rộng hoạt động huy động
tiền gửi và cho vay. Mỗi nghiệp vụ đều là tiền đề, điều kiện để duy trì và phát triển

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 3



Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

các nghiệp vụ khác. Tuy nhiên, nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ quan trong nhất
quyết định kết quả kinh doanh của NHTM.
1.2. Nghiệp vụ cho vay của NHTM
1.2.1. Khái niệm cho vay của NHTM
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho
khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa
thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Cho vay là một trong những nghiệp vụ chủ yếu khi ngân hàng quyết định cấp
tín dụng cho khách hàng và cũng là nghiệp vụ mang về thu nhập chủ yếu cho ngân
hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn có thể xảy
ra với ngân hàng. Do vậy các NHTM luôn phải quan tâm tới rủi ro trong cho vay để
hạn chế tối đa rủi ro tín dụng xảy ra đối với ngân hàng.
1.2.2. Vai trò của hoạt động cho vay đối với nền kinh tế:
+ Hoạt động cho vay của ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với nền
kinh tế. Nó là đòn bẩy kinh tế phục vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa
bởi đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức.
Thông qua nghiệp vụ này nhà nước có thể điều chỉnh sự phát triển cơ cấu ngành
nghề của cả nền kinh tế và thúc đẩy sự ra đời của các thành phần kinh tế theo định
hướng của đất nước.
+ Thông qua nghiệp vụ cho vay của các NHTM nó đã thúc đẩy nền kinh tế
phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng. Nó tác động trực tiếp tới từng ngành nghề,
tới công nghệ máy móc trang thiết bị phục vụ cho quá trình CNH – HĐH đất nước.
+ Mặt khác thông qua hoạt động cho vay, nhà nước có thể kiểm soát các hoạt
động SXKD trong nền kinh tế để đưa ra các biện pháp chính sách quản lý kinh tế và
pháp lý phù hợp. Nhà nước có thể điều chỉnh nền kinh tế theo chính sách tín dụng
như chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều kiện cho vay khác cho các DN đầu tư

sản xuất theo mục tiêu của nhà nước.

1.2.3. Nguyên tắc cho vay của NHTM:

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 4


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

Việc vay vốn là nhu cầu tự nguyện của khách hàng và là cơ hội để Ngân
hàng cấp tín dụng và thu lợi nhuận từ hoạt động của mình. Tuy nhiên, cấp tín dụng
liên quan đến việc sử dụng vốn huy động của khách hàng nên phải tuân theo các
nguyên tắc nhất định. Nói chung khách hàng vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo
các nguyên tắc sau:
Một: sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng
(cho vay có mục đích, có kế hoạch và có hiệu quả).
Việc sử dụng vốn cho vay vào mục đích gì do hai bên ngân hàng và khách
hàng thỏa thuận và ghi trong hợp đồng tín dụng. Đảm bảo sử dụng vốn vay đúng
mục đích thỏa thuận nhằm bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi
nợ vay sau này. Do vậy, về phía ngân hàng trước khi cho vay cần tìm hiểu rõ mục
đích vay vốn của khách hàng đồng thời phải kiểm tra xem khách hàng có sử dụng
vốn vay đúng mục đích không. Điều này rất quan trọng vì việc sử dụng vốn vay
đúng mục đích hay không có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thu hồi nợ sau này.
Về phía khách hàng, việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn vay đồng thời giúp DN đảm bảo khả năng hoàn trả nợ cho
Ngân hàng. Từ đó, nâng cao uy tín của khách hàng đối với ngân hàng và củng cố

quan hệ vay vốn giữa khách hàng và ngân hàng sau này.
Hai: Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng.
Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt
động cho vay. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà
ngân hàng sử dụng để cho vay. Đại đa số nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho
vay là nguồn vốn tập trung và huy động từ các thành phần kinh tế, do đó, sau khi
cho vay trong một thời hạn nhất định khách hàng vay tiền phải hoàn trả đầy đủ cả
gốc và lãi cho ngân hàng. Hơn nữa bản chất của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn vay nên sau một thời gian nhất định vốn vay
phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi.
Ba: Vay vốn thì phải được đảm bảo.
Khách hàng muốn vay vốn của ngân hàng đều phải thế chấp bằng tài sản,
ngân hàng xem xét cho vay thông thường bằng 60-70% giá trị tài sản thế chấp. Thế

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 5


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

chấp có thể bằng hàng hóa thông thường hoặc các chứng từ tờ có giá như tín phiếu,
kỳ phiếu, cổ phiếu, giấy chứng nhận quyền sử dụng bất động sản. Hoặc có thể vay
vốn thông qua sự bảo lãnh của các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng có uy tín. Trong
suốt quá trính sử dụng vốn vay, khách hàng vay vốn luôn có tài sản làm đảm bảo.
Nguyên tắc này giúp cho khách hàng sử dụng vốn vay một cách có hiệu quả.
Ba nguyên tắc cơ bản này có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau thành

một tổng thể thống nhất, có ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ tín dụng giữa ngân hàng
với các thành phần kinh tế, phòng ngừa được các yếu tố rủi ro đảm bảo an toàn tín
dụng.
1.2.4. Phân loại cho vay:
Căn cứ vào tính chất nghiệp vụ, cho vay được phân thành như sau:
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng:
Đây là hình thức cho vay theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng
hạn mức tín dụng. Hạn mức này có thể tính cho đầu kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối
đa tại thời điểm tính.
Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng về nhu cầu vớn
khi cần thiết sẽ được ngân hàng giải quyết cho vay một cách nhanh chóng, giúp khách
hàng chớp được thời cơ trong kinh doanh. Ngân hàng dựa vào cơ sở kế hoạch SXKD
và nhu cầu vốn của khách hàng để cấp cho khách hàng những hạn mức phù hợp.
Bên cạnh những thuận lợi cho khách hàng thì về phía ngân hàng gặp một số
khó khăn trong khâu quản lý nguồn vốn và hiệu quả sử dụng vốn của từng lần vay.
 Cho vay trả góp:
Là hình thức cấp tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc
làm nhiều lần theo thời hạn tín dụng đã thỏa thuận.
Hình thức này thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn,
tài trợ cho tài sản cố định.
Cho vay trả góp chứa đựng rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng
hàng hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập của người vay do đó
lãi suất của hình thức này thường cao hơn lãi suất thông thường.
 Cho vay thấu chi:

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 6



Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi vượt
trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn xác định trong một khoảng
thời gian xác định, giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho những khách hàng có
khoản thu chi không phù hợp về thời gian và quy mô, thuận lợi trong quá trình
thanh toán nhanh và giúp khách hàng kịp thời.
Hình thức thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, thủ tục đơn giản, thường
những khoản vay thấu chi là không có tài sản đảm bảo. Hình thức này chỉ cho vay
đối với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn.
 Cho vay luân chuyển:
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa. Ngân hàng cấp tín
dụng cho khách hàng khi có nhu cầu về vốn để mua hàng hóa, và sẽ thu vốn về khi
khách hàng bán được hàng. Hình thức cho vay này đơn giản thuận lợi cho khách
hàng về thời gian và thủ tục.
 Cho vay gián tiếp:
Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Các tổ chức có
thể đứng ra bảo lãnh cho các thành viên trong nhóm vay khi mà các thành viên vay
không có tài sản thế chấp. Qua hình thức cho vay này ngân hàng có thể mở rộng thị
trường và qua hình thức này ngân hàng hỗ trợ phát triển kinh tế cho các hộ nghèo
không có điều kiện vay vốn của ngân hàng trực tiếp.
1.3. Khái niệm và phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng
1.3.1. Khái niệm về rủi ro ngân hàng:
Cụm từ “rủi ro” được nhiều nhà kinh tế định nghĩa theo nhiều cách khách
nhau, nhưng khát quát lại ta có thể hiểu rủi ro là xuất hiện một biến cố không mong
đợi gây thiệt hại cho một công việc cụ thể, rủi ro có thể xảy ra trong mọi lĩnh vực,
mọi hoạt động mà không phụ thuộc vào ý muốn con người.

Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng cũng luôn gắn liền với rủi
ro. Rủi ro tác động trực tiếp tới kết quả doanh lợi, nguy cơ phá sản của các ngân
hàng. Do vậy việc thừa nhận rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng và từ
đó tìm kiếm nhiều phương pháp chống đỡ các rủi ro là đòi hỏi sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là một tất yếu, mà các nhà
SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 7


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

quản lý ngân hàng chỉ có thể có chính sách giảm bớt chứ không thể gạt bỏ được
chúng.
1.3.2. Các loại rủi ro của NHTM
+ Rủi ro tín dụng: là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu
do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.
+ Rủi ro lãi suất: là những tổn thất tiềm tàng mà ngân hàng phải gánh chịu
khi lãi suất thị trường có sự biến đổi.
+ Rủi ro hoái đối: là loại rủi ro do sự biến động của tỷ giá hoái đối gây tổn
thất trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
+ Rủi ro thanh khoản: Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền
đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Khi gặp phải trường
hợp này các ngân hàng phải bán các tài sản có tính lỏng thấp với giá rẻ hay vay từ
NHTW.
+ Rủi ro tồn đọng vốn: Rủi ro tồn đọng vốn xảy ra khi vốn bị đọng lớn
không cho vay và đầu tư được làm cho thu nhập của ngân hàng giảm sút.
+ Rủi ro khác: Các loại rủi ro khác là rủi ro công nghệ, rủi ro quốc gia gắn

liền với các hoạt động đầu tư cũng như khả năng xảy ra cướp ngân hàng, nhầm lẫn
trong thanh toán, hỏa hoạn…
1.4. Rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM
1.4.1. Khái niệm rủi ro cho vay:
Có nhiều quan điểm khác nhau về rủi ro, đối với NHTM, rủi ro là một biến
cố không mong đợi gây thiệt hại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Rủi ro cho vay là những rủi ro do khách hàng vay không thực hiện đúng các
điều khoản của hợp đồng cho vay, với biểu hiện cụ thể là khách hàng chậm trả nợ ,
trả nợ không đầy đủ hoặc không trả nợ khi đến hạn hoàn trả cả gốc và lãi, gây ra
những tổn thất về tài chính và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Khi ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay thì trong hoạt động đó luôn hàm
chứa rủi ro tiềm ẩn, rủi ro này sẽ làm giảm khoản thu nhập của ngân hàng. Do đó
trong hoạt động quản lý, ngân hàng luôn xác định một tỷ lệ tổn thất dự kiến nhằm
hạn chế mức tối thiểu các thiệt hại về tài sản do các rủi ro cho vay gây ra.

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 8


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

Trong hoạt động kinh doanh của NHTM, rủi ro cho vay là rủi ro lớn nhất,
thường xuyên xảy ra và ảnh hưởng rất lớn đến mọi hoạt động của ngân hàng, có khi
dẫn đến phá sản ngân hàng.
1.4.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho vay
1.4.2.1. Nguyên nhân khách quan:
+ Môi trường pháp lý:

Đó là những văn bản, quy định, chính sách của nhà nước thay đổi bất thường
làm tổn thất nặng nề đến các chủ thể kinh doanh, làm thay đổi các kế hoạch sản xuất
kinh doanh, như thế sẽ làm cho doanh nghiệp mất khả năng trả nợ đúng hạn hay không
trả nợ được khi đó ngân hàng sẽ không thu hồi được vốn dẫn đến rủi ro tín dụng.
Ngoài các chính sách quy định của Pháp luật còn chưa chặt chẽ tạo ra những
khe hở cho doanh nghiệp thực hiện các hoạt động phi pháp gây ra những rủi ro tổn
thất lớn cho ngân hàng. Đặc biệt là sự thiếu đồng bộ, chồng chéo giữa các quy định
và văn bản dưới Luật của các Bộ ngành khác nhau để điều kiện kinh doanh và hoạt
động kinh doanh gây nên các tổn thất tín dụng cho ngân hàng.
+ Các yếu tố thị trường:
Tình hình diễn biến trong cả nước về kinh tế lẫn chính trị đầu tác động đến
rủi ro cho vay một cách đáng kể. Đối với những thời kỳ kinh tế khủng hoảng suy
thoái thì việc sản xuất đình trệ hay phá sản gây nên rủi ro cho vay rất lớn.
Ngoài ra tình hình chính trị an ninh bất ổn sẽ làm cho tình hình kinh tế rối
loạn, người kinh doanh sẽ không dám kinh doanh gây nên rủi ro tín dụng.
Sự biến động khá lớn của tỷ giá hối đoái, lãi suất, cung cầu… cũng gây nên
rủi ro tín dụng lớn.
Những nguyên nhân về tự nhiên như thiên tai, lũ lụt, động đất,… gây nên
thiệt hại rất nặng nề về hoạt động sản xuất kinh doanh, các dự án làm cho rủi ro tín
dụng là rất đáng kể.
1.4.2.2. Nguyên nhân chủ quan
+ Về phía khách hàng:
Rủi ro tín dụng thường xuyên và chủ yếu nhất là do từ phía khách hàng. Việc
khách hàng không trả được nợ vay có thể là do nhiều nguyên nhân như cố tình
không trả, hoặc bất lực không trả được, gặp khó khăn trong kinh doanh.

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 9



Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

* Đối với khách hàng là cá nhân:
- Thiếu năng lực tài chính: khách hàng vay vốn không đủ khả năng tài chính
để trả nợ, dẫn đến việc thu hồi nợ của ngân hàng gặp khó khăn.
- Thiếu năng lực pháp lý: Khi khách hàng thiếu năng lực pháp lý thì việc thu
hồi nợ của ngân hàng cũng gặp khó khăn do cản trở về thủ tục và thời gian.
- Sử dụng vốn sai mục đích: Đó là việc khách hàng dùng vốn vay của mình
không đúng mục đích theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Từ đó dẫn đến
khách hàng có thể làm ăn thua lỗ và không có khả năng trả nợ cho ngân hàng.
- Do ý muốn chủ quan của người đi vay cố tình không trả nợ: Đây là trường
hợp xấu nhất trong các nguyên nhân chủ quan dẫn đến rủi ro tín dụng. Loại nguyên
nhân này được xếp vào nguyên nhân rủi ro về đạo đức của người đi vay. Trên thực
tế cho thấy yếu tố đạo đức là nguyên nhân rất quan trọng trong việc trả nợ vay,
người đi vay có thể có khả năng nhưng cố tình không trả nợ, lừa đảo chiếm đoạt
tiền vay của bên cho vay.
- Do hoàn cảnh gia đình gặp khó khăn như: bị sa thải, thất nghiệp, tai nạn lao
động…dẫn đến mất đi nguồn thu nhập để trả nợ ngân hàng.
* Đối với khách hàng là DN, thì nguyên nhân chủ yếu dẫn tới rủi ro tín dụng
thường là do lãnh đạo DN, rủi ro đạo đức, sử dụng vốn sai mục đích, quản lý vốn
không hợp lý…
- Trình độ của người lãnh đạo, điều hành kém hiệu quả, không uy tín trong
giới kinh doanh, thiếu sáng suốt và chủ động trong quá trình ra quyết định trong
SXKD, khi gặp tình huống khó khăn không xoay sở được dẫn đến DN bị thua lỗ
phá sản.
- Quản lý vốn không hợp lý dẫn đến khả năng thanh toán của những thời kỳ
thấp gây nên không trả được do vốn của DN bị chiếm dụng lớn, do đó đến hạn

không trả nợ đúng hạn cho ngân hàng.
- Gặp khó khăn trên thị trường cung cấp nguyên vật liệu hoặc thị trường tiêu thụ
sản phẩm sẽ làm giá thành tăng cao không thu được lợi nhuận dự kiến hay bị kéo dài
thời gian do đó khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng đủ và đúng hạn.
- Do tình trạng tham nhũng, gian lận diễn ra trong nội bộ DN chủ yếu là
doanh nghiệp quốc doanh làm thiệt hại lớn đến chất lượng hoạt động DN.

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 10


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

- Rủi ro đạo đức, khách hàng cố tình lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng
qua nhiều hình thức, thực hiện công ty ma, hóa đơn khống..
Tóm lại, rủi ro từ phía khách hàng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro
trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
+ Về phía ngân hàng:
Nguyên nhân rủi ro tín dụng từ phía ngân hàng là rất đáng kể và quan trọng.
Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá
không tốt, cố tình làm sai,… Mặt khác, nhân viên ngân hàng phải tiếp cận với nhiều
ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia, do đó để cho vay tốt họ phải am
hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà họ sống, phải
có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay… Hơn nữa, họ tiếp xúc với
tiền thường xuyên và khối lượng tiền lớn nên dễ bị cám dỗ. Như vậy, để hạn chế
được rủi ro tín dụng ở mức tối đa cần phải đào tạo và tự đào tạo cán bộ nhân viên
tín dụng một cách liên tục và toàn diện cả về học vấn lẫn đạo đức.

Ngoài ra, chính sách cho vay của ngân hàng thiếu rõ ràng và không phù hợp
với bộ máy quản lý như chế độ tín dụng, các quy định về thế chấp. Trong quá trình
đã cho vay thiếu sự giám sát hoạt động kinh doanh, quá tin tưởng vào khách hành
quen, rất dễ tạo nên rủi ro cho vay.
1.4.3. Hậu quả của rủi ro cho vay:
+ Đối với ngân hàng:
Khi gặp rủi ro tính dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và
lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho các khoản tiền huy động khi
đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu
được nợ thì vòng vay vốn tín dụng giảm làm cho ngân hàng kinh doanh kém hiệu
quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng, ngân hàng thường rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh khoản, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng,
bị cấp trên khiển trách. Đối với cấp dưới, do gặp phải rủi ro tín dụng nên không có
khả năng trả tiền lương cho nhân viên vì thế những người có năng lực thuyên
chuyển công tác, gây khó khăn cho ngân hàng.
+ Đối với nền kinh tế:

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 11


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

Hoạt động của Ngân hàng liên quan đến hoạt động của các DN và nền kinh
tế. Vì vậy, rủi ro xảy ra không những làm cho một ngân hàng bị phá sản mà còn ảnh
hưởng đến các ngân hàng khác, uy tín của ngân hàng bị giảm sút nghiêm trọng, mất
niềm tin trong dân cư. Mặt khác, sự phá sản của ngân hàng sẽ kéo theo một bộ phận

doanh nghiệp, xí nghiệp, dân cư mất vốn do đó làm rối loạn nền kinh tế ảnh hưởng
đến sản xuất và đời sống.
Như vậy, hậu quả của rủi ro tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề sống
còn của mọi ngân hàng. Chúng ta không thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro nhưng để hạn
chế rủi ro và thiệt hại trong kinh doanh thì các ngân hàng phải chính là người trực
tiếp tổ chức quản lý phòng ngừa rủi ro, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong hoạt
động cho vay.
2. Nội dung quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM
2.1. Khái niệm quản trị rủi ro cho vay:
Đối với rủi ro cho vay, trước hết, nên coi đó là một hiện tượng có thể xảy ra
ngoài mong muốn của ngân hàng khi thực hiện cho vay đối với khách hàng. Với
quan niệm như vậy, mỗi khi bắt đầu xem xét một khoản cho vay, ngân hàng cần
lường trước những rủi ro có thể xảy ra. Đây cũng chính là xuất phát điểm hình
thành nên ý tưởng quản trị rủi ro cho vay của NHTM. Mặc dù rủi ro cho vay là một
hiện tượng tiềm ẩn và không phải bao giờ cũng xảy ra khi ngân hàng cho khách
hàng vay vốn, nhưng trong nhiều trường hợp, do tính lặp lại của rủi ro nên người ta
có thể nhận biết được tính quy luật của nó. Chính vì điều này mà ngân hàng có thể
tìm ra những biện pháp quản lý nhằm hạn chế khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và
giảm thiểu tổn thất do rủi ro cho vay gây ra.
Như vậy, “Quản trị rủi ro cho vay là hoạt động trong đó những nghĩa vụ,
biện pháp, phương pháp quản trị có quan hệ lẫn nhau được thực hiện nhằm đảm
bảo rủi ro cho vay trong phạm vi ngân hàng có thể chấp nhận được.”
Quản trị rủi ro cho vay là quá trình xây dựng và thực thi các chính sách và
biện pháp quản lý tín dụng nhằm đạt mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền
vững, tuy nhiên đó cũng là công việc rất khó khăn và phức tạp.

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 12



Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

Chủ thể của hoạt động quản trị rủi ro trong ngân hàng là sự thống nhất của
nhiều cấp độ: của Hội đồng quản trị của ngân hàng, của Ban Giám đốc, của bộ phận
quản lý tín dụng và ngay bản thân mỗi cán bộ tín dụng của ngân hàng.
Mục đích chung nhất của quản trị rủi ro tín dụng là đảm bảo rủi ro trong phạm
vi ngân hàng có thể chấp nhận đựơc. Mà mục đích này phụ thuộc vào mục đích hoạt
động của ngân hàng là tối đa hoá giá trị mà ngân hàng hi vọng đựoc xác định trong
điều kiện biến động của môi trường kinh doanh.
Quản trị rủi ro tín dụng là một trong những nội dung quản trị rủi ro của
NHTM bao gồm: những đánh giá mức độ rủi ro, thực thi những giải pháp quản trị
hạn chế khả năng xảy ra rủi ro. Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng
gắn chặt với hoạt động của cấp tín dụng.
2.2. Sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của Ngân
hàng
Rủi ro luôn tồn tại song song với các hoạt động kinh doanh NHTM, vì vậy
việc hạn chế rủi ro đến mức tối thiểu có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với ngân
hàng. Tín dụng là một nội dung quan trọng, chiếm khoảng 60-80% trong toàn bộ
hoạt động kinh doanh ngân hàng. Các rủi ro tín dụng vì thế có ảnh hưởng rất lớn tới
ngân hàng, thông thường các rủi ro tín dụng vào khoảng 90% các rủi ro cơ bản.
Quản trị rủi ro tín dụng là một trong những vấn đề trọng tâm hiện nay, đang được sự
quan tâm chú ý đặc biệt của hệ thống ngân hàng trên toàn thế giới. Khi ngân hàng
không kiểm soát được rủi ro tín dụng sẽ gây nên nhiều bất lợi mà chủ yếu là các vấn
đề như:
2.2.1. Đối với nền kinh tế:
Khi ngân hàng gặp khó khăn thì việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp, nền
kinh tế bị ngừng trệ. Do một lượng vốn lớn nằm tồn đọng trong các khoản nợ quá

hạn, nợ khó đòi, ngân hàng không có đủ vốn để cho vay các dự án có hiệu quả, mở
rộng và phát triển sản xuất. Trong khi đó, tiền cho vay của ngân hàng lại hoạt động
không có hiệu quả mà ngân hàng lại không thể kiểm soát nổi. Kết quả là sản xuất
đình trệ, nền kinh tế không phát triển, xã hội bị rối loạn.
Như vậy, rủi ro tín dụng xảy ra dù ở mức độ nào cũng gây ảnh hưởng đến sự
phát triển của ngân hàng nói riêng và sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung. Vì

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 13


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

vậy, quản trị rủi ro tín dụng không chỉ là trách nhiệm của riêng ngân hàng mà là của
toàn nền kinh tế.
2.2.2. Đối với ngân hàng:
+ Giảm lợi nhuận: Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ phát sinh các khoản nợ khó
thu hồi. Ảnh hưởng trước mắt của nó đến hoạt động ngân hàng là sự ứ đọng vốn
dẫn đến làm giảm vòng quay vốn của ngân hàng. Mặt khác, khi có quá nhiều các
khoản nợ khó hoặc không thu hồi được sẽ lại phát sinh các khoản chi phí quản lý,
giám sát, thu nợ... Các chi phí này còn cao hơn khoản thu nhập từ việc tăng lãi suất
các khoản nợ quá hạn bởi vì thực ra đây chỉ là những khoản thu nhập ảo, thực tế
ngân hàng rất khó có khả năng thu hồi đầy đủ được chúng. Bên cạnh đó, ngân hàng
vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động được trong khi một bộ phận tài sản của
ngân hàng không thu được lãi cũng như không chuyển được thành tiền để cho người
khác vay và thu lãi. Kết quả là lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị giảm sút.
+ Giảm khả năng thanh toán: Ngân hàng thường lập kế hoạch cân đối dòng

tiền ra (trả lãi và gốc tiền gửi, cho vay, đầu tư mới...) và dòng tiền vào (tiền nhận
gửi, tiền thu nợ gốc và lãi cho vay..) tại các thời điểm trong tương lai. Khi các món
vay không được thanh toán đầy đủ và đúng hạn sẽ dẫn đến sự không cân đối giữa
hai dòng tiền. Các khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm của khách hàng vẫn phải thanh toán
đúng kỳ hạn trong khi các khoản tiền vay của khách hàng lại không được hoàn trả
đúng hẹn. Nếu ngân hàng không đi vay hoặc bán các tài sản của mình thì khả năng
chi trả của ngân hàng sẽ bị suy yếu và hạn chế, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong
khâu thanh toán.
+ Giảm uy tín: Nếu tình trạng mất khả năng chi trả tái diễn nhiều lần hay
những thông tin về rủi ro tín dụng của ngân hàng bị tiết lộ ra công chúng, uy tín của
ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm sút.
+ Phá sản ngân hàng: Nếu DN vay vốn ngân hàng gặp khó khăn trong việc
hoàn trả, nhất là những món vay lớn thì có thể dẫn đến khủng hoảng trong hoạt
động của chính ngân hàng. Ngân hàng nếu không chuẩn bị kịp thời cho những tình
huống như vậy, mà thậm chí dù có cũng không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu rút
tiền quá lớn, sẽ nhanh chóng mất khả năng thanh toán, dẫn đến sự sụp đổ của ngân
hàng nếu NHTW không can thiệp kịp thời hoặc không thể can thiệp.

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 14


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

2.2.3. Đối với khách hàng:
Lãi vay ngân hàng được hạch toán vào chi phí sản xuất của DN. Khi để phát
sinh nợ quá hạn với lãi suất lớn hơn (=150%) lãi suất trong hạn thì chi phí của

doanh nghiệp sẽ tăng lên. DN đã đang gặp khó khăn trong tình hình tài chính, giờ
lại càng thêm khó khăn gấp bội. Nguy cơ không có đủ tiền để trả nợ cho ngân hàng
là điều không thể tránh khỏi, dẫn đến việc phát mại tài sản thế chấp, đôi khi dẫn đến
tình trạng phá sản cho khách hàng.
Tóm lại, quản trị rủi ro cho vay giúp ngân hàng vững vàng trong xử lý mối
quan hệ giữa rủi ro cho vay và lợi nhuận, qua đó tránh được thiệt hại và đem lại lợi
ích cho bản thân và mọi đối tượng khác có liên quan đến hoạt động cho vay. Giúp
làm giảm tổn thất cho bản thân ngân hàng và nền kinh tế, lành mạnh hoá hệ thống
tài chính, tăng cường cạnh tranh, giúp tăng trưởng kinh tế.
2.3. Công cụ quản trị rủi ro cho vay của Ngân hàng thương mại
2.3.1. Các nguyên tắc chung của ủy ban Giám Sát Ngân hàng Basel trong
quản trị rủi ro tín dụng
Hiệp định Basel II ra đời thay thế cho Hiệp định vốn ngân hàng quốc tế
(Basel I) được thực hiện từ năm 1988 (thường được biết đến với tỷ số Cook) do Ủy
ban Giám sát ngân hàng Basel xây dựng nhằm hỗ trợ các ngân hàng quản lý rủi ro
hiệu quả hơn. Các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng của hiệp định bao gồm:
 Thiết lập một môi trường tín dụng thích hợp:
- Nguyên tắc 1: Phê duyệt và xem xét chiến lược rủi ro tín dụng theo định kỳ,
xem xét những vấn đề như: mức độ rủi ro có thể chấp nhận được, mức độ khả năng
sinh lời.
- Nguyên tắc 2: Thực hiện Chiến lược chính sách tín dụng, xây dựng các
chính sách tín dụng, xây dựng các quy trình thủ tục cho các khoản vay riêng lẻ và
toàn bộ danh mục tín dụng nhằm xác định, đánh giá, quản lý và kiểm soát rủi ro tín
dụng.
- Nguyên tắc 3: Xác định và quản lý rủi ro tín dụng trong tất cả các sản phẩm
và các hoạt động. Đảm bảo rằng các sản phẩm và hoạt động mới đều trải qua đầy đủ
các thủ tục, các quy trình kiểm soát thích hợp và được phê duyệt đầy đủ.
 Hoạt động theo một quy trình cấp tín dụng hợp lý:
SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1


Trang 15


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

- Nguyên tắc 4: Tiêu chuẩn cấp tín dụng đầy đủ gồm có: Những hiểu biết về
người vay, mục tiêu và cơ cấu tín dụng, nguồn thanh toán.
- Nguyên tắc 5: Thiết lập hạn mức tín dụng tổng quát cho: từng khách hàng
riêng lẻ, nhóm những khách hàng vay có liên quan tới nhau, trong và ngoài bảng
cân đối kế toán.
- Nguyên tắc 6: Có các quy trình rõ ràng được thiết lập cho việc phê duyệt
các khoản tín dụng mới, gia hạn các khoản tín dụng hiện có.
- Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng cần phải dựa trên: Cơ sở giao dịch thương
mại thông thường, quản lý chặt chẽ các khoản vay đối với các doanh nghiệp và cá
nhân có liên quan, làm giảm bớt rủi ro cho vay đối với các bên có liên quan.
 Duy trì một quy trình quản lý, đánh giá và kiểm soát tín dụng có hiệu quả:
- Nguyên tắc 8: Áp dụng quy trình quản lý tín dụng có hiệu quả và đầy đủ
đối với các danh mục tín dụng.
- Nguyên tắc 9: Có hệ thống kiểm soát đối với các điều kiện liên quan đến
từng khoản tín dụng riêng lẻ, đánh giá tính đầy đủ của các khoản dự phòng rủi ro tín
dụng.
- Nguyên tắc 10: Xây dựng và sử dụng hệ thống đánh giá rủi ro nội bộ. Hệ
thống đánh giá cần phải nhất quán với các hoạt động của ngân hàng.
- Nguyên tắc 11: Hệ thống thông tin và kỹ thuật phân tích: giúp Ban quản lý
đánh giá rủi ro tín dụng cho các hoạt động trong và ngoài bảng cân đối kế toán,
cung cấp thông tin về cơ cấu và thành phần danh mục tín dụng, bao gồm cả việc
phát hiện các tập trung rủi ro.
- Nguyên tắc 12: Có hệ thống nhằm kiểm soát đối với: Cơ cấu tổng thể của

danh mục tín dụng, chất lượng danh mục tín dụng.
- Nguyên tắc 13: Xem xét ảnh hưởng của những thay đổi về điều kiện kinh tế
có thể xảy ra trong tương lai trong những tình trạng khó khăn khi đánh giá danh
mục tín dụng.
 Đảm bảo quy trình kiểm soát đầy đủ đối với rủi ro tín dụng:
- Nguyên tắc 14: Thiết lập hệ thống xem xét tín dụng độc lập và liên tục, và
cần thông báo kết quả đánh giá cho Hội đồng quản trị và ban quản lý cấp cao.

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 16


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

- Nguyên tắc 15: Quy trình cấp tín dụng cần phải được theo dõi đầy đủ, cụ
thể: Việc cấp tín dụng phải tuân thủ với các tiêu chuẩn thận trọng, thiết lập và áp
dụng kiểm soát nội bộ, những vi phạm về các chính sách, thủ tục và hạn mức tín
dụng cần được báo cáo kịp thời.
- Nguyên tắc 16: Có hệ thống quản lý đối với các khoản tín dụng có vấn đề.
2.3.2. Các công cụ quản trị rủi ro tín dụng
Để quản trị rủi ro tín dụng, mỗi ngân hàng phải nghiên cứu và đưa ra những
công cụ quản lý phù hợp với quy mô và tính chất hoạt động của ngân hàng đó. Sau
đây là các công cụ chính để quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng của một NHTM.
2.3.2.1. Quy trình tín dụng:
Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách
hàng, các ngân hàng thường đặt ra quy trình tín dụng. Đó chính là các bước (hoặc
nội dung công việc) mà các bộ tín dụng, các phòng, ban liên quan trong ngân hàng

phải thực hiện khi tiến hành tài trợ cho khách hàng. Về cơ bản, một quy trình tín
dụng được chia làm ba giai đoạn: trước, trong và sau khi cho vay.
- Giai đoạn trước khi cho vay: Trong giai đoạn này, sau khi tiếp nhận hồ sơ
xin vay cũng như tiến hành điều tra, thu thập, tổng hợp các thông tin về khách hàng
và phương án vay vốn; cán bộ tín dụng sẽ tiến hành phân tích thẩm định khách hàng
và phương án xin vay. Nội dung phân tích bao gồm: năng lực pháp lý của khách
hàng, tình hình tài chính của khách hàng, phương án sử dụng vốn vay và phương án
trả nợ, khả năng đảm bảo tiền vay và các biện pháp quản lý, kiểm soát của ngân
hàng.
- Giai đoạn trong khi cho vay: Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết và vốn
vay được giải ngân, ngân hàng sẽ tiến hành kiểm soát khách hàng theo các nội dung
chính như: khách hàng sử dụng tiền vay có đúng mục đích, tiến độ hay không, quá
trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm
ăn thua lỗ hay không.... Công việc này cho phép ngân hàng thu thập thêm các thông
tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt, điều đó cho thấy
chất lượng tín dụng đang được bảo đảm.
- Giai đoạn sau khi cho vay: Quan hệ tín dụng sẽ kết thúc khi ngân hàng thu
hồi hết gốc và lãi của khoản vay. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 17


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Trong một số trường hợp, người vay không
hoàn trả nợ hoặc hoàn trả không đầy đủ và đúng hạn. Điều đó có nghĩa là rủi ro tín

dụng đã xảy ra. Lúc này cán bộ tín dụng cần xem xét, tìm ra nguyên nhân dẫn đến
việc khách hàng không thanh toán nợ cho ngân hàng như đã cam kết trong hợp
đồng tín dụng.
Như vậy, để đảm bảo hiệu quả trong công tác quản trị rủi ro tín dụng, các
ngân hàng phải xây dựng một quy trình tín dụng cụ thể và thống nhất. Quy trình này
phải được ban lãnh đạo của ngân hàng thông qua và phổ biến rộng rãi đến các
phòng, ban có liên quan cũng như toàn bộ cán bộ tín dụng trong ngân hàng.
2.3.2.2. Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng bao gồm các quy định về cho vay của ngân hàng. Chính
sách này được xây dựng nhằm thực hiện mục tiêu, chiến lược kinh doanh của ngân
hàng, đồng thời hình thành cơ chế để đảm bảo nâng cao lợi nhuận và hạn chế rủi ro.
Chính sách tín dụng bao gồm các nội dung chính sau:
- Chính sách khách hàng
- Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng
- Lãi suất và phí suất tín dụng
- Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ
- Các loại bảo đảm tiền vay
- Điều kiện giải ngân và điều kiện thanh toán
- Chính sách đối với các khoản nợ xấu
2.3.2.3. Mô hình đánh giá rủi ro tín dụng:
Để xác định chính xác mức độ rủi ro của mỗi khoản vay, các ngân hàng
thường áp dụng một số mô hình cụ thể để đánh giá rủi ro tín dụng. Các mô hình này
rất đa dạng, bao gồm cả mô hình phản ánh về mặt định tính và mô hình phản ánh về
mặt định lượng. Đặc điểm của các mô hình này là không loại trừ lẫn nhau nên một
ngân hàng có thể sử dụng cùng một lúc nhiều mô hình khác nhau để hỗ trợ, bổ sung
trong việc phân tích và đánh giá mức độ rủi ro của các khoản vay.

 Mô hình định tính: Hệ thống tiêu chuẩn thường được các ngân hàng sử
dụng trong mô hình định tính là : Tiêu chuẩn 5C


SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 18


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

+ Character (Tư cách của người vay): Tiêu chuẩn này thể hiện tinh thần trách
nhiệm, tính trung thực, mục đích rõ ràng và thiện chí trả nợ của người vay. Khi
quyết định cho vay, cán bộ tín dụng phải chắc chắn tin rằng người xin vay có mục
đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi đến hạn.
+ Capacity (Năng lực của người vay): Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng
người xin vay phải có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý để ký kết hợp đồng
tín dụng. Tương tự, cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người đại diện cho công ty
ký kết hợp đồng tín dụng phải là người được uỷ quyền hợp pháp của công ty. Một
hợp đồng tín dụng được ký kết bởi người không được uỷ quyền có thể sẽ không thu
hồi được nợ, tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng.
+ Cash (Thu nhập của người vay): Tiêu chuẩn thu nhập của người vay tập
trung vào câu hỏi: Người vay có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ hay không? Nhìn
chung, người vay có ba khả năng để tạo ra tiền, đó là: dòng tiền ròng từ doanh thu
bán hàng, dòng tiền từ phát hành chứng khoán và dòng tiền từ bán thanh lý tài sản.
Bất cứ nguồn thu nào từ ba khả năng trên đều có thể sử dụng để trả nợ vay cho ngân
hàng.
+ Collateral (Tài sản đảm bảo): Một khoản tín dụng nếu được đảm bảo bằng
tài sản cầm cố hay tài sản thế chấp sẽ gắn chặt hơn trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ
của người vay. Nếu xảy ra những rủi ro khách quan, người đi vay không trả được nợ
thì tài sản cầm cố, thế chấp sẽ trở thành nguồn thu nợ thứ hai của ngân hàng. Tất
nhiên tài sản cầm cố thế chấp cũng phải đáp ứng những yêu cầu và điều kiện nhất

định theo quy định của ngân hàng.
+ Conditions (Các điều kiện): Để đánh giá xu hướng ngành và điều kiện kinh
tế có ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động kinh doanh của khách hàng, cán bộ tín
dụng cần phải biết được thực trạng về ngành nghề và công việc kinh doanh của
khách hàng, cũng như khi các điều kiện kinh tế thay đổi sẽ ảnh hưởng như thế nào
đến hoạt động của người vay.

 Mô hình cho điểm theo chỉ tiêu: Mô hình này bao gồm một hệ thống các
chỉ tiêu liên quan đến từng đối tượng khách hàng (doanh nghiệp hay cá nhân), mỗi
chỉ tiêu có điểm số khác nhau phụ thuộc vào tính chất và tầm quan trọng của chúng.
Căn cứ vào tình trạng của khách hàng và thang điểm của ngân hàng, cán bộ tín dụng
SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 19


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

sẽ quyết định số điểm tương ứng cho từng chỉ tiêu, sau đó cộng tổng số điểm. Khi
có tổng số điểm, căn cứ vào bảng chuẩn, cán bộ tín dụng có thể đệ trình quyết định
cho vay hoặc từ chối yêu cầu xin vay. Với tổng số điểm cao hơn mức điểm chuẩn
thì khách hàng đó được vay và thấp hơn mức điểm chuẩn thì ngân hàng từ chối.
Như vậy, các công cụ tín dụng có thể nói là rất quan trọng trong hoạt động
tín dụng của NHTM. Mục tiêu cuối cùng của các công cụ này là phục vụ khách
hàng trên cơ sở an toàn, giảm thiểu rủi ro tín dụng và nâng cao khả năng sinh lời
của NHTM.
2.4. Nội dung của quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM
2.4.1. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro cho vay

Rủi ro tín dụng luôn ẩn chứa trong những khoản vay có vấn đề và biểu hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động cho vay, các nhà
ngân hàng đã rút ra một số dấu hiệu cơ bản để giúp cho các cán bộ tín dụng nhận
biết, phán đoán và sớm có những biện pháp kịp thời để ngăn chặn những rủi ro thực
sự có thể xảy ra. Có các dấu hiệu cơ bản sau:
2.4.1.1. Nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể thu hồi hạn
do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau.
Là một trung gian tài chính giữa bên thừa vốn với bên thiếu vốn trong nền
kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, nên tính ổn định và
hiệu quả hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các
doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trong nhiều yếu tố ảnh hưởng tới
hoạt động của ngân hàng thì nợ quá hạn là yếu tố dễ gây ra rủi ro cho Ngân hàng.
Do vậy, để hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay thì ngân hàng phải giữ cho tỷ lệ
nợ quá hạn ở mức hợp lý, và có thể không để phát sinh nợ quá hạn.
2.4.1.2. Lãi treo:
Lãi treo là số tiền mà khách hàng không trả được khi đến hạn thanh toán lãi.
Lãi treo cũng là một dấu hiệu quan trọng để nhận biết rủi ro cho vay, bởi vì việc
thanh toán lãi không gắn với việc trả lại gốc và vó giá trị nhỏ hơn gốc rất nhiều,
được trả vào cuối tháng, khi DN không thanh toán được phần lãi của món vay cho
thấy dấu hiệu DN gặp khó khăn đặc biệt về tài chính.

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 20


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh


Do vậy, khi xuất hiệu lãi treo ngân hàng phải tiến hành điều tra, phân tích kỹ
tình hình tài chính DN, tình hình SXKD của DN để tìm ra nguyên nhân tại sao DN
không có khả năng thanh toán lãi đúng hạn. Dựa vào kết quả phân tích, ngân hàng
sẽ đưa ra các biện pháp phù hợp nhất để hạn chế những tổn thất cho cả ngân hàng
và DN.
2.4.1.3. Một số dấu hiệu nhận biết khác:
Rủi ro tín dụng thường ẩn chứa trong các “khoản vay có vấn đề” được thể
hiện bằng nhiều dấu hiệu, nhưng không có một mô hình nhất định nào có thể mô tả
chính xác, đầy đủ những dấu hiệu cho thấy rủi ro tín dụng sẽ xảy ra trong tương lai.
Tuy nhiên, kiểm nghiệm trên thực tế hoạt động tín dụng, một số dấu hiệu sau
thường có tác dụng cảnh báo với cán bộ tín dụng về khả năng trả nợ của người vay:
+ Việc trì hoãn nợ các báo cáo tài chính của người vay.
Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng giúp ngân hàng hiểu được tình hình
tài chính của người vay, thông qua đó dự báo về khả năng trả nợ của họ. Việc trì
hoãn có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính đó là do tình hình hoạt động
kinh doanh của người vay đã có những dấu hiệu không bình thường nên họ không
muốn ngân hàng biết sớm tình hình tài chính đang kém của họ.
+ Mối quan hệ giữa ngân hàng và người vay thay đổi.
Đó là sự chậm trễ trong việc sắp xếp các cuộc viếng thăm của ngân hàng đối
với DN, nhằm giúp cho ngân hàng kiểm tra, giám sát những nghĩa vụ của người vay
đối với khoản vay. Vấn đề này biểu hiện bởi sự không tin cậy và hợp tác giữa cán
bộ ngân hàng và người vay vốn đã có từ lâu.
+ Hàng tồn kho tăng lên quá mức bình thường, các khoản công nợ cũng tăng.
+ Chất lượng sản phẩm dịch vụ của DN giảm sút, khách hàng của họ không
còn tín nhiệm như trước nữa dẫn đến phải bán hàng với thời hạn trả tiền lâu hơn,
hoặc bán cả cho những khách hàng có khả năng yếu kém về tài chính, có khả năng
thanh toán thấp .
+ Hoàn trả nợ vay không đúng hoặc lãi vay không thanh toán đúng kỳ hạn .
+ Thay đổi về cơ cấu tổ chức quản lí kinh doanh.


SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 21


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

Vấn đề này được biểu hiện qua một số hình thức như: thu hẹp qui mô sản
suất, chủng loại sản phẩm, công nhân nghỉ việc, bán bớt tài sản hoặc một số vụ việc
như sa thải công nhân, cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp.
+ Các thảm họa về thiên tai như bão lụt, hỏa hoạn, cháy rừng…
2.4.2. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro cho vay:
Để có thể đánh giá được đúng mức độ rủi ro cho vay của các NHTM cần
phải dựa trên một số chỉ tiêu sau:
 Nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa
thuận ghi trên hợp đồng cho vay.
Nợ quá hạn bao gồm các khoản nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5.
 Nợ xấu:
Nợ xấu là những khoản nợ mà Ngân hàng cho vay có rủi ro không thể thu
hồi được.
Nợ xấu bào gồm các khoản nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5.
 Tỷ lệ nợ quá hạn: ( % )
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =

x100

Tổng dư nợ

Chỉ tiêu trên phản ánh chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng. Nếu tỷ lệ nợ
quá hạn trên tổng dư nợ cho vay càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng tốt vì khả
năng thu hồi nợ cao và ngược lại. Theo qui định thì tỷ lệ nợ quá hạn chỉ được phép
nhỏ hơn hoặc bằng 5% tổng dư nợ, nghĩa là trong 100 đồng dư nợ thì nợ quá hạn tối
đa chỉ được 5 đồng.
 Tỷ lệ nợ xấu: (%)
Nợ xấu
Tỷ trọng nợ xấu

=

x 100
Tổng dư nợ

Chỉ tiêu này phản ảnh 100 đồng vốn cho vay của ngân hàng thì có bao nhiêu
đồng chưa thu được. Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt.
Để đảm bảo quản lý chặt chẽ theo quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25
tháng 4 năm 2007 của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam về phân loại nợ,

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 22


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh


trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng
của tổ chức tín dụng, nợ quá hạn được phân chia theo các nhóm nợ như sau:
- Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn: nợ trong hạn
- Nhóm 2: Nợ cần chú ý: nợ quá hạn đến 90 ngày
- Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn: nợ quá hạn từ trên 90 ngày đến 180 ngày
- Nhóm 4: Nợ nghi ngờ: nợ quá hạn từ trên 180 ngày đến 360 ngày
- Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn: nợ quá hạn trên 360 ngày
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi
ro cho vay khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có
liên quan đến thanh khoản: Chi phí tăng để tìm nguồn vốn mới để chi trả tiền gửi và
cho vay đúng hợp đồng.
2.4.3. Kiểm soát rủi ro cho vay:
Sau khi nhận dạng và đo lường được mức độ rủi ro, thì kiểm soát rủi ro cũng
không kém phần quan trọng. Vì cho vay là mảng nghiệp vụ sử dụng vốn lớn nhất
mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng vì vậy nếu rủi ro cho vay phát sinh sẽ
gây thiệt hại lớn cho ngân hàng. Ngân hàng ngoài việc không thu được lãi bị đóng
băng vốn còn có khả năng bị mất vốn do rủi ro. Như vậy, việc kiểm soát rủi ro là rất
cần thiết không thể thiếu. Thông thường ngân hàng thực hiện nhiều phương pháp
kiểm soát rủi ro bao gồm: kiểm soát rủi ro trước khi cho vay, trong khi cho vay và
sau khi cho vay. Bằng những công cụ kiểm soát khác nhau để tránh né, hạn chế và
giảm thiểu rủi ro cuối cùng là chấp nhận và khống chế rủi ro ở một mức đọ hợp lý
theo khả năng tự đề kháng của Ngân hàng.
2.4.4. Thực hiện các biện pháp hạn chế tổn thất nếu rủi ro cho vay xảy ra.
+ Trích lập quỹ dự phòng rủi ro: là một hình thức dự trữ tài chính chuyên
dùng, thường được trích ra từ lợi nhuận sau thuế, nhằm bù đắp thiệt hại khi có rủi ro
xảy ra. Đây là công việc cần thiết nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân
hàng. Với quỹ dự phòng rủi ro được lập như một khoản quỹ khấu hao thì khi rủi ro
tín dụng xảy ra, việc loại trừ các khoản mất vốn cho vay sẽ không gây biến động
quá lớn đến kết quả hoạt động tài chính của NHTM.
+ Mua bảo hiểm tín dụng: Nếu khoản vay được ngân hàng mua bảo hiểm

thì khi rủi ro tín dụng xảy ra, công ty bảo hiểm có nhiệm vụ bồi thường cho ngân
hàng theo quy định. Ngoài ra, bảo hiểm tín dụng còn phối hợp với các ngành hữu

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1

Trang 23


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh

quan để tổ chức các biện pháp phòng ngừa, hạn chế các tổn thất xảy ra bảo đảm an
toàn cho cả công ty bảo hiểm và cả ngân hàng
+ Phân tán rủi ro: Phân tán rủi ro là một biện pháp quan trọng của các
NHTM để hạn chế rủi ro tín dụng theo phương châm “Không để trứng vào một rỏ”.
Cho vay đồng tài trợ là phương thức san sẻ rủi ro chủ yếu giữa các NHTM. Khi một
ngân hàng không đủ khả năng tài trợ cho khách hàng hoặc khó xác định được mức
độ rủi ro dự tính của khoản vay, ngân hàng đó sẽ kết hợp với một hoặc nhiều ngân
hàng khác để tiến hành cho vay.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh doanh bao giờ
cũng gắn liền với rủi ro. Trong các loại rủi ro, rủi ro cho vay có tác động lớn nhất
đến hoạt động của ngân hàng. Rủi ro cho vay thường xuyên xảy ra và khi xảy ra nó
không chỉ ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của ngân hàng mà còn làm giảm
uy tín của ngân hàng trên thị trường. Vì vậy, các NHTM cần phải thực hiện công tác
quản trị rủi ro cho vay trên cơ sở phân tích các nguyên nhân và đưa ra các biện pháp
phù hợp.

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1


Trang 24


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: ThS. Trịnh Thị Trinh
CHƯƠNG 2:

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT QUẬN THANH KHÊ.

Tên giao dịch: Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
(NHNo&PTNT)
Tên tiếng Anh: Vietnam Bank For Agriculture And Rural Development.
Tên viết tắt: AGRIBANK
Đơn vị thực tập: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát Triển Nông Thôn – Chi
nhánh
Quận Thanh Khê
Địa chỉ: 249 Điện Biên Phủ - Thanh Khê – Đà Nẵng
Hiện nay, Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Thanh Khê có 3 phòng giao dịch:
+ Phòng Giao dịch An khê – 165 Trường Chinh – ĐN
+ Phòng Giao dịch Thanh Lộc Đán – 88 Dũng Sĩ Thanh Khê
+ Phòng Giao dịch Siêu Thị - 60 Võ Văn Tần - ĐN
Số lượng Cán bộ nhân viên trong Chi nhánh hiện nay là 25 người
Tất cả các Cán bộ trong chi nhánh NHNo&PTNT Quận Thanh Khê luôn luôn
thực hiện văn hóa Doanh nghiệp Agribank với nội dung mà Ban lãnh đạo đúc
kết trong 10 chữ: “Trung thực, kỷ cương, sáng tạo, chất lượng, hiệu quả”.
Slogan: “Mang phồn thịnh đến với khách hàng”

SVTH: Trần Thị Phương Thảo – Lớp K12QNH1


Trang 25


×