Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Mô tả thực trạng sự hài lòng người bệnh nội trú tại bệnh viện phụ sản trung ương năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.99 KB, 67 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự hài lòng của người bệnh (NB) là tiêu chí quan trọng để đánh giá uy
tín, chất lượng phục vụ của bệnh viện (BV), là thước đo phản ánh kết quả đầu
ra của các cơ sở y tế dù là công lập hay tư nhân. Mục tiêu sau cùng mà các
bệnh viện hiện đang hướng tới là sự hài lòng của người bệnh chứ không chỉ
dừng lại ở việc chữa đúng, chữa đủ, chữa khỏi cho người bệnh. Như vậy,
tỷ lệ hài lòng là bao nhiêu, những khía cạnh nào tác động đến sự hài lòng của
người bệnh nội trú và làm thế nào để nâng cao sự hài lòng của NB đang trở
thành một trong những nhiệm vụ hàng đầu của các BV nói riêng và của Bộ Y
tế nói chung.
Hiện nay, chất lượng dịch vụ ngày càng được xác định đóng vai
trò then chốt trong việc so sánh giữa cơ sở y tế (CSYT) này với CSYT khác
để tạo dựng được những lợi thế cạnh tranh. Những khách hàng khi phải trả
chi phí cao cho các dịch vụ y tế (DVYT) thì ngày càng có những đòi hỏi, yêu
cầu cao hơn về chất lượng dịch vụ (DV) cung cấp từ phía cán bộ y tế
(CBYT) nói riêng, và từ phía BV nói chung. Do đó, việc nâng cao chất lượng
các DVYT được các nhà quản lý ngày càng quan tâm. Trong bệnh viện, chất
lượng DVYT quyết định sự hài lòng của n g ư ờ i b ệ n h , họ sẽ không đến
với các BV khi họ không hài lòng với các DVYT tại đó. Chính vì vậy,
theo quan điểm nền kinh tế y tế hiện đại, bệnh viện ngày nay được xem là
một thị trường cạnh tranh trong một nền kinh tế xã hội phát triển mà ở đó,
chất lượng dịch vụ có đáp ứng, thỏa mãn sự mong đợi và nhu cầu của người
bệnh hay không là một trong những nhân tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của BV nói riêng và nền Y tế Việt Nam nói chung [1].
Việc đánh giá sự hài lòng của NB cũng là một trong những nhiệm vụ
cần thực hiện đã được quy định trong Thông tư số 19/2013/TT-BYTngày


2



12/07/2013 về việc hướng dẫn thực hiện quản lý dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh tại bệnh viện do BYT ban hành. Theo đó, các BV sẽ phải triển
khai thực hiện lấy ý kiến và đánh giá sự hài lòng của NB, người nhà NB,
nhân viên y tế đối với BV.
Nhằm đo lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ khám chữa
bệnh giúp các cơ sở y tế đánh giá, nâng cao chất lượng dịch vụ, hướng tới
mục tiêu cao nhất là nâng cao sự hài lòng người dân và nâng cao vị thế, hình
ảnh, uy tín của ngành y tế, chúng tôi tiến hành tiến hành nghiên cứu đề
tài “Khảo sát sự hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Phụ Sản
Trung ương năm 2017” với mục tiêu: Mô tả thực trạng sự hài lòng người
bệnh nội trú tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2017.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Sự hài lòng của người sử dụng dịch vụ y tế
Sự hài lòng của NB là một nội dung quan trọng của chất lượng bệnh
viện nói chung và chất lượng DVYT nói riêng, chỉ số hài lòng của người
bệnh là tiêu chí dùng để đo lường sự đáp ứng của các cơ sở y tế đối với
những mong đợi của người bệnh về các dịch vụ y tế.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về sự hài lòng của khách hàng cũng như
có nhiều tranh luận về định nghĩa này. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự hài
lòng là những kinh nghiệm mà NB đã trải qua sự đánh giá chủ quan của mỗi NB
về mức độ chăm sóc mà họ nhận được so với sự mong đợi của họ hoặc sự thỏa
mãn các mong đợi của NB khi được khám và điều trị tại BV.
Một trong những khái niệm về sự hài lòng đầu tiên được Linder - Pelz

đưa ra vào năm 1982, theo tác giả, sự hài lòng là sự đánh giá tích cực của
mỗi cá nhân trong việc k h á m c h ữ a b ệ n h , ngay cả trong các nghiên cứu
không cần đánh giá sự hài lòng thì thái độ và nhận thức của NB trong chăm
sóc sức khỏe (CSSK) cũng có thể được sử dụng để đánh giá việc tìm kiếm,
phản ứng đối với các cải cách DVYT [1].
Theo Zeithaml & Bitner (2000), “Sự hài lòng của khách hàng là sự
đánh giá của khách hàng về một sản phẩm hay một dịch vụ đã đáp ứng được
nhu cầu và mong đợi của họ”[2].
Theo Kotler (2001), “Sự hài lòng như là một cảm giác hài lòng hoặc
thất vọng của một người bằng kết quả của việc so sánh thực tế nhận được của
sản phẩm (hay kết quả) trong mối liên hệ với những mong đợi của họ” [3].


4

Theo tác giả J.K.Burke năm 2013, “Sự hài lòng của khách hàng (KH)
được sử dụng phổ biến trong việc đo lường chất lượng DVYT và đây như là
một cách thức để đánh giá dịch vụ thông qua đo lường nhận thức của KH”.
Khái niệm này của J.K.Burke đã được nhiều nhà nghiên cứu khẳng định là
phù hợp bởi nó không chỉ mang tính khái quát mà còn thể hiện rõ ràng
chức năng của sự hài lòng KH và đặc tính tự nhiên của khái niệm này dựa
trên “nhận thức của KH” [4]. Như vậy, dù các đối tượng khác nhau thì sự hài
lòng vẫn có các khía cạnh như: khả năng tiếp cận, sự minh bạch thông tin, cơ
sở vật chất trong BV, trình độ chuyên môn của NVYT và kết quả.
Việc đánh giá sự hài lòng của NB trở thành một yếu tố quan
trọng trong việc đánh giá các DVYT. Đánh giá sự hài lòng của NB đối với
các cơ sở y tế được tiến hành nhằm nâng cao chất lượng DVYT.
Ngày 04.6.2015, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã ký Quyết
định số 2151/QĐ-BYT ban hành Kế hoạch “Đổi mới phong cách, thái độ
phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”. Điểm nhấn

trong triển khai thực hiện kế hoạch đổi mới phong cách, thái độ của cán bộ y
tế (CBYT) là Bộ Y tế ban hành bộ tài liệu tập huấn kỹ năng giao tiếp, ứng xử
của CBYT tại các cơ sở y tế. Bộ Y tế cũng cam kết, 100% số CBYT, đặc biệt
là đội ngũ cán bộ hành chính, điều dưỡng viên, nữ hộ sinh, bảo vệ - những
người thường xuyên tiếp xúc với bệnh nhân sẽ được tập huấn về giao tiếp,
ứng xử với người bệnh. Theo đó, các CBYT sẽ được tập huấn cụ thể từ thái
độ, nét mặt, ánh mắt cho đến cách chào hỏi, cách xin lỗi, cách cảm ơn, cách
lắng nghe khi giao tiếp với bệnh nhân trong quá trình tiếp đón, khám và điều
trị. Ngoài ra, Bộ Y tế yêu cầu các bệnh viện phải thành lập các đơn vị chăm
sóc khách hàng; thực hiện quy định về trang phục y tế; duy trì, củng cố hòm
thư góp ý, đường dây nóng; triển khai Đề án Tiếp sức người bệnh; xây dựng


5

phong cách, thái độ phục vụ văn minh, thân thiện, không có tiêu cực. Tất cả
đều không nằm ngoài mục đích đem lại sự hài lòng cho người bệnh.
Tại Hội nghị triển khai kế hoạch và ký cam kết thực hiện “Đổi mới
phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người
bệnh” tại khu vực phía bắc do Bộ Y tế tổ chức vào ngày 14.7.2015, Bộ trưởng
Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã nhấn mạnh tính cấp bách và ý nghĩa quan
trọng của việc đổi mới phong cách, thái độ phục vụ người bệnh của CBYT
trong giai đoạn hiện nay, cấp bách và ý nghĩa quan trọng vì đó là sự đòi hỏi
chính đáng của mọi người dân, một xã hội văn minh và phát triển chỉ khi
người dân có được sự phục vụ tốt của các dịch vụ xã hội, dịch vụ y tế là một
dịch vụ mà mọi người đều cần ở mọi lúc, mọi nơi trong suốt cả cuộc đời. Đó
không chỉ là sự đòi hỏi của người dân mà còn là một yêu cầu sống còn và phát
triển của mỗi cơ sở khám, chữa bệnh trong tiến trình phát triển với chủ trương
hướng tới tự chủ tài chính của các cơ sở khám, chữa bệnh mà Chính phủ đã
đề ra.

1.1.2. Người bệnh nội trú và điều trị nội trú
Người bệnh nội trú (NBNT) là người bệnh được đưa vào bệnh viện
hoặc phòng khám để điều trị đòi hỏi phải có ít nhất một đêm nghỉ điều trị tại
bệnh viện, hoặc một người bệnh đang ở bệnh viện được chăm sóc y tế, hoặc
người bệnh đang cư trú tại bệnh viện nơi NB đang được điều trị.
Điều trị nội trú là điều trị y tế không thể cung cấp cho người bệnh tại
nhà và đòi hỏi người bệnh phải nhập viện. Điều trị nội trú phải được cung cấp
trong cơ sở y tế hoạt động liên tục. Nếu bản chất căn bệnh đòi hỏi phải điều
trị nội trú thì bác sỹ phường hoặc bác sỹ điều trị ngoại trú chuyên khoa sẽ
giới thiệu người bệnh điều trị tại các cơ sở y tế của nhà cung cấp dịch vụ
điều trị nội trú.


6

1.1.3. Sự hài lòng của người bệnh nội trú về chất lượng dịch vụ y tế
Chất lượng nhìn từ góc độ của NB hay khách hàng liên quan đến loại
hình và tính hiệu quả của chăm sóc, có thể chú trọng hơn vào thái độ NVYT,
được tôn trọng, thoải mái, sự sạch sẽ và tính sẵn có của dịch vụ tương
đồng với chi phí.
“Chất lượng là làm việc đúng đắn ngay từ lần đầu tiên và làm điều đó
tốt hơn trong những lần tiếp theo” Người ta thường kỳ vọng người lãnh đạo
phải làm việc đúng đắn ngay từ lần đầu tiên còn nhà quản lý phải làm tốt và
làm đúng điều đúng đắn đó. Một ví dụ trong lĩnh vực y tế là người ta muốn
một bác sĩ phải làm việc tốt, cung cấp chăm sóc sức khoẻ cho người bệnh
bằng cách đặt ra các câu hỏi phù hợp, tiến hành những tìm hiểu cần thiết và
thực hiện đúng quy trình. Song làm như vậy thôi là chưa đủ nếu không đi kèm
với việc là phải làm tất cả những điều đó đúng cách ngay từ nỗ lực đầu tiên.
Nếu quá trình đó lặp lại thì nhà cung cấp dịch vụ trở nên có kinh nghiệm hơn
và do đó sẽ ngày càng trở nên hiệu suất, hiệu quả hơn, tức là cải thiện chất

lượng thường xuyên.
“Chất lượng là sự cải thiện gia tang” Đây là một định nghĩa khá đơn
giản về chất lượng, thế nhưng lại khá rắc rối. Gia tăng có nghĩa là hệ thống có
thể trả lời khẳng định 2 câu hỏi sau đây: Hôm nay bạn có tốt hơn hôm qua
không? Và... Liệu ngày mai bạn có tốt hơn hôm nay không? Để trả lời các câu
hỏi trên không đơn giản, muốn trả lời chính xác thì phải đo lường một cách
chính xác mức độ thực hiện nhiệm vụ của một ai đó trước đây, hiện nay và
tương lai. Vì vậy, đo lường mức độ thực hiện nhiệm vụ rất quan trọng trong
chất lượng và khả năng xác định được biện pháp và cách thức để đo lường
mức độ thực hiện đó một cách đầy đủ và phù hợp cũng quan trọng không
kém. Do đó, cần có một hệ thống thu thập số liệu, phân tích số liệu và báo cáo
số liệu, tất cả đều liên quan đến mức độ thực hiện nhiệm vụ của hệ thống đó.


7

Quy trình này cần phải liên kết với hệ thống thường xuyên giám sát kết quả
thực hiện và thường xuyên nâng cấp khả năng thực hiện của nó. Với những
tiến bộ rất nhanh của công nghệ y tế, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cần phải
được cập nhật với các thông tin y học hiện hành và nhờ vậy bảo đảm cho các
dịch vụ y tế được cung ứng thường xuyên nâng cấp hoạt động của mình.
Những quan điểm sai lầm về chất lượng:
- Chất lượng là thứ xa xỉ. Nếu ta hỏi một người thế nào là một sản
phẩm có chất lượng, thường thì người ta sẽ trả lời đó là một sản phẩm đáng
tin cậy, tiện dụng không gây rắc rối và tiết kiệm. Vì thế trong một tổ chức,
một vật hoặc một sản phẩm dù không hào nhoáng hoặc xa xỉ vẫn là một sản
phẩm có chất lượng.
- Chất lượng là vô hình và không thể đo lường được. Tất nhiên không
phải vậy. Chất lượng có thể đo lường được nếu các tiêu chuẩn và chỉ số liên
quan có thể xác định và theo dõi được. Tổ chức, sản phẩm có sự tuân thủ cao

về tiêu chuẩn được coi là tổ chức, sản phẩm có chất lượng.
- Chất lượng là tốn kém. Hiển nhiên là không phải vậy. Chất lượng có
thể tốn kém hơn khi ta xây dựng cơ sở hạ tầng để hỗ trợ nó nhưng khi đã triển
khai thì chi phí sẽ không tăng mà còn giảm dần trong khi mức độ chất lượng
lại tăng dần. Chất lượng làm giảm hoặc loại bỏ sự lãng phí, sự trùng lặp và sự
lặp đi lặp lại công việc ban đầu.
- Sai sót do lỗi cá nhân. Người ta đã chứng minh những sai lầm do lỗi
hệ thống thường nhiều hơn lỗi do con người. Đã có các nghiên cứu trên thực
tế phỏng đoán rằng 80-85% sai lầm là lỗi hệ thống chứ không phải lỗi của con
người. Phần còn lại là các lỗi từ con người, do môi trường không hỗ trợ cho
sự phát triển và cho việc đạt được kết quả.
- Làm chất lượng là do phòng quản lý chất lượng. Các phòng quản lý
chất lượng cần phải được gắn kết vào các tổ chức. Các phòng này sẽ chỉ chịu


8

trách nhiệm trong việc điều phối, hướng dẫn và thúc đẩy các nỗ lực nâng cao
chất lượng, nhưng không nên là một chủ thể duy nhất thực hiện cải tiến chất
lượng. Nếu không, mọi người sẽ trở nên lệ thuộc vào các bộ phận đó và khiến
chúng trở thành chuyên chế về chất lượng, làm mất đi tính sáng tạo của mối
thành viên của tổ chức đó.
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta biết có rất nhiều hoạt động
trao đổi được gọi chung là dịch vụ. Theo từ điển Tiếng Việt: dịch vụ là công
việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông có tổ
chức và được trả công.
Dịch vụ y tế (DVYT) là một dịch vụ đặc biệt, bao gồm các dịch vụ
được thực hiện bởi NVYT như: khám bệnh, chữa bệnh, phục vụ NB và gia
đình Bệnh viện (hay các cơ sở y tế nói chung) là nơi cung cấp các dịch vụ
đặc biệt này cho xã hội nhưng cũng đồng thời là một tổ chức cần phải hoạt

động có hiệu quả.
Theo Gronroos (1984), chất lượng DVYT là khái niệm rộng,
thường bao gồm hai thành phần: chất lượng kỹ thuật và chất lượng chức
năng. Chất lượng kỹ thuật là sự chính xác trong kỹ thuật chẩn đoán và điều
trị bệnh. Chất lượng chức năng bao gồm cơ sở vật chất của BV, thái độ ứng
xử, trình độ chuyên môn của NVYT, cách tổ chức quy trình khám chữa
bệnh, cách thức BV chăm sóc NB.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về chất lượng DVYT nhưng có
thể hiểu chất lượng dịch vụ y tế tốt là:
- Có hiệu quả, khoa học, việc chăm sóc phải được tiến hành theo các
tiêu chuẩn đã quy định.
- Thích hợp với NB.
- An toàn, không gây biến chứng.


9

- NB tiếp cận được và chấp nhận sự hài lòng, ít tốn kém so với cách
điều trị khác.
NB thường đánh giá một BV có chất lượng khi mà NB được điều trị
khỏi, các NVYT quan tâm, thông cảm và tôn trọng. Trong nghiên cứu của Lý
Thị Ngọc Trinh “Khảo sát sự hài lòng của người bệnh tại khoa khám bệnh
cấp cứu của BV điều dưỡng và phục hồi chức năng tỉnh Đồng Tháp năm
2009”, sự hài lòng của NB gồm các yếu tố:
- Hữu hình: tình trạng vệ sinh môi trường trong BV, trang phục và thái
độ của NVYT trong giao tiếp, trang thiết bị máy móc.
- Sự tin tưởng: là sự tin tưởng vào kết quả chẩn đoán và điều trị chính
xác, chi phí khám chữa bệnh rõ ràng, minh bạch, thông tin đầy đủ về tình
trạng bệnh tật, sự tin tưởng vào phương pháp chẩn đoán và điều trị.
- Sự đáp ứng: là sự sẵn sàng giúp đỡ và cung cấp các DV một cách

nhanh chóng cho NB.
- Sự cảm thông mà mức độ quan tâm, chăm sóc cho NB. Sự cảm thông
bao gồm một số yếu tố như: khả năng tiếp cận, sự nhạy cảm, những hiểu biết
về nhu cầu NB, thời gian KCB được bố trí phù hợp, thuận tiện cho NB [20].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá sự hài lòng của người bệnh
nội trú đối với các DVYT của BV thông qua các khía cạnh.
- Khả năng tiếp cận: sự hài lòng của NB khi tiếp cận với các DVYT, về
các biển báo chỉ dẫn đường, về thời gian chờ đợi làm thủ tục khám chữa bệnh.
- Sự minh bạch thông tin và thủ tục khám bệnh, điều trị: sự minh bạch
thông tin về giá DVYT, thông tin về bệnh tật, phương pháp điều trị cho NB.
- Cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ người bệnh: sự hài lòng
của NB đối với cơ ở hạ tầng, trang thiết bị, trang phục NB, sự bố trí sắp xếp
giường bệnh, môi trường cảnh quan BV.


10

- Thái độ ứng xử và năng lực chuyên môn của NVYT: sự ân cần, tôn
trọng của bác sỹ, điều dưỡng, nhân viên hành chính, nhân viên bảo vệ.
- Kết quả cung cấp dịch vụ: sự hài lòng của NB về kết quả điều trị
tại BV và các chi phí khám chữa bệnh.
1.2. Một số thông tin về Bệnh viện Phụ Sản Trung ương
Dưới thời Pháp thuộc, khu vực bệnh viện hiện nay là một nhà tu, sau là
nhà thương Võ Tánh. Hoà bình lập lại, nhà thương được tu sửa lại làm nơi
khám, chữa bệnh cho cán bộ, công nhân viên chức các cơ quan trung ương.
Ngày 19/7/1955, bác sĩ Hoàng Tích Trí, Bộ Trưởng Bộ Y tế ký Nghị định
615-ZYO/NĐ/3A quy định tổ chức các cơ quan kế cận và trực thuộc Bộ,
chính thức thành lập bệnh viện “C” đặt nền móng đầu tiên cho bệnh viện Phụ
- Sản Trung ương ngày nay. Ngày 08/11/1960, Bộ Y tế lại có QĐ 708/BYT
sửa đổi, tổ chức lại bệnh viện “C” theo hướng chuyên khoa phụ sản. Trước sự

phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và nhu cầu khám, chữa bệnh của
nhân dân, ngày 14/5/1966 Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã ký Quyết
định số 88/CP đổi tên bệnh viện “C” thành Viện Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ sơ sinh.
Lần đầu tiên tại Việt Nam có một Viện chuyên ngành nghiên cứu tình trạng
sinh lý, bệnh lý của phụ nữ, của các bà mẹ và trẻ sơ sinh, hướng tới mục
tiêu “Bảo vệ tốt sức khoẻ phụ nữ, các bà mẹ và trẻ sơ sinh, góp phần vào việc
giải phóng phụ nữ, phát triển sản xuất, bảo vệ thế hệ tương lai của Tổ quốc”.
Đến năm 2003, nhu cầu được chăm sóc sức khỏe sinh sản, khám bệnh, chữa
bệnh của nhân dân ngày một lớn, đòi hỏi phải có sự chuyển đổi cả về tính
chất, quy mô của Viện. Ngày 18/6/2003 Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký Quyết định
2212/QĐ-BYT đổi tên Viện Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ sơ sinh thành bệnh viện Phụ
- Sản Trung ương trực thuộc Bộ Y tế, tiếp tục thực hiện những chức năng,
nhiệm vụ trước đây của Viện Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ sơ sinh với những đòi hỏi
cao hơn đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ khám, chữa bệnh trong tình hình mới.


11

Bệnh viện có quy mô 1010 giường bệnh nội trú; 08 phòng chức năng;
14 khoa lâm sàng; 09 khoa cận lâm sàng; 07 trung tâm. Bệnh viện có bề dày
truyền thống lịch sử, có đội ngũ giáo sư, bác sĩ được đào tạo cơ bản ở trong
nước và được học tập nâng cao tay nghề ở các nước tiên tiến có ngành sản
phụ khoa và chăm sóc sức khỏe sinh sản phát triển (Châu Âu, Hoa Kỳ , Nhật
Bản, Úc ...) có tay nghề cao, được rèn luyện trong thực tế, tâm huyết với nghề
nghiệp. Hệ thống trang thiết bị phục vụ khám bệnh, chữa bệnh của bệnh viện
được đầu tư theo hướng hiện đại, chuyên sâu. Trong những năm qua, cán bộ
viên chức bệnh viện luôn tự hào trong bất kỳ hoàn cảnh nào những người thầy
thuốc bệnh viện Phụ - Sản Trung ương luôn giữ vững phẩm chất tốt đẹp của
người cán bộ y tế, trau dồi y đức, tận tuỵ phục vụ người bệnh.
1.3. Các quyết định, quy tắc, chỉ thị của Bộ y tế về quy tắc ứng xử của

nhân viên y tế cho các bệnh viện
Năm 1996, Bộ Trưởng Bộ Y Tế có ban hành quyết định 2088/BYT-QĐL
“Quy định về y đức”- (tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế).
Năm 2001, Bộ trưởng Bộ Y ban hành kèm theo Quyết định số: 4031/
2001/ QÐ-BYT về “Quy định về chế độ giao tiếp trong các cơ sở khám chữa
bệnh”.
Năm 2008, Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành kèm theo Quyết định số:
29/2008/QĐ-BYT về việc ban hành “Quy tắc ứng xử của cán bộ, viên chức
trong các đơn vị sự nghiệp y tế”.
Tháng 4/2013, Bộ Y tế ban hành chỉ thị số 03/CT-BYT về việc “Tăng
cường các giải pháp thực hiện tốt quy tắc ứng xử, nâng cao đạo đức nghề
nghiệp, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tại các cơ sở
khám, chữa bệnh”.


12

Quyết định số 2151/QĐ-BYT, ngày 04/6/2015 Về việc phê duyệt Kế
hoạch triển khai thực hiện “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y
tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”.
“Hướng dẫn tổ chức, phương pháp khảo sát hài lòng người bệnh và
nhân viên y tế các mẫu phiếu 1,2,3”. Phụ lục II ban hành kèm quyết định số
6859/ QĐ-BYT ngày 18/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
1.4. Hướng dẫn tổ chức, phương pháp khảo sát hài lòng người bệnh nội
trú và nhân viên y tế theo quy định của Bộ y tế
1.4.1. Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú
1.4.1.1. Mục tiêu chung
Xác định những vấn đề người bệnh chưa hài lòng khi điều trị tại bệnh
viện để tiến hành cải tiến chất lượng, từng bước phục vụ người bệnh tốt hơn,
đáp ứng sự hài lòng và mong đợi của người bệnh.

1.4.1.2. Yêu cầu
1. Bảo đảm tính khách quan, trung thực khi tiến hành khảo sát.
2. Xác định được những vấn đề người bệnh chưa hài lòng.
3. So sánh được mức độ hài lòng giữa các đối tượng người bệnh khác
nhau, điều trị tại các khoa khác nhau.
4. Sử dụng kết quả khảo sát để tiến hành cải tiến chất lượng bệnh viện.
5. Theo dõi liên tục sự hài lòng người bệnh để liên tục cải tiến chất
lượng.
1.4.1.3. Phương pháp khảo sát đối với bệnh viện tự thực hiện
Thiết kế nghiên cứu: Điều tra cắt ngang
Chu kỳ khảo sát: Ít nhất 3 tháng 1 lần
Thời gian khảo sát: Tùy theo quy mô của bệnh viện, đội khảo sát hài
lòng người bệnh có thể lựa chọn thời gian khảo sát như sau:


13

+ Trong 1, 2 hoặc ngày trong tuần (các ngày trong tuần, trừ thứ 2 và thứ
6).
+ Trong 1 tuần, 2 tuần hoặc trong 1 tháng (cho đến khi đủ cỡ mẫu theo
yêu cầu).
Cỡ mẫu:
1. Đối với bệnh viện có lượng người bệnh nội trú trên 1000 lượt/ngày,
áp dụng công thức tính cỡ mẫu điều tra cắt ngang, mỗi đợt khảo sát tối thiểu
200 người bệnh.
2. Đối với bệnh viện có lượng người bệnh nội trú dưới 1000 lượt/ngày,
mỗi đợt khảo sát tối thiểu 100 người bệnh.
3. Đối với bệnh viện có lượng người bệnh nội trú dưới 100 lượt/tháng,
khảo sát toàn bộ người bệnh nội trú trong vòng 1 tháng.
Phương pháp chọn mẫu

Để bảo đảm tính ngẫu nhiên, đại diện, đồng thời giúp bệnh viện xác
định những vấn đề người bệnh chưa hài lòng, việc chọn mẫu thực hiện như
sau:
1. Đối với bệnh viện có lượng người bệnh nội trú trên 1000 lượt/ngày:
Mỗi đợt khảo sát chọn tối thiểu 3 khoa lâm sàng, trong đó có 1 khoa có
công suất sử dụng giường bệnh cao, 1 khoa trung bình và 1 khoa thấp. Các
đợt khảo sát tiếp theo chọn lần lượt các khoa khác. Nếu bệnh viện có khoa
dịch vụ hoặc đối tượng người bệnh điều trị theo yêu cầu thì cũng được chọn
khảo sát theo trình tự.
Trong mỗi khoa, chọn người bệnh theo phương pháp như sau:
+ Lấy danh sách người bệnh đang nằm điều trị (bằng phần mềm hoặc
bằng sổ).
+ Chọn tên người bệnh theo chữ cái đầu của tên. Trong 1 ngày có thể
chọn 1, 2, 3... chữ cái tùy số lượng người bệnh nằm điều trị, nhưng cần bảo


14

đảm toàn bộ người bệnh có cùng chữ cái đầu của tên đều được được vào danh
sách. Ví dụ trong 1 ngày khảo sát chọn chữ cái H cần bảo đảm toàn bộ người
bệnh có tên Hà, Hạnh, Hân, Hùng, Hoàng... đều được đưa vào danh sách.
+ Trong danh sách đã lập, chọn người bệnh chuẩn bị xuất viện trong 1,
2 ngày tới (trường hợp không đủ số lượng người bệnh có thể lấy thêm những
người đã nằm điều trị từ ít nhất 3 ngày trở lên); loại những người mới nằm
viện 1, 2 ngày, những người không thể trả lời... (do bệnh viện quyết định).
+ Tiến hành khảo sát cho đủ 200 người bệnh.
- Lưu ý: Bệnh viện cần lập kế hoạch thời gian tiến hành các đợt khảo
sát, tên khoa khảo sát và tên chữ cái đầu tiên sẽ chọn trong các đợt
khảo sát trong năm tiếp theo.
2. Đối với bệnh viện có lượng người bệnh nội trú dưới 1000 lượt/ngày,

chọn mẫu tương tự cho đủ 100 người bệnh.
3. Đối với bệnh viện có lượng người bệnh nội trú dưới 100 lượt/tháng,
chọn mẫu khảo sát toàn bộ người bệnh nội trú trong vòng 1 tháng hoặc cho
đến khi đủ 100 phiếu, tùy điều kiện nào đến trước.
Khảo sát viên
1. Học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng y, dược.
2. Tình nguyện viên.
3. Người bệnh tự điền phiếu (sau khi được hướng dẫn).
1.5. Tình hình nghiên cứu về hài lòng người bệnh
1.5.1. Các nghiên cứu quốc tế
Trong nghiên cứu của tác giả Linder - Pelz năm 1982 cho rằng, sự hài
lòng của KH là “sự đánh giá tích cực của cá nhân đối với các khía cạnh khác
nhau trong việc chăm sóc DVYT”. Tác giả cho rằng, ngay cả trong những
nghiên cứu không nhằm đánh giá sự hài lòng thì thái độ và nhận thức của KH
trong chăm sóc cũng có thể được sử dụng để đánh giá sự tìm kiếm và phản


15

ứng đối với việc chăm sóc. Tác giả cho rằng việc đánh giá sự chăm sóc y tế sẽ
không toàn diện nếu không đề cập tới khía cạnh “không hài lòng” từ phía KH
[1].
Nghiên cứu của Mubondwa và cộng sự (2008) tại Bệnh viện quốc tế
Muhimbili tại Tanzania trên 2582 bệnh nhân (nội trú và ngoại trú) cho
thấy hầu hết hài lòng với dịch vụ y tế mà họ nhận được tại bệnh viện
Muhimbili. Những yếu tố KH không hài lòng nhất đó là thời gian chờ đợi,
phí dịch vụ và thái độ của nhân viên y tế với KH [5].
Trong luận án tiến sỹ của Anna Maria Murante năm 2010 nghiên
cứu về vai trò sự hài lòng của khách hàng trong quản lý DVYT. Nghiên cứu
này chủ yếu đề cập đến các cuộc điều tra, trải nghiệm của khách hàng và các

yếu tố quyết định sự hài lòng của khách hàng đã được tiến hành ở khu vực
Tuscany. Đây là nguồn dữ liệu có giá trị để cải thiện sức khỏe của khách
hàng và chất lượng DV, để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và để đạt
được mục tiêu chính của của cả hệ thống chăm sóc y tế [6].
1.5.2. Các nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam đã có rất nhiều các nghiên cứu đánh giá sự hài lòng của
người bệnh nhằm đánh giá và đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao
chất lượng dịch vụ y tế.
Tác giả Nguyễn Thị Hồng Thái nghiên cứu sự hài lòng trên 500
người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh viện Phổi Trung ương năm 2009. Kết
quả cho thấy có 91% NB hài lòng chung đối với bệnh viện, 96% hài lòng về
khoa Khám bệnh, 92% hài lòng về khoa điều trị, 90% hài lòng về khoa Cận
lâm sàng. Các yếu tố chủ yếu làm giảm sự hài lòng của NB đó là giường nằm
không đủ, thái độ và sự quan tâm của NVYT đối với NB chưa tốt, thủ tục từ
khi vào khám đến khi nhập viện điều trị nhiều công đoạn và tốn thời gian, còn


16

thiếu khu vệ sinh, tình trạng an ninh trật tự chưa đảm bảo, trang thiết bị chưa
tốt, CSYT chưa đáp ứng nhu cầu NB [7].
Trong nghiên cứu về sự hài lòng của tác giả Bùi Dương Vân năm
2011 trên 216 người nhập viện tại Bệnh viện Phổi Trung ương. Kết quả nghiên
cứu cho thấy tỷ lệ hài lòng của KH về chi phí khám bệnh và sự thuận tiện
khám bệnh là cao nhất (57,4% và 54,2%), tiếp đến là tỷ lệ hài lòng về thái độ,
hướng dẫn của NVYT và CSVC phục vụ khám bệnh (43,5% và 43,1%), cuối
cùng thấp nhất là tỷ lệ hài lòng về thời gian chờ đợi khám bệnh (20,4%) [8].
Nghiên cứu của Nguyễn Đức Thành và cộng sự năm 2006 về sự hài
lòng của KH điều trị nội trú về chất lượng chăm sóc sức khỏe tại các
bệnh viện Hòa Bình đã cho thấy khía cạnh tiếp cận dịch vụ với yếu tố thời

gian chờ đợi là cao nhất với điểm trung bình là 3,84 và 3,95; khía cạnh
giao tiếp với yếu tố nhân viên cũng tương đối cao với điểm trung bình từ
3,47 đến 3,86; khía cạnh các vật thể hữu hình với yếu tố cơ sở vật chất/trang
thiết bị có điểm trung bình thấp nhất từ 2,67 đến 3,61 cho thấy KH không hài
lòng nhất; khía cạnh kết quả CSSK có điểm hài lòng cũng tương đối cao với
điểm trung bình từ 3,51 đến 3,81. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của
KH cho thấy hiệu quả điều trị là yếu tố tác động nhiều nhất tới điểm trung
bình hài lòng về chất lượng CSSK; trình độ học vấn cũng là yếu tố tác động
thứ hai tới điểm trung bình hài lòng về chất lượng CSSK. Các yếu tố liên
quan được phân tích, giải thích 17,1% sự biến thiên về điểm trung bình hài
lòng chất lượng CSSK [9].
Trong một nghiên cứu khác của Nguyễn Thị Thu Thủy năm 2005
nghiên cứu 650 KH đang nằm điều trị tại bệnh viện Hòa Thành, Tây Ninh,
kết quả cho thấy có 82,16% NB thấy hài lòng khi đến khám và điều trị tại
đây. Trong đó có 81,4% NB hài lòng vì được nhân viên y tế chăm sóc tận
tình; 70,3% cho rằng giá dịch vụ y tế ở đây là phù hợp với họ. Tuy nhiên,


17

cũng có 5,08 % NB đề nghị bệnh viện làm rõ các bảng chỉ dẫn đến các khoa
phòng để tiện việc đến khám, thăm nuôi và 8,46% đề nghị phải tăng cường vệ
sinh công cộng, cải tiến hệ thống thoát nước bệnh viện tốt hơn, trang bị
thêm quạt tại các phòng bệnh để đủ mát trong mùa hè [10].
Nghiên cứu của Phan Thị Thanh Thủy và cộng sự (2012) tại bệnh
viện Nam Đông tỉnh Thừa Thiên Huế trên 446 bệnh nhân nội trú cho thấy
tỷ lệ hài lòng của khách hàng về nhân viên y tế chăm sóc tận tình, không có
biểu hiện ban ơn, gợi ý tiền quà và bác sỹ giải thích về tình trạng bệnh,
chẩn đoán, phương pháp điều trị là cao nhất với tỷ lệ 98,21% và 95,96%. Bên
cạnh đó vẫn còn 36,32% khách hàng chưa hài lòng về trang thiết bị y tế và

15,70% khách hàng chưa hài lòng về thời gian làm thủ tục hành chính và cho
rằng có nhiều thủ tục phiền hà [11].
Trong nghiên cứu về sự hài lòng của người bệnh, người nhà người
bệnh điều trị nội trú tại bệnh viện Vạn Ninh năm 2011 của Phạm Thị Tân Mỹ
và cộng sự cho thấy mức độ hài lòng chung của người bệnh, người nhà người
bệnh chiếm 89,74%. Trong đó NVYT tận tình giúp đỡ NB, không có
biểu hiện ban ơn, gợi ý tiền quà và hợp tác tốt với nhau trong quá trình điều
trị, chăm sóc NB được đánh giá cao nhất 97,86%. Mức độ hài lòng của NB
thấp nhất là sự phổ biến về nội quy và những thông tin cần thiết khi vào
viện và trong quá trình điều trị đạt 81,2% [12].
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Ly năm 2007 về khảo sát sự hài lòng
của NB điều trị nội trú tại các BV tỉnh Hải Dương cho thấy sự hài lòng của
người bệnh đối với bác sỹ tương đối cao so với sự hài lòng của NB đối
với thái độ phục vụ của điều dưỡng và thời gian chờ đợi KCB. Tỷ lệ người
đăng ký khám chữa bệnh và chờ được khám với thời gian 15 đến 30 phút
chiếm tỷ lệ cao 93% và thời gian chờ trên 60 phút là 1,5% [13].


18

Nghiên cứu của Phạm Nhật Yên đánh giá sự hài lòng của NB về
chất lượng KCB theo yêu cầu của BV Bạch Mai năm 2008 cho thấy tỷ lệ hài
lòng của NB khá cao, tỷ lệ người bệnh hài lòng với khả năng tiếp cận DVYT
là 30,1%; cơ sở vật chất, Trang thiết bị, dụng cụ y tế là 53,1%; giao tiếp,
tương tác với NVYT là 83,7%; giao tiếp và tương tác với bác sỹ là 81,3%, kết
quả chăm sóc sức khỏe là 69,8% và tỷ lệ hài lòng chung với chất lượng DV
khám chữa bệnh chung là 91,7% [14].
Nghiên cứu của Hà Thị Soạn năm 2007 tại Phú Thọ cho thấy điều làm
người bệnh hài lòng là tinh thần thái độ phục vụ của các nhân viên y tế trong
bệnh viện chiếm tỷ lệ trên 90%. Nghiên cứu của Trần Thị Kim Liên và cộng sự

tại bệnh viện Tim Hà Nội (2010) cho thấy việc hướng dẫn thủ tục của nhân
viên đón tiếp tại Khoa Khám bệnh như sau: tốt 55%; khá 31,4%; trung bình
12,7%; lời nói thiếu lịch sự, hoặc thể hiện sự gợi ý tiền quà biếu tại khoa
khám bệnh chiếm 5,5% [15].
Nghiên cứu tại bệnh viện E năm 2012 cho thấy: tỷ lệ đón tiếp không
niềm nở của nhân viên y tế là 2%; niềm nở 97%; giải thích đầy đủ bệnh và
phương pháp điều trị là 96%; hướng dẫn sử dụng thuốc là 98,3% và không
hướng dẫn là 1,4%; thời gian chờ đợi quá lâu chiếm tỷ lệ 10,6%.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự không hài lòng của bệnh nhân, theo
nghiên cứu của Chu Văn Long và cộng sự, lý do không hài lòng là: 19,2%
phải chờ đợi quá lâu; 6,2% cán bộ phục vụ người bệnh không lịch sự, thân
thiện. Sự chưa hài lòng tại bệnh viện đạt 12%. Lý do chưa hài lòng cao nhất:
thái độ phục vụ nhân viên y tế với 55,2%; tiếp đến là bệnh nhân quá tải
53,7%; thủ tục hành chính là 37,3%. Đối tượng kém hài lòng chiếm tỷ lệ cao
nhất: hộ lý 50%; điều dưỡng 43,5%; bác sỹ 15,2% [16].
Theo khảo sát của đề án áp dụng TQM (Total Quality Manager) cải
thiện chất lượng bệnh viện: “Đánh giá và can thiệp thái độ phục vụ của nhân


19

viên y tế đối với người bệnh tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương năm 2014”
cho thấy tỷ lệ hài lòng của người bệnh đối với bác sỹ là 80,3%; điều dưỡng,
nữ hộ sinh là 71,6%; kỹ thuật viên lấy máu là 48,6%, nhân viên tài chính là
39%, hộ lý là 62%. Kết quả trên cho thấy tỷ lệ hài lòng của người bệnh đối
với kỹ thuật viên xét nghiệm và nhân viên Tài chính kế toán của bệnh viện là
chưa cao, nhân được rất nhiều lời phàn nàn từ người bệnh [17].


20


Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Tuổi: từ 18 tuổi trở lên.
- Nằm điều trị nội trú tại bệnh viện và chuẩn bị làm thủ tục xuất viện.
- Không có các dấu hiệu của tổn thương về mặt tinh thần, nhận thức
được ảnh hưởng của việc trả lời hoàn thiện bộ câu hỏi.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ:
Những người không đồng ý tham gia vào nghiên cứu sau khi được
giải thích rõ mục tiêu và mục đích của nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.3. Cỡ mẫu nghiên cứu
Theo “Hướng dẫn tổ chức, phương pháp khảo sát hài lòng người bệnh
và nhân viên y tế các mẫu phiếu 1,2,3”. Phụ lục II ban hành kèm quyết định
số 6859/ QĐ-BYT ngày 18/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Cỡ mẫu khi khảo
sát hài lòng người bệnh nội trú với các Bệnh viện có số lượng bệnh nhân nội
trú trong ngày trên 1000 người bệnh thì ít nhất là 200 người bệnh, trong
nghiên cứu này chúng tôi phỏng vấn 308 NB.
2.4. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 4/2017 đến tháng 9/2017.
2.5. Tiến hành thu nhận đối tượng
- Chọn bệnh nhân hoặc người nhà của bệnh nhân điều trị nội trú tại các
khoa Sản Bệnh lý, Sản thường, Sản Nhiễm khuẩn, Phụ Ngoại, Phụ Ung thư,


21


Phụ Nội tiết, Khoa hồi cức cấp cứu, Trung tâm sàn chậu, Điều trị theo yêu
cầu.
- Số lượng bệnh nhân tại các khoa như sau:
Tên khoa
Số lượng
Sản bệnh lý
62
Sản thường
66
Sản nhiễm khuẩn
20
Phụ ngoại
52
Phụ nội tiết
19
- NB sau khi hoàn tất thủ tục

Tên khoa
Phụ ung thư
Trung tâm Sàn chậu
Hồi sức cấp cứu
Điều trị theo yêu cầu

Số lượng
30
12
13
35


ra viện được mời tham gia nghiên cứu

bằng bộ câu hỏi có sẵn.
2.6. Thu thập và phân tích số liệu
2.6.1. Bộ công cụ thu thập thông tin
Sử dụng bộ công cụ theo hướng dẫn của Bộ Y tế, có chỉnh sửa cho phù
hợp với mục tiêu nghiên cứu (xin xem phụ lục bộ câu hỏi). Chúng tôi khai
thác thông tin 3 phần chính: Phần 1 thu thập thông tin về đặc điểm chung
của người bệnh (tuổi, giới, học vấn, nghề nghiệp…). Phần 2 thu thập thông
tin liên quan đến mức độ hài lòng của người bệnh khi sử dụng dịch vụ y tế
gồm 5 lĩnh vực:
- Về khả năng tiếp cận: 5 tiểu mục.
- Về sự minh bạch thông tin về thủ tục khám bệnh, điều trị: 5 tiểu mục.
- Về cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ người bệnh: 9 tiểu mục.
- Về thái độ ứng xử và năng lực chuyên môn của nhân viên y tế: 7 tiểu
mục.
- Về kết quả cung cấp dịch vụ: 5 tiểu mục.
Phần 3 thu thập thông tin liên quan đến trải nghiệm thực tế của
người bệnh trong quá trình điều trị tại bệnh viện.
Chất lượng dịch vụ y tế sử dụng thang đo mức độ hài lòng của NB đối
với chất lượng chăm sóc sức khỏe theo hướng dẫn của Bộ Y tế với các mức


22

độ từ 1 “rất không hài lòng”, 2 “không hài lòng”, 3 “bình thường”, 4
“hài lòng” và 5 “rất hài lòng”.
Cách tính điểm
- Các lựa chọn của người bệnh từ 1 đến 5 được tính điểm tương ứng từ
1 đến 5.

- Điểm trung bình của mỗi nhóm bằng tổng số điểm của nhóm trong tất
cả các mẫu phiếu khảo sát.
- Điểm trung bình chung bằng tổng số điểm của phiếu trong tất cả các
mẫu phiếu khảo sát.
Chỉ số đánh giá hài lòng
- Chỉ số hài lòng được quy đổi thành điểm số: Rất không hài lòng = 1;
Không hài lòng = 2; Bình thường = 3; Hài lòng = 4; Rất hài lòng = 5.
- Điểm hài lòng chung = tổng điểm/tổng số câu hỏi.
- Điểm hài lòng cho từng nhóm = tổng điểm từng nhóm/tổng số câu hỏi
của mỗi nhóm.
- Có thể tính các chỉ số khác: tỉ lệ người bệnh hài lòng với từng vấn đề
(bằng tổng số phiếu nhận xét điểm 4, 5 trên tổng số phiếu khảo sát).
Tỉ lệ đáp ứng so với mong đợi...

2.6.2. Kỹ thuật thu thập số liệu


23

Số liệu sẽ được thu thập bằng phương pháp tự điền đối với người
bệnh và người nhà NB nội trú sử dụng dịch vụ thông qua bộ câu hỏi thiết kế
sẵn.
2.6.3. Xử lý số liệu
Số liệu được nhập bằng phần mềm EPI DATA 2.0 và xử lý bằng phần
mềm SPSS 17.0.
2.7. Đạo đức trong nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được giải thích về mục đích và nội dung của
nghiên cứu trước khi tiến hành phỏng vấn và chỉ được tiến hành khi có
sự chấp nhận tham gia của đối tượng nghiên cứu.
Mọi thông tin cá nhân về đối tượng nghiên cứu phải được giữ kín.

Các số liệu, thông tin thu thập chỉ được phục vụ cho mục đích nghiên cứu,
không được phục vụ cho mục đích nào khác.
Nghiên cứu chỉ được tiến hành sau khi được Hội đồng khoa học bệnh
viện thông qua.
Nội dung nghiên cứu phù hợp, được Ban Giám đốc BV quan tâm và
ủng hộ.
Sử dụng bộ câu hỏi đánh giá sự hài lòng của người bệnh nội trú của
Cục Quản lý Khám, chữa bệnh.


24

Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thông tin chung về người bệnh nội trú
Bảng 3.1. Thông tin chung về người bệnh nội trú
Thông tin

Người bệnh nội trú
Số người
Tỷ lệ (%)

Nhóm tuổi
18 - 29
150
48,7
30 - 49
144
46,8
≥ 50

14
4,5
Địa chỉ
Hà Nội
131
42,5
Nơi khác
177
57,5
Nghề nghiệp
Cán bộ viên chức
64
20,8
Nhân viên văn phòng
82
26,6
Công nhân
26
8,4
Nông dân
21
6,8
Kinh doanh/buôn bán
19
6,2
Tự do
96
31,2
Trình độ học vấn cao nhất
Trung học cơ sở

29
9,4
Trung học phổ thông
112
36,4
Trung cấp
20
6,5
Cao đẳng
133
43,2
Đại học, sau đại học
14
4,5
Sử dụng thẻ bảo hiểm y tế

249
80,8
Không
59
18,8
Nhận xét: độ tuổi của người bệnh nằm nội trú trong độ tuổi 18 - 49 chiếm tỷ
lệ 95,5%. Người bệnh nội trú có sử dụng thẻ thẻ bảo hiểm y tế đạt 80,8%.
Nghề nghiệp tự do chiếm tỷ lệ cao nhất là 31,4%, kế đến là nhân viên văn
phòng 26,6%. Trình độ cao đẳng chiếm tỷ lệ cao nhất là 43,2%.
Bảng 3.2. Thông tin chung liên quan đến điều trị của người bệnh
Thông tin

Người bệnh nội trú



25

Phẫu thuật

Không
Số lần nằm viện
1 lần
2 lần
≥ 3 lần
Khám cấp cứu

Không

Số người

Tỷ lệ (%)

163
145

52.9
47.1

230
57
21

74.7
18.5

6,8

167
141

54.2
45.8

Nhận xét: có 52,% người bệnh nội trú là có phẫu thuật, 74,7% người bệnh điều
trị nội trú lần đầu tại bệnh viện Phụ sản Trung ương, 54,2 % người bệnh nội trú
khám cấp cứu.


×