Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG bảo LÃNH tại CHI NHÁNH NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG THÀNH PHỐ đà NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 76 trang )

Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1.1.1. Tổng quan về hoạt động bảo lãnh ngân hàng
1.1.2. Lịch sử hình thành hoạt động bảo lãnh
Bảo lãnh là một khái niệm có từ rất xa xưa trong xã hội loài người. Cho đến
nay không có một cuốn sách nào nói chính xác về thời gian và xuất xứ của bảo lãnh.
Người ta chỉ có thể khẳng định rằng bảo lãnh đã có từ thời kì trung cổ tại Hi Lạp,
mặc dù rất sơ khai, bằng những giao dịch trong quan hệ cá nhân với cá nhân rất đời
thường. Tuy nhiên, cam kết bảo lãnh chính thức có mặt trong giao dịch quốc tế
tương đối muộn so với Tín dụng chứng từ. Do nhu cầu sử dụng cam kết bảo lãnh
ngày càng tăng, các quốc gia Tây Âu và Hoa Kỳ đã phát triển loại hình giao dịch
này vào khuôn phép luật pháp. Nhiều tài liệu dẫn chứng trong giao dịch thương
mại, bảo lãnh ngân hàng xuất hiện đầu tiên ở nước Mỹ vào khoảng những năm đầu
thập kỷ 60 của thế kỷ XX như là một dạng của thư tín dụng dự phòng. Công nghiệp
dầu mỏ lớn mạnh làm tăng thêm quan hệ giao dịch giữa các nước Trung Đông và
Tây Âu. Những hợp đồng khai thác dầu khí, mua bán sản phẩm khí đốt, dự án xây
dựng cơ sở hạ tầng có gía trị như sân bay, đường sá, khu công nghiệp,…. giữa
phương Tây và các nước xuất khẩu dầu lửa đòi hỏi sự bảo đảm của ngân hàng trong
tài trợ và thực hiện nghĩa vụ các bên. Đồng thời nhờ sự phát triển mậu dịch trong
những năm 70 làm tăng thêm nhu cầu đa dạng hoá và hợp pháp hoá các công cụ tài
trợ và bảo đảm quốc tế, ngoài phương thức tín dụng chứng từ truyền thống. Ở thời
điểm này, bảo lãnh ngân hàng bắt đầu thực sự được sử dụng như là một nghiệp vụ
kinh doanh của ngân hàng. Ngày nay, bảo lãnh ngân hàng được sử dụng rất rộng rãi
và đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế tại các quốc gia, các khu vực và
trên toàn thế giới. Không chỉ được sử dụng trong mọi lĩnh vực các nước phát triển,
bảo lãnh ngân hàng còn là phương tiện bảo đảm khá phổ biến trong giao dịch kinh
tế và dân sự ở các quốc gia đang phát triển. Ngoài ra, hầu hết các giao dịch quốc tế
lớn đều có sự hỗ trợ của bảo lãnh ngân hàng..


Tại Việt Nam, trước năm 1975, một số ngân hàng thuộc chế độ cũ ở Sài Gòn
đã cũng cấp dịch vụ bảo lãnh ngân hàng. Sau khi đất nước thống nhất, hoạt động

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

1

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

này được thực hiện từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, trong giai đoạn chuyển
tiếp sang nền kinh tế thị trường. Đến những năm 90, khi nền kinh tế bắt đầu mở của
để hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, hoạt động ngân hàng trở nên đa
dạng và bảo lãnh ngân hàng được phát triển như một tất yếu khách quan. Nhưng do
thiếu sự chỉ đạo thống nhất bằng các văn bản pháp lý nên hoạt động bảo lãnh thời
kỳ này thiếu hiệu quả. Từ những năm 1994-1995, hoạt động bảo lãnh dần được
hoàn thiện nhờ việc ban hành một số quy định thống nhất. Những năm sau đó, cùng
với xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế trong và ngoài nước, bảo lãnh ngân hàng đã
nhanh chóng phát triển. Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm về doanh số và dư nợ bảo lãnh
của các NHTM ngày càng tăng. Các hình thức bảo lãnh được áp dụng ngày càng đa
dạng, với doanh số ngày càng tăng cho thấy tiềm năng phát triển của dịch vụ này
trong nền kinh tế nước ta là rất lớn. Từ khi Việt Nam trở thành thành viên của
WTO, cơ hội hợp tác và mở rộng thương mại quốc tế ngày càng nhiều, cùng với đó
nhu cầu sử dụng các dịch vụ tài chính-ngân hàng ngày càng gia tăng, tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động ngân hàng nói chung và bảo lãnh ngân hàng nói riêng phát
triển.

1.1.3.

Khái niệm bảo lãnh ngân hàng

Căn cứ Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành theo Quyết định số
26/2006/QĐ-NHHH ngày 26/6/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN),
“Bảo lãnh ngân hàng” là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo
lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính
thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận
nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
1.1.4.

Các bên tham gia trong nghiệp vụ bảo lãnh

Trong một nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, thường có các thành phần sau:
1.1.4.1. Bên được bảo lãnh- The Principial (còn gọi là Bên yêu cầu bảo lãnh):
là khách hàng được NHTM bảo lãnh. Bên được bảo lãnh có thể là tổ chức hoặc cá
nhân trong hoặc ngoài nước có đủ điều kiện để ngân hàng bảo lãnh.

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

2

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng


1.1.4.2. Bên nhận bảo lãnh- The Beneficiary (còn gọi là Bên thụ hưởng bảo
lãnh): là tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng bảo lãnh của
NHTM.
1.1.4.3. Bên bảo lãnh- The Guarantor: là NHTM phát hành cam kết bảo lãnh.
Đó thường là NHTM có khả năng tài chính, có chức năng phát hành cam kết bảp
lãnh và được bên thụ hưởng chấp nhận. Bên bảo lãnh có thể là một NHTM phục vụ
bên được bảo lãnh hoặc nhiều NHTM tham gia.
1.1.4.4. Các bên có liên quan: là các bên có liên quan đến việc bảo lãnh của tổ
chức tín dụng (TCTD) cho khách hàng, như bên bảo lãnh đối ứng, bên xác nhận bảo
lãnh, bên xác nhận bảo lãnh, bên bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng đối với
TCTD bảo lãnh và các bên khác (nếu có).
1.1.5. Mối quan hệ giữa các bên trong nghiệp vụ bảo lãnh
Bên được bảo lãnh

Hợp đồng mua
bán, dự thầu

Hợp đồng cấp
bảo lãnh

Bên nhận bảo lãnh

Thư bảo lãnh/ Hợp
đồng bảo lãnh

Bên bảo lãnh (NH)

Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các bên trong nghiệp vụ bảo lãnh
1.1.5.1.


Quan hệ giữa bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh

Đây là mối quan hệ gốc, là cơ sở phát sinh yêu cầu bảo lãnh, được thể hiện
dưới dạng: hợp đồng mua bán, hợp đồng thi công, hồ sơ mời thầu, đơn dự thầu…
Trong mối quan hệ này, bên được bảo lãnh có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện cam
kết với bên nhận bảo lãnh.
1.1.5.2.

Quan hệ giữa bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh

Dựa vào quan hệ gốc giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh, bên bảo
lãnh (NHTM) phát hành cam kết bảo lãnh thêo yêu cẩu của bên được bảo lãnh. Mối

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

3

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

quan hệ này thể hiện thông qua hợp đồng cấp bảo lãnh. Đây là văn bản thỏa thuận
giữa NHTM với bên được bảo lãnh và các bên liên quan (nếu có) về quyền và nghĩa
vụ hoàn trả cho ngân hàng số tiền đã trả thay khi ngân hàng phải thanh toán cho bên
nhận bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh.
1.1.5.3.


Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh

Bên bảo lãnh (NHTM) có trách nhiệm thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi
bên được bảo lãnh vi phạm các nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Quan hệ
này thể hiện thông qua cam kết bảo lãnh. Cam kết bảo lãnh và văn bản bảo lãnh của
NHTM được phát hành dưới dạng Thư bảo lãnh hoặc Hợp đồng bảo lãnh. Theo Quy
chế bảo lãnh ngân hàng, Thư bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của
TCTD về việc TCTD sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận
bảo lãnh. Còn Hợp đồng bảo lãnh là thỏa thuận bằng văn bản giữa TCTD và bên
nhận bảo lãnh, hoặc giữa TCTD, bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh và các bên
liên quan (nếu có) về việc TCTD sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được
bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
1.2.

Phân loại bảo lãnh
1.2.1.

Căn cứ vào quy định pháp lý

1.2.1.1. Bảo lãnh vay vốn: là cam kết của TCTD với bên nhận bảo lãnh, về
việc sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả hoặc
không trả đầy đủ, đúng hạn nợ vay đối với bên nhận bảo lãnh.
1.2.1.2. Bảo lãnh thanh toán: là cam kết của TCTD với bên nhận bảo lãnh, về
việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán của mình
khi đến hạn.
1.2.1.3. Bảo lãnh dự thầu: là cam kết của TCTD với bên mời thầu, để đảm bảo

nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng phải nộp phạt

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

4

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

do vi phạm quy định đấu thầu mà không nộp hoặc không nộp đầy đủ tiền phạt cho
bên mời thầu thi TCTD sẽ thực hiện thay.
1.2.1.4. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của TCTD với bên nhận bảo
lãnh, bảo đảm việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng theo hợp
đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng
và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ thì TCTD sẽ thực hiện thay.
1.2.1.5. Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: là cam kết của TCTD với
bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng các thỏa thuận về chất
lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp
khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh
mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì TCTD sẽ thực hiện thay.
1.2.1.6. Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước: là cam kết của TCTD với bên nhận
bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp
đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng
và phải hoàn trả tiền ứng trước mà không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ thì
TCTD sẽ thực hiện thay.

1.2.1.7. Bảo lãnh đối ứng: là cam kết của TCTD (bên bảo lãnh đối ứng) với
bên bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính cho bên bảo lãnh, trong trường
hợp bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh và phải trả thay cho khách hàng của bên bảo
lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh.
1.2.1.8. Xác nhận bảo lãnh: là cam kết bảo lãnh của TCTD (bên xác nhận bảo
lãnh) đối với bên nhận bảo lãnh, về việc bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh của bên bảo lãnh đối với khách hàng.
1.2.1.9. Các loại bảo lãnh khác pháp luật không cấm và phù hợp với thông lệ
quốc tế.
1.2.2.
1.2.2.1.

Căn cứ vào phương thức phát hành bảo lãnh
Bảo lãnh trực tiếp ( Direct Guarantee).

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

5

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh, trong đó, NHTM chịu trách nhiệm phát
hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của bên được bảo lãnh. Sau khi ngân hàng đã
thanh toán cho bên thụ hưởng, ngân hàng có thể trực tiếp truy đòi từ bên được bảo
lãnh. Bảo lãnh trực tiếp thường có ba bên tham gia: ngân hàng phát hành bảo lãnh

(NHPH), bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp bên nhận bảo
lãnh ở nước ngoài, có thể xuất hiện một ngân hàng ở cùng quốc gia đó đóng vai trò
ngân hàng thông báo (NHTB).

Ngân hàng phát
hành

Chỉ thị
phát hành
bảo lãnh

Bảo lãnh
(3)

Ngân hàng thông
báo

(3*)
(2)

(4)
(5)

Bên được bảo
lãnh

(1)

Thông
báo

bảo
lãnh

Bên nhận bảo
lãnh

Sơ đồ 1.2: Quy trình bảo lãnh trực tiếp
(1)

A và B thỏa thuận ký kết một hợp đồng; B yêu cầu A phải mở một bảo

(2)

A đến ngân hàng phục vụ mình (NHPH) đề nghị phát hành bảo lãnh

lãnh.
theo những điều khoản và điều kiện đã thỏa thuận và ký với Ngân hàng một hợp
đồng bảo lãnh.
(3)

Theo những chỉ thị phát hành bảo lãnh của bên được bảo lãnh, NHPH

sẽ phát hành thư bảo lãnh cho bên nhận bảo lãnh thông qua NHTB, hoặc cũng có
thể phát hành bảo lãnh trực tiếp cho bên nhận bảo lãnh (3*).
(4)

NHTB khi nhận được bảo lãnh từ NHPH phải kiểm tra tính chân thực

của bảo lãnh, sau đó thông báo cho người thụ hưởng.


SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

6

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

(5)

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

NHPH thực hiện bồi hoàn cho bên thụ hưởng khi có sự vi phạm của

bên được bảo lãnh.
Về nguyên tắc, NHPH có thể gửi thư bảo lãnh trực tiếp cho người thụ hưởng.
Trên thực tế, bảo lãnh trực tiếp thường có sự tham gia của NHTB tại nước người thụ
hưởng. NHTB thường là ngân hàng của người thụ hưởng và có quan hệ đại lý với
NHPH. NHTB sẽ giúp người thụ hưởng xác định tính chân thực của Thư bảo lãnh
nhận được. Tuy nhiên, vai trò của NHTB chỉ đơn thuần là kiểm tra tính chân thực
và chuyển giao bảo lãnh cho người thụ hưởng. Ngược lại, khi người thụ hưởng đòi
tiền theo thư bảo lãnh, NHTB sẽ giúp NHPH kiểm tra tư cách pháp lý của người đòi
tiền, Tóm lại, NHTB chỉ tham gia dưới góc độ “kĩ thuật nghiệp vụ” mà không có
quyền và nghĩa vụ liên quan trong bảo lãnh. Chính vì vậy, dù có thêm sự tham gia
của NHTB, bảo lãnh trực tiếp vẫn được gọi là bảo lãnh 3 bên.
Đây là loại bảo lãnh đơn giản nhất và người xin bảo lãnh không phải mất phí
hoa hồng cho bên ngân hàng đại lý. Bảo lãnh này thường được sử dụng trong các
quan hệ kinh tế trong nước và chịu sự điều chỉnh của luật hoặc các quy định về bảo
lãnh của nước mà ngân hàng bảo lãnh trực thuộc.

1.2.2.2. Bảo lãnh gián tiếp (Indirect Guarantee)
Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh, trong đó, bên được bảo lãnh yêu cầu
NHTM phục vụ mình (gọi là ngân hàng chỉ thị - Instructing bank, NHCT) đề nghị
ngân hàng thứ hai (NHPH) phát hành cam kết bảo lãnh (gọi là bảo lãnh chính) và
chuyển cho bên nhận bảo lãnh. Trong loại bảo lãnh này, bên được bảo lãnh không
Bảotrách
lãnh nhiệm bồi hoàn cho NHPH
trực tiếp bồi hoàn cho NHPH, mà NHCT sẽ chịu
Ngân hàng
Ngân hàng phát
thông báoBảo
thông qua một cam kếthành
bảo lãnh (gọi là bảo lãnh(4)
đối ứng-Counter Guarantee).

lãnh đối ứng có nội dung và các điều khoản quy định như trong bảo lãnh chính
Bảo lãnh

nhứng thời
đốihạn
ứngbảo lãnh dài hơn. Sau khi đã bồi hoàn cho ngân hàng phát hành bảo
(3)

lãnh chính,
(7)đến lượt mình NHCT lại có thể truy đòi từ bên được bảo lãnh.
Thông
báo

Ngân hàng phát
hành


(5)

(6)
(8)

Chỉ
thị

(2)

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga
Người được bảo
lãnh

7

Hợp đồng
(1)

Lớp: 33K07.1
Người thụ
hưởng


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

Sơ đồ 1.3: Quy trình bảo lãnh gián tiếp

(1)

A và B thỏa thuận ký một hợp đồng và B yêu cầu A mở một bảo lãnh.

(2)

A đến ngân hàng phục vụ mình (NHPH) đề nghị phát hành bảo lãnh

theo những điều khoản và điều kiện đã thỏa thuận và ký với ngân hàng một hợp
đồng bảo lãnh. Nếu B không tin tưởng vào tiềm lực tài chính của ngân hàng do A
chọn hoặc muốn NHPH phải là một ngân hàng trong nước mình thì sẽ chỉ định
NHPH bảo lãnh. Nếu A không có quan hệ với NHPH do B chỉ định thì chỉ thị cho
ngân hàng của mình (ngân hàng trung gian) yêu cầu NHPH bảo lãnh mở bảo lãnh.
(3)

NH trung gian nhận được chỉ thị phát hành sẽ yêu cầu NH phát hành

bảo lãnh theo mẫu hoặc những điều khoản và điều kiện để thỏa thuận đồng thời mở
bảo lãnh đối ứng cho NHPH.
(4)

Căn cứ vào bảo lãnh đối ứng, NHPH sẽ phát hành bảo lãnh và gửi bảo

lãnh cho NHTB hoặc cũng có thể phát hành bảo lãnh trực tiếp cho người thụ
hưởng.
(5)

NHTB sau khi nhận được bảo lãnh từ NHPH thì kiểm tra tính chân

thực của bảo lãnh và thông báo cho người thụ hưởng.


SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

8

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

(6)

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

NHPH thanh toán nếu người thụ hưởng xuất trình những chứng từ

phù hợp với yêu cầu và trong thời hạn hiệu lực của bảo lãnh.
(7)

NH trung gian bồi hoàn cho NHPH.

(8)

Bên được bảo lãnh đền bù cho NH trung gian.

Trong bảo lãnh gián tiếp thì người thụ hưởng hoàn toàn không có quyền yêu
cầu NH trung gian thanh toán bảo lãnh. Giữa NH trung gian và người thụ hưởng
hoàn toàn không có quan hệ gì, hay nói cách khác NH trung gian không có nghĩa vụ
thanh toán cho người thụ hưởng. Tương tự như vậy thì NHPH hoàn toàn không có
quyền yêu cầu bên được bảo lãnh bồi hoàn. Chỉ có trung gian mới có nghĩa vụ bồi

hoàn cho NHPH theo bảo lãnh đối ứng.
So với bảo lãnh gián tiếp, bên được bảo lãnh thường phải chịu chi phí bảo
lãnh cao hơn so với bảo lãnh trực tiếp. Loại bảo lãnh này được sử dụng chủ yếu
trong trường hợp bên nhận bảo lãnh ở nước ngoài và NHPH ở cùng quốc gia đó nên
quyền lợi của bên thụ hưởng được bảo vệ chắc chắn hơn.
1.2.2.3. Đồng bảo lãnh
Nhằm giảm thiều rủi ro các ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh trong
một số dự án có giá trị lớn. Trong trường hợp này, một ngân hàng đứng ra đóng vai
trò đầu mối phát hành bảo lãnh nhưng có sự tham gia của nhiều ngân hàng đồng
minh khác. Nếu phải chi trả cho người thụ hưởng, ngân hàng chính có thể đòi bồi
hoàn từ các ngân hàng đồng minh theo tỷ lệ tham gia của họ dựa trên các bảo lãnh
đối ứng do các ngân hàng phát hành. Đến lượt mình, các ngân hàng này lại tiến
hành truy đòi từ người được bảo lãnh, thường thông qua ngân hàng bảo lãnh chính.
1.2.3. Căn cứ vào đối tượng bảo lãnh
1.2.3.1. Bảo lãnh trong nước
Là loại bảo lãnh mà người yêu cầu bảo lãnh, người đựoc bảo lãnh và ngân
hàng bảo lãnh ở trong phạm vi một quốc gia. Các hình thức phổ biến là : bảo lãnh
dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền ứng trước…được thực hiện qua
việc ngân hàng phát hành thư bảo lãnh.
1.2.3.2. Bảo lãnh nước ngoài

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

9

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp


GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

Là bảo lãnh bằng ngoại tệ và/hoặc bên nhận bảo lãnh là doanh nghiệp nước
ngoài thành lập và hoạt động theo luật pháp nước ngoài, tổ chức (không phải doanh
nghiệp), cá nhân nước ngoài.
1.2.4. Căn cứ vào bản chất của bảo lãnh
1.2.4.1. Bảo lãnh truyền thống
Trong bảo lãnh truyền thống, bên bảo lãnh chỉ thanh toán khi có sự vi phạm
nghĩa vụ của bên được bảo lãnh đối với bên thụ hưởng và có thiệt hại thực tế phát
sinh. Bên thụ hưởng có nghĩa vụ phải chứng minh với NHPH bảo lãnh khi yêu cầu
đòi tiền. NHPH không thanh toán chừng nào còn tranh chấp giữa người thụ hưởng
và người được bảo lãnh chưa được giải quyết. NHPH chỉ thanh toán cho bên thụ
hưởng trong trường hợp bên được bảo lãnh không còn khả năng thanh toán (ví dụ
khi bên được bảo lãnh bị phá sản). Số tiền thanh toán được xác định theo phán
quyết của trọng tài hoặc tòa án. Một số bảo lãnh truyền thống còn cho phép ngân
hàng bảo lãnh có thể thay thế bên được bảo lãnh thực hiện nốt phần nghĩa vụ chưa
hoàn thành của bên được bảo lãnh thay vì việc trả tiền.
Bảo lãnh truyền thống hết sức bất lợi cho bên thụ hưởng. Bên thụ hưởng
không dễ gì nhận được tiền theo thư bảo lãnh.Theo đuổi các vụ kiện luôn là một quá
trình mệt mỏi và tốn kém mà không bên nào biết chắc được điểm dừng là ở đâu.
Bảo lãnh truyền thống không đáp ứng được yêu cầu của bên thụ hưởng muốn có
một hình thức đảm bảo hữu hiệu, giúp bên thụ hưởng nhanh chóng có được nguồn
tài chính cần thiết để bù đắp những thiệt hại do sự vi phạm nghĩa vụ của bên được
bảo lãnh gây ra. Chính vì vậy, bảo lãnh truyền thống ngày nay ít được sử dụng.
1.2.4.2. Bảo lãnh trả tiền ngay (Demand Guarantee)
Bảo lãnh trả tiền ngay là bảo lãnh theo đó ngân hàng bảo lãnh cam kết thanh
toán ngay cho bên thụ hưởng khi bên thụ hưởng xuất trình được những chứng từ
phù hợp với các điều khoản và điều kiện của bảo lãnh.
NHPH bảo lãnh trả ngay cam kết thanh toán ngay cho bên thụ hưởng số tiền
của bảo lãnh khi dc yêu cầu. Bên thụ hưởng chỉ phải xuất trình những chứng từ quy

định trong thư bảo lãnh. Trong nhiều trường hợp bên thụ hưởng chỉ cần xuất trình

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

10

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

một yêu cầu đòi tiền bằng văn bản là đủ, không cần bất kì chứng từ nào khác để
chứng minh sự vi phạm của bên được bảo lãnh cũng như thiệt hại (nếu có). Như
vậy, đối với bên thụ hưởng, bảo lãnh trả tiền ngay có giá trị như tiền đặt cọc, vì thủ
tục đòi tiền đơn giản cộng với uy tín của NHPH. Thay vì việc trực tiếp giữ tiền, bên
thụ hưởng nhờ ngân hàng giữ hộ. Bên được bảo lãnh cũng được lợi vì không bị
đọng vốn. Trong đa số trường hợp bên được bảo lãnh sử dụng hạn mức tín dụng do
ngân hàng cấp để phát hành bảo lãnh. Chính vì đáp ứng được những yêu cầu của tất
cả các bên liên quan nên bảo lãnh trả tiền ngay ngày càng dc sử dụng phổ biến trong
thương mại quốc tế và được gọi là bảo lãnh hiện đại để phân biệt với bảo lãnh
truyền thống.
1.2.5. Căn cứ vào điều kiện thanh toán của bảo lãnh
1.2.5.1. Bảo lãnh theo yêu cầu
Là loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán của nó là bên nhận bảo lãnh chỉ cần
xuất trình yêu cầu thanh toán hoặc văn bản yêu cầu thanh toán kèm với tờ trình về
sự vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh (các văn bản này do bên nhận bảo lãnh
lập và không xác nhận của bên thứ ba độc lập hoặc bên được bảo lãnh).
1.2.5.2. Bảo lãnh kèm chứng từ

Điều kiện thanh toán ở đây là phải có chứng từ xác nhận của bên thứ ba
(thường là một bên độc lập có đủ tư cách chuyên môn để xác nhận). Chứng từ có
thể được xuất trình theo một trong hai cách sau:
- Bên nhận bảo lãnh xuất trình các chứng từ xác nhận hành vi vi phạm nghĩa
vụ từ phía bên được bảo lãnh.
- Bên nhận bảo lãnh xuất trình yêu cầu thanh toán, ngoài ra không cần phải
xuất trình bất cứ một chứng từ nào khác như bảo lãnh theo yêu cầu. Tuy nhiên,
quyền thanh toán của người này bị đình lại nếu bên được bảo lãnh cung cấp chứng
từ của bên thứ ba xác nhận việc hoàn thành hợp đồng.
1.2.5.3. Bảo lãnh kèm phán quyết của trọng tài hoặc của tòa án

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

11

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

Điều kiện thanh toán ở đây là bên nhận bảo lãnh phải cung cấp một phán
quyết của tòa án hoặc trọng tài khẳng định việc vi phạm nghĩa vụ của bên được bảo
lãnh và trách nhiệm bồi hoàn đối với bên được bảo lãnh.
1.3. Chức năng của bảo lãnh
1.3.1. Bảo lãnh được dùng như công cụ bảo đảm
Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng. Chức năng này
thể hiện trước hết ở việc bảo đảm sự công bằng về nghĩa vụ và quyền lợi của bên
được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh trong việc thực hiện các cam kết. Bên cạnh đó,

bằng việc cam kết chi trả khi bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ, ngân hàng phát
hành bảo lãnh đã tạo ra sự đảm bảo cho bên nhận bảo lãnh. Đây chính là mục đích
ra đời của bảo lãnh ngân hàng. Chính sự tin tưởng này tạo điều kiện cho các giao
dịch được tiến hành một cách thuận lợi và dễ dàng. Ngoài ra, bảo lãnh ngân hàng
còn là công cụ bù đắp cho bên nhận bảo lãnh những tổn thất gây ra do phía đối tác
không thực hiện các nghĩa vụ. Trên thực tế, do việc thanh toán dựa trên vấn đề vi
phạm nghĩa vụ đã cam kết của bên được bảo lãnh, mà các nghĩa vụ này lại có sự
giám sát gián tiếp từ phía ngân hàng, và bên nhận bảo lãnh hoàn toàn không mong
đợi bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng để được bồi hoàn từ ngân hàng bảo lãnh,
nên tỷ trọng các bảo lãnh ngân hàng được yêu cầu thanh toán thường không cao. Vì
vậy bảo lãnh là một công cụ đảm bảo chứ không phải là một công cụ thanh toán.
1.3.2. Bảo lãnh là công cụ tài trợ
Bảo lãnh ngân hàng còn là công cụ tài trợ về mặt tài chính cho bên được bảo
lãnh. Trong nhiều trường hợp, thông qua bảo lãnh ngân hàng, bên được bảo lãnh
không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh chóng, được vay nợ, được nhận khoản
tiền ứng trước hoặc được kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ, tiền
nộp thuế…Vì vậy, mặc dù không trực tiếp cấp vốn, nhưng với việc phát hành bảo
lãnh, ngân hàng bảo lãnh đã giúp khách hàng được hưởng những thuận lợi về ngân
quỹ như khi thực hiện cho vay. Với ý nghĩa này, bảo lãnh ngân hàng được coi là
một trong những dịch vụ ngân hàng có ý nghĩa quan trọng, đáp ứng kịp thời các yêu

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

12

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp


GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

cầu phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, làm giảm bớt căng thẳng về nguồn
vốn hoạt động của các doanh nghiệp.
1.3.3. Bảo lãnh là công cụ đôn đốc hoàn thành hợp đồng
Đối với hoạt đông bảo lãnh, việc thanh toán được thực hiện dựa trên sự vi
phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh. Trong suốt thời hạn hiệu lực của bảo lãnh,
người thụ hưởng luôn có quyền yêu cầu ngân hàng phát hành thanh toán bảo lãnh
nếu như người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng. Do đó, ngân hàng luôn phải theo
dõi kiểm tra giám sát và đôn đốc việc thực hiện hợp đồng của bên được bảo lãnh.
Mặt khác, trong trường hợp ngân hàng bảo lãnh phải thanh toán tiền bồi hoàn cho
bên nhận bảo lãnh thì bên được bảo lãnh cũng sẽ phải có trách nhiệm nợ và hoàn trả
khoản bồi hoàn đó cho ngân hàng bảo lãnh. Vì về thực chất, bảo lãnh là lấy tiền vi
phạm trả cho người hưởng lợi. Vì thế, bên được bảo lãnh luôn đứng trước áp lực
của việc phải bồi hoàn bảo lãnh. Như vậy, bảo lãnh ngân hàng có vai trò đốc thúc
bên được bảo lãnh thực hiện các cam kết họ đã đưa ra.
Tuy nhiên, trên thực tế, khi ký hợp đồng và nhận cam kết bảo lãnh, bên nhận
bảo lãnh vẫn mong muốn bên được bảo lãnh thực hiện các cam kết hơn là khoản bồi
hoàn tài chính từ bảo lãnh ngân hàng, bởi việc tìm kiếm một đối tác khác thực hiện
công việc đang bị bỏ dở không phải là điều dễ dàng, đòi hỏi mất nhiều thời gian và
chi phí. Rõ ràng, bảo lãnh ngân hàng mang ý nghĩa đốc thúc thực hiện các cam kết
hơn là bồi hoàn. Ngoài ra, do trách nhiệm thực hiện bồi hoàn theo cam kết bảo lãnh,
nên ngân hàng phát hành bảo lãnh cũng có vai trò gián tiếp tạo ra áp lực đối với bên
được bảo lãnh trong việc giảm thiểu sự vi phạm.
1.3.4. Bảo lãnh là một công cụ đánh giá
Bất kỳ một ngân hàng nào trước khi phát hành thư bảo lãnh đều cần phải
kiểm tra một cách toàn diện về bên được bảo lãnh như : Khả năng tài chính, uy tín,
khả năng thực hiện hợp đồng. Mà đây là một vấn đề mà bên thụ hưởng khó có khả
năng thực hiện. Vì vậy, bảo lãnh cũng sẽ giúp cho bên nhận bảo lãnh có thể đánh
giá tốt hơn về đối tác của mình, phục vụ cho mối quan hệ giữa hai bên.

1.4. Vai trò của bảo lãnh

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

13

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

1.4.1. Đối với nền kinh tế
Bảo lãnh ngân hàng ngày nay đóng một vai trò to lớn đối với nền kinh tế.
Công cụ này đã góp phần thúc đẩy sự hợp tác trên tất cả các mặt của nền kinh tế-xã
hội, không những trong phạm vi của một quốc gia mà lan rộng ra phạm vi toàn cầu.
Hoạt động bảo lãnh ngân hàng tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất, hỗ trợ cho các ngành
kinh tế mũi nhọn, các khu vực trọng điểm phát triển và các ngành kinh tế kém phát
triển, thông qua các chính sách ngân hàng như: mở rộng bảo lãnh cho vay vốn nước
ngoài, tăng hạn mức bảo lãnh...Bên cạnh đó, hoạt động này còn góp phần đẩy mạnh
hoạt động tín dụng thương mại của các doanh nghiệp, tổ chức và các tác dụng đáng
kể trong việc giải quyết nhu cầu về vốn trong hầu hết các ngành, các lĩnh vực như:
thương mại, dịch vụ, xây dựng, tài chính, nông nghiệp, công nghiệp...Bên cạnh đó,
bảo lãnh giúp tạo dựng uy tín cho các doanh nghiệp Việt Nam, giúp cho các doanh
nghiệp mở rộng thị trường ra nước ngoài, tăng vị thế của hàng Việt Nam, đồng thời
tạo được nguồn thu ngoại tệ, giúp cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, ổn định giá
trị đồng tiền.
Có thể nói, hoạt động bảo lãnh ngân hàng đã thực sự trở thành công cụ thông
dụng nhằm đảm bảo thực thi nghĩa vụ, đặc biệt là nghĩa vụ tài chính, trong các giao

dịch tài chính lẫn phi tài chính, giao dịch thương mại lẫn phi thương mại ở hầu hết
các quốc gia và trên toàn thế giới.
1.4.2. Đối với NHTM
Trước hết đối với ngân hàng, bảo lãnh là một trong các dịch vụ mà ngân
hàng cung cấp cho nền kinh tế. Đồng thời bảo lãnh đem lại lợi ích trực tiếp cho
ngân hàng thông qua phí bảo lãnh. Phí bảo lãnh đóng góp vào lợi nhuận ngân hàng
một khoản không nhỏ, nó chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng phí dịch vụ của các ngân
hàng hiện nay. Một ưu điểm của bảo lãnh ngân hàng là không phải chi phí huy động
như cho vay, không mất chi phí cơ hội cho mục đích kinh doanh khác, và khi thực
hiện bảo lãnh cho khách hàng thì chắc chắn thu được phí bảo lãnh.
Ngoài việc đem lại một khoản thu nhập thì nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
còn góp phần không nhỏ trong việc mở rộng quan hệ của ngân hàng với khách

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

14

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

hàng. Sự ra đời của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng đã hoàn thiện khả năng đáp ứng
các nhu cầu của khách hàng, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, đa dạng dịch vụ
cũng như gia tăng nguồn vốn thông qua việc mở rộng các quan hệ thanh toán, các
tài khoản giao dịch. Nghiệp vụ bảo lãnh hỗ trợ các hình thức thanh toán của ngân
hàng như thanh toán quốc tế (bảo lãnh hối phiếu, bảo lãnh L/C trả chậm…).
Nghiệp vụ bảo lãnh hỗ trợ cho nghiệp vụ tín dụng thông qua bảo lãnh vay

vốn nước ngoài. Tức là ngân hàng không dùng vốn của mình cho doanh nghiệp vay
mà chỉ dùng vốn của ngân hàng để đảm bảo cho các khoản vay của doanh nghiệp
với các tổ chức tín dụng khác.
Bảo lãnh nâng cao uy tín và tăng cường quan hệ của ngân hàng trên thị
trường, đặc biệt là thị trường quốc tế. Thông qua bảo lãnh, ngân hàng tạo được thế
mạnh, uy tín giúp tăng khách hàng và lợi nhuận.
1.4.3. Đối với khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh
Bảo lãnh giúp các doanh nghiệp có thể thúc đẩy cạnh tranh, mở rộng sản
xuất kinh doanh. Dịch vụ bảo lãnh giúp bên nhận bảo lãnh có thể yên tâm kí kết,
giao dịch với các đối tác mà không tốn nhiều thời gian và chi phí. Điều này càng trở
nên có ý nghĩa trong nền kinh tế thị trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi
các doanh nghiệp phải liên tục tìm kiếm khách hàng và nắm bắt cơ hội mặc dù phải
đối mặt với rủi ro. Bên cạnh đó, bảo lãnh ngân hàng còn giúp cho các doanh nghiệp
chọn được bạn hàng tốt nhất và giảm rủi ro trong kinh doanh. Hơn nữa, khi có rủi ro
xảy ra, bên nhận bảo lãnh vẫn được đảm bảo bù đắp mọi thiệt hại do đối tác vi
phạm hợp đồng một cách nhanh chóng và thuận lợi nhất để tiếp tục hoạt động kinh
doanh của mình.
Đối với bên được bảo lãnh, bảo lãnh ngân hàng giúp các doanh nghiệp có thể
ký kết và thực hiện hợp đồng ngay cả khi chưa đủ uy tín và lòng tin đối với bên đối
tác, và nhận được nguồn tài trợ từ đối tác (đối với bảo lãnh tiền ứng trước), hoặc từ
các tổ chức tín dụng khác (bảo lãnh vay vốn), lúc đó sẽ giúp các doanh nghiệp có đủ
khả năng tài chính để thực hiện hợp đồng, tham gia giao dịch và ký kết hợp đồng.
Ngoài ra, bảo lãnh ngân hàng góp phần nâng cao trách nhiệm của các bên về nghĩa

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

15

Lớp: 33K07.1



Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

vụ mà mình phải thực hiện.
1.5. Vai trò của ngân hàng trong hoạt động bảo lãnh
1.5.1. Ngân hàng thông báo
Trong nghiệp vụ bảo lãnh, NHTB chỉ có vị trí hết sức khiêm tốn. Nhiệm vụ
của NHTB chỉ là nhận điện phát hành bảo lãnh cho ngân hàng đại lý, kiểm tra tính
xác thực và chuyển cho bên thụ hưởng. NHTB không có bất kì cam kết và ràng
buộc nào đối với bên thụ hưởng. Việc thông bảo thư bảo lãnh của ngân hàng không
hàm ý bất kì cam kết hoặc nghĩa vụ nào của ngân hàng.
Tuy nhiên, NHTB thường là ngân hàng của bên thụ hưởng. Bên thụ hưởng
quan hệ với NHTB không chỉ với tư cách là người hưởng lợi của thư bảo lãnh mà
còn là một khách hàng của NHTB. Đứng trên quan điểm của phục vụ khách hàng,
NHTB hoàn toàn có thể tư vấn cho người thụ hưởng về các điều khoản và điều kiện
của thư bảo lãnh. NHTB có thể cảnh báo bên thụ hưởng về những điểm bất lợi trong
thư bảo lãnh. Việc tư vấn của NHTB hoàn toàn vì quyền lợi của khách hàng, không
phải là một nghĩa vụ của ngân hàng và không ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ của
các bên liên quan trong bảo lãnh.
1.5.2. Ngân hàng phát hành bảo lãnh
Thư bảo lãnh là một cam kết độc lập không hủy ngang của NHPH. Tuy
nhiên, ngân hàng phát hành thư bảo lãnh theo chỉ thị của bên được bảo lãnh với chi
phí và rủi ro thuộc về bên được bảo lãnh. NHPH có nghĩa vụ thực hiện đúng chỉ thị
của người được bảo lãnh. NHPH phải chịu trách nhiệm với bên được bảo lãnh kiểm
tra sự phù hợp của chứng từ xuất trình với các điều kiện và điều khoản của thư bảo
lãnh, và chỉ được thanh toán khi chứng từ xuất trình hoàn toàn phù hơp. Khi NHPH
không thực hiện đúng chỉ thị nhận được thì ngân hàng bị coi là đã vi phạm “hợp
đồng” với bên được bảo lãnh. NHPH sẽ phải chịu mọi hậu quả do sự vi phạm “hợp

đồng” theo luật về hợp đồng của nước sở tại.
Đối với bên thụ hưởng, NHPH có nghĩa vụ thanh toán cho bên thụ hưởng khi
chứng từ xuất trình hoàn toàn phù hợp với điều kiện và điều khoản của thư bảo
lãnh. Nghĩa vụ của NHPH đối với bên thụ hưởng phát sinh dựa trên chứng từ xuất

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

16

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

trình và độc lập với hợp đồng và quan hệ của các bên. Ngân hàng không có nghĩa
vụ đối với bên được bảo lãnh kiểm tra việc thực hiện hợp đồng giữa các bên liên
quan và yêu cầu bên thụ hưởng xuất trình nhiều hơn những gì đã quy định trong bảo
lãnh. Nghĩa vụ của NHPH với bên thụ hưởng chỉ giới hạn trong nội dung của bảo
lãnh.
Ngân hàng đóng vai trò là trung gian giữa bên được bảo lãnh và bên nhận
bảo lãnh, cung cấp một dịch vụ tài chính cho bên nhận bảo lãnh theo yêu cầu của
bên được bảo lãnh. Chính bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh thỏa thuận về
nội dung của bảo lãnh, điều kiện đòi tiền...Ngân hàng chỉ là một định chế giúp cho
việc thực hiện thỏa thuận này một cách trôi chảy, nhanh chóng. Ngân hàng không
phải là một trọng tài giải quyết những tranh cãi giữa hai bên nên ngân hàng không
quan tâm và bị ràng buộc bới những tranh chấp giữa bên được bảo lãnh và bên nhận
bảo lãnh liên quan đến hợp đồng.
1.5.3. Ngân hàng phát hành bảo lãnh đối ứng (NHCT)

Ngân hàng phát hành bảo lãnh đối ứng hành động theo chỉ thị của bên được
bảo lãnh với mọi rủi ro và chi phí thuộc về người được bảo lãnh. Đến lượt mình
NHCT lại chỉ thị cho NHPH phát hành bảo lãnh. NHPH lại hành động theo chỉ thị
này với chi phí và rủi ro thuộc về NHCT. Suy cho cùng, người chịu mọi rủi ro và
chi phí là bên được bảo lãnh. Tuy nhiên, NHCT không có bất kì nghĩa vụ và cam
kết nào đối với bên thụ hưởng và bên được bảo lãnh cũng không có bất kì cam kết
hoặc nghĩa vụ nào đối với NHPH bởi tính chất độc lập của bảo lãnh. Quan hệ giữa
NHCT với bên được bảo lãnh tương tự như trong trường hợp phát hành bảo lãnh
trực tiếp.
1.6. Một số chỉ tiêu phản ánh tình hình hoạt động bảo lãnh
1.6.1. Số dư bảo lãnh
Số dư bảo lãnh là tổng giá trị các khoản bảo lãnh của ngân hàng tại một thời
điểm nhất định. Đây là chỉ tiêu mang tính thời điểm. Sự gia tăng hoặc sụt giảm của
chỉ tiêu này cho thấy sự gia tăng hoặc sụt giảm của hoạt động bảo lãnh của ngân
hàng so với thời điểm so sánh.

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

17

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

1.6.2. Doanh số bảo lãnh
Doanh số bảo lãnh là tổng giá trị các khoản bảo lãnh phát sinh trong một thời
kỳ. Đây là chỉ tiêu phản ánh tình hình hoạt động bảo lãnh của ngân hàng trong một

thời kỳ nhất định.
1.6.3. Doanh thu phí bảo lãnh
Doanh thu của hoạt động bảo lãnh là một trong các chỉ tiêu quan trọng trong
doanh thu hoạt động dịch vụ ngoài lãi vay của ngân hàng. Nguồn thu này đến từ phí
mà bên được bảo lãnh phải trả cho NHTM khi sử dụng dịch vụ này. Bên cạnh việc
phản ánh tình hình hoạt động bảo lãnh, chỉ tiêu này còn phản ánh chính sách phí của
ngân hàng.
Tuy nhiên, để có sự đánh giá toàn diện, người ta thường kết hợp xem xét chỉ
tiêu này trong mối quan hệ tương quan với các hoạt động khác thông qua các chỉ số
như: tỷ trọng doanh thu của hoạt động bảo lãnh trong tổng doanh thu dịch vụ, tỷ
trọng doanh thu của hoạt động bảo lãnh trong tổng doanh thu...Các chỉ số này phản
ánh đóng góp của hoạt động bảo lãnh trong nguồn thu từ dịch vụ ngoài hoạt động
cho vay và trong tổng nguồn thu của ngân hàng.
1.6.4. Dư nợ bảo lãnh quá hạn
Đây là dư nợ bảo lãnh NHTM đã trả thay cho khách hàng nhưng khách hàng
không trả được nợ cho NHTM. Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng của hoạt động bảo
lãnh. Các NHTM luôn chú ý kiểm soát chỉ tiêu này, bởi khi dư nợ bảo lãnh quá hạn
gia tăng cho thấy công tác thẩm định trong hoạt động bảo lãnh không tốt, cũng như
rủi ro và nguy cơ tổn thất cho NHTM là rất lớn..
1.7. Các dạng rủi ro trong hoạt động bảo lãnh
Rủi ro mà ngân hàng chủ yếu đối mặt trong hoạt động bảo lãnh là rủi ro hoạt
động ngoại bảng. Cụ thể như, trong một số trường hợp nhập khẩu hàng hoá, bộ
chứng từ có vận đơn gốc thường đến tay người mua sau khi hàng đã về tới cảng
đích. Thay vào đó người bán cấp cho người mua một Thư cam kết do ngân hàng
phát hành đứng ra bảo lãnh cam kết sẽ trao vận đơn gốc cho người mua khi nhận
được từ người bán trước đó. Trong một số trường hợp khác người mua không bao

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

18


Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

giờ nhận được chứng từ, đơn giản vì chứng từ đã bị thất lạc.
Trong những trường hợp đó, để tránh bị phạt chậm xếp dỡ, nhanh chóng đưa
hàng hoá vào lưu thông, nguời mua muốn nhận hàng mà không cần vận đơn gốc.
Về lý thuyết, người vận tải không giao hàng khi người nhận hàng không xuất trình
được vận đơn gốc. Bởi giao hành không vận đơn gốc là việc vi phạm nghiêm trọng
hợp đồng vận tải đã kí kết. Trên thực tế, người chuyên chở có thể giao hàng trên cơ
sở Thư cam kết bảo lãnh của người nhận hàng với cam kết hoàn lại vận đơn gốc cho
người vận tải. Nhưng nếu vận đơn gốc bị thất lạc thì người nhận hàng sẽ không bao
giờ có vận đơn gốc để xuất trình. Điều đó có nghĩa là ngân hàng không được giải
trừ trách nhiệm khỏi bảo lãnh đã phát hành. Câu hỏi được đặt ra là ngân hàng sẽ bị
ràng buộc trách nhiệm với hãng tàu trong thời gian bao lâu? Về nguyên tắc khi chưa
được giải trừ trách nhiệm, Thư bảo lãnh này sẽ tiếp tục hiện diện trong bảng cân đối
tài sản của ngân hàng và coi như không xác định được thời hạn. Và theo nguyên tắc
thận trọng của kế toán, các ngân hàng sẽ không bao giờ xuất Thư bảo lãnh đó ra
khỏi bảng cân đối tài sản. Do vậy, các ngân hàng đều tồn đọng trên giấy tờ những
bảo lãnh không quyết toán được. Điều này ảnh hưởng tới bức tranh tài chính của
ngân hàng.
Ngoài ra, giao dịch bảo lãnh ngân hàng với đặc trưng là bằng chứng từ và cơ
sở chứng từ là điều kiện thuận lợi cho sự lạm dụng, gian lận và lừa đảo xuất hiện.
Điều này xuất phát từ thực tế là thủ tục đòi tiền cùng tuyên bố vi phạm, nên đã vô
tình trở thành những ưu đãi đối với bên thụ hưởng, ngân hàng bảo lãnh sẽ phải
thanh toán cho bên thụ hưởng theo đúng cam kết bảo lãnh dù bên được bảo lãnh có

thực sự vi phạm hay không. Khi rủi ro xảy ra đối với bên được bảo lãnh, trong
trường hợp họ không có khả năng bồi hoàn cho ngân hàng số tiền đã thanh toán cho
bên được bảo lãnh, ngân hàng sẽ gặp rủi ro. Các hành vi gian lận, lừa đảo đó có thể
là hành vi đòi tiền vượt quá mức tổn thất của vi phạm, lập chứng từ khống để hợp
thức hoá chứng từ, lập công ty giả, giả mạo cam kết bảo lãnh thanh toán của một
hàng lớn trên thế giới để vay tại ngân hàng khác ...
Vì vậy, các ngân hàng luôn luôn phải nâng cao nghiệp vụ và đưa ra một số

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

19

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

chính sách đối phó với các loại rủi ro này.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG-THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Giới thiệu về VCB ĐN
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển VCB ĐN
Tên giao dịch: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Đà
Nẵng
Tên giao dịch đối ngoại: Bankforeign Trade of Vietnam – Danang
Branch
Tên viết tắt: Vietcombank Danang
Trụ sở chính: 140-142 Lê Lợi, TP Đà Nẵng

Website: www.vietcombank.com.vn
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập vào ngày 01 tháng 04
năm 1963 theo Quyết định số 115/CP ngày 30/12/1962 của Hội đồng Chính phủ, là
một trong hai ngân hàng lâu đời nhất trong hệ thống NHTM ở Việt Nam.
Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Đà Nẵng được thành lập theo quyết
định số 31/QĐ ngày 30 tháng 4 năm 1975 của Ban đại diện Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Trung Trung Bộ. Sau ngày đất nước
thống nhất, Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam tại Đà Nẵng được thành
lập lại và hoạt động theo quyết định số 142-NH/QĐ ngày 27/12/1976 của Tổng
giám đốc NHNN Việt Nam với tên gọi là Chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Đà
Nẵng trực thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Đà Nẵng được chính
thức thành lập theo quyết định số 520/QĐ.NHNT.TCCB-ĐT ngày 05/06/2008 của
HĐQT Ngân hàng TMCCP Ngoại thương Việt Nam V/v chuyển đổi chi nhánh.
Ngày 30 tháng 06 năm 2009, Cổ phiếu Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam (mã cổ phiếu là VCB) chính thức được giao dịch trên thị trường tại Sở giao
dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh. Đánh dấu một giai đoại phát triển mới của
Vietcombank Đà Nẵng nói riêng và hệ thống Vietcombank nói chung.

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

20

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng


Trong 35 năm qua, VCB ĐN đã từng bước khẳng định được sự trưởng thành
và phát triển liên tục về mọi mặt của mình, VCB ĐN luôn nghiêm túc chấp hành
chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị của địa phương và vùng kinh tế. Hoạt động kinh doanh của Chi
nhánh ngày càng được mở rộng và có hiệu quả. Thực hiện chủ trương tái cơ cấu
toàn diện và hiện đại hóa hoạt động ngân hàng giai đoạn 2001-2010 của Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam, tiến tới xây dựng Vietcombank trở thành tập đoàn
tài chính đa năng tại Việt Nam và là ngân hàng quốc tế trong khu vực. VCB ĐN đã
không ngừng phát triển ứng dụng công nghệ ngân hàng mới, thực hiện mô hình
quản lý tập trung, đổi mới cơ chế quản lý kinh doanh, xây dựng và cung ứng nhiều
sản phẩm dịch vụ và tiện ích ngân hàng có hàm lượng công nghệ cao như dịch vụ
ngân hàng điện tử, thẻ thanh toán đa năng, dịch vụ ngân hàng qua mạng…phù hợp
với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau.
Thời gian qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ nhân viên Chi
nhánh Đà Nẵng để thực hiện tốt chiến lược kinh doanh của Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam: “Tất cả vì sự thành đạt của khách hàng”, quy mô, vị thế
và uy tín của VCB ĐN luôn nằm ở những vị trí dẫn đầu trong hệ thống các NHTM
trên địa bàn Đà Nẵng và miền Trung. Chính những điều này đã tạo nên nền tảng cơ
bản cho VCB ĐN phát huy, phát triển trong những năm tiếp theo.
Là một ngân hàng phát triển theo hướng đa năng hóa, VCB ĐN tham gia vào
rất nhiều hoạt động kinh doanh như: huy động vốn, hoạt động tín dụng, thanh toán
xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ, dịch vụ thanh toán, dịch vụ thẻ…VCB ĐN
cũng đã tham gia đầu tư vào nhiều dự án lớn như The Nam Hai Resort 16 triệu
USD, Indochina Riverside Towers 11 triệu USD. Ngày 12 tháng 9 năm 2009 vừa
qua, Ngân hàng đã ký hợp đồng tài trợ vốn cho dự án khu nghỉ dưỡng Hyatt
Regency Đà Nẵng do Indochina Land đầu tư với tổng số vốn tài trợ là 39 triệu
USD.
Ngoài hoạt động kinh doanh, VCB ĐN còn tích cực thực hiện các chủ trương
của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị-xã hội về phụng dưỡng Mẹ Việt Nam


SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

21

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

Anh Hùng, đóng góp xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ vì người nghèo, xây
dựng nhà tình nghĩa. Những kết quả đạt được trong hoạt động kinh doanh và các
hoạt động phong trào xã hội, từ thiện của VCB ĐN trong hơn 35 năm qua thể hiện
sự trưởng thành và không ngừng hoàn thiện về mọi mặt của đội ngũ CBNV VCB
ĐN.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Chi nhánh
- Hướng dẫn thực hiện các chế độ, thể lệ thuộc phạm vi hoạt động của
NHNTVN
- Căn cứ vào các thông báo của NHNTVN để ấn định việc kinh doanh ngoại
tệ, lãi cho vay, lãi suất tiền gửi trên địa bàn hoạt động.
- Thiết lập các quan hệ đại lý với các tổ chức tiền tệ tín dụng và ngân hàng
nước ngoài, thực hiện các quan hệ cung ứng dịch vụ cho các cá nhân, tổ chức được
phép hoạt động kinh doanh đối ngoại.
- Làm tư vấn về tiền tệ, tiền tệ và thanh toán đối ngoại.
- Áp dụng các thể lệ thanh toán thích hợp để huy động vốn bằng VNĐ và
ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, các cá nhân trong nước và ngoài nước thuộc
phạm vi của mình.
- Vay vốn và chiết khấu Ngân Hàng Nhà Nước.
- Vay vốn của các tổ chức, cá nhân nước ngoài.

- Cho vay ngắn hạn, trung hạn bằng VNĐ hoặc ngoại tệ đối với các cá nhân
và đơn vị sản xuất kinh doanh và dịch vụ trên địa bàn.
- Kinh doanh tiền tệ, làm các dịch vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng
đối ngoại.
- Bảo lãnh các khoản vay, thanh toán với các pháp nhân trong và ngoài nước.
- Thực hiện thanh toán, làm nhiệm vụ thanh toán trong hệ thống và ngoài hệ

thống Ngân Hàng Ngoại Thương cho các đơn vị, cá nhân mở tài khoản.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động của VCB ĐN
Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Đà Nẵng hiện nay bao
gồm 1 Giám đốc và 3 phó Giám đốc. Trụ sở chính của Chi nhánh đặt tại 140-142 Lê

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

22

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

Lợi, Đà Nẵng với 11 phòng ban, 1 tổ tin học và 6 phòng giao dịch phân bổ tại các
địa bàn trọng điểm phát triển kinh tế của thành phố Đà Nẵng. Tổng số lượng cán bộ
nhân viên toàn Chi nhánh hiện nay là 190 người, trong đó số lượng cán bộ có trình
độ đại học và trên đại học chiếm trên 90%. Cụ thể:
Các phòng ban tại trụ sở chính:
1. Phòng Khách hàng
2. Phòng Khách hàng thể nhân

3. Phòng quản lý nợ
4. Phòng Kinh doanh dịch vụ ngân hàng
5. Phòng Thanh toán quốc tế
6. Phòng dịch vụ ngân quỹ
7. Phòng vốn
8. Phòng Thanh toán thẻ
9. Phòng Kế toán
10. Phòng Kiểm tra nội bộ
11. Phòng Hành chính nhân sự
12. Tổ tin học
Các phòng giao dịch trên địa bàn:
1. Phòng Giao dịch Hải Châu
2. Phòng Giao dịch Hùng Vương
3. Phòng Giao dịch Thanh Khê
4. Phòng Giao dịch Sơn Trà
5. Phòng Giao dịch Ngũ Hành Sơn
6. Phòng Giao dịch Hòa Khánh

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

23

Lớp: 33K07.1


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

Giám đốc


Phó
giám
đốc
điều
hành

Phó
giám đốc 1
P.KH thể
nhân
Các
phòng
giao dịch

Phó
giám đốc 2

Phó
giám đốc 3

P. Khách
hàng

P.Thẻ

P.Kế toán

P.KD dịch
vụ


Tổ tin học

P.Nhân Sự

Phòng quản
lý nợ

P.Ngân
quỹ
P.Thanh
toán XNK

P.Kiểm tra
và giám sát
tuân thủ

Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh VCB ĐN
Vào ngày 08/08/2008, Ngân hàng đã khởi công xây dựng cao ốc VCB ĐN tại
142 Lê Lợi với tổng vốn đầu tư 55 tỷ đồng. Công trình này không những góp phần
tăng cường khả năng cạnh tranh của VCB ĐN trên thị trường tài chính ngân hàng
mà còn góp phần tạo nên bộ mặt đô thị khang trang, hiện đại cho thành phố. Bên
cạnh đó, Ngân hàng còn có một mạng lưới các điểm thu đổi ngoại tệ, các cơ sở chấp
nhận thẻ và 35 máy ATM được đặt đều ở khắp các quận trên địa bàn thành phố,
cung cấp kịp thời và đầy đủ các dịch vụ ngân hàng đến với khách hàng.
2.1.4. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban
- Phòng khách hàng: là đầu mối duy trì và phát triển quan hệ với khách hàng
doanh nghiệp trên tất cả các mặt hoạt động, tất cả các sản phẩm ngân hàng, thực
hiện phân tích rủi ro và thẩm định giới hạn tín dụng, cấp tín dụng đối với khách
hàng doanh nghiệp.

- Phòng khách hàng thể nhân: là đầu mối duy trì, phát triển và quản lý quan
hệ khách hàng là thể nhân trên tất cả các mặt hoạt động, tất cả các sản phẩm ngân

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

24

Lớp: 33K07.1

P.Vố


Luận văn tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lâm Chí Dũng

hàng. Ngoài ra, còn thực hiện các công việc có liên quan đến việc cấp tín dụng đối
với khách hàng là thể nhân tại Chi nhánh.
- Phòng quản lý nợ: chịu trách nhiệm quản lý và trực tiếp thực hiện tác
nghiệp liên quan đến việc mở tài khoản vay/ hợp đồng, cập nhật hệ thống, giải
ngân, thu hồi nợ, và thực hiện quản lý rủi ro tác nghiệp trong hoạt động tín dụng,
đảm bảo các khoản cấp tín dụng tuân thủ các quy điịnh trong quá trình cấp tín dụng.
- Phòng kế toán: thực hiện các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến việc thanh
toán giữa các tổ chức kinh tế, quản lý và giám sát toàn bộ tài khoản của khách hàng
và thực hiện hạch toán các nghiệp vụ liên quan đến kết quả hoạt động của VCB ĐN.
- Phòng thanh toán xuất nhập khẩu: có trách nhiệm thực hiện các nghiệp vụ
liên quan đến thanh toán xuất nhập khẩu, tài trợ thương mại của khách hàng.
- Phòng hành chính-nhân sự: thực hiện công tác tổ chức cán bộ và hành
chính quản trị.
- Phòng kinh doanh dịch vụ ngân hàng: thực hiện các dịch vụ tiền gửi của cá

nhân và tổ chức.
- Phòng thanh toán thẻ: thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến phát hành thẻ,
thanh toán thẻ và quản lý hệ thống giao dịch tự động (ATM).
- Phòng ngân quỹ: thực hiện các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến tiền mặt
và chịu trách nhiệm về chất lượng nạp tiền mát ATM.
- Phòng vốn: chịu trách nhiệm lập kế hoạch cân đối nguồn vốn, sử dụng vốn
kinh doanh của Chi nhánh, thực hiện mua bán ngoại tệ và là đầu mối thông báo, lưu
trữ các loại lãi suất, tỷ giá.
- Tổ tin học: thực hiện công tác nghiên cứu phát triển công nghệ ngân hàng,
chịu trách nhiệm quản trị mạng toàn bộ hệ thống mạng của Chi nhánh, đồng thời
phối hợp với các phòng liên quan để hướng dẫn các nghiệp vụ tin học khi có quy
trình mới.
- Các phòng giao dịch: có nhiệm vụ trong việc huy động vốn, cho vay,
chuyển tiền và dịch vụ khác, thực hiện thu chi tiền mặt, tiếp thị, thu hút khách hàng.
2.1.5. Các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng

SVTH: Bùi Thị Thanh Nga

25

Lớp: 33K07.1


×