Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, X QUANG VÀ MÔ BỆNH HỌC CỦA CÁC U DO RĂNG LÀNH TÍNH THƯỜNG GẶP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.46 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
-----***-----

NGUYỄN THỊ NGỌC

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG,
X QUANG VÀ MÔ BỆNH HỌC CỦA CÁC U
DO RĂNG LÀNH TÍNH THƯỜNG GẶP
Chuyên ngành : Giải phẫu bệnh
Mã số

: 62720102

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. LÊ VĂN SƠN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn thạc sỹ này tôi xin được bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc tới:
Ban Giám Hiệu, phòng Đào tạo sau đại học, phòng Quản lý sau đại học
Trường Đại học Y Hà Nội, các thầy cô, anh chị cán bộ Bộ môn Giải phẫu
bệnh - Trường Đại học Y Hà Nội đã dạy bảo, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận


lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập nội trú và hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Lê Văn Sơn và ThS. Trần
Đức Hưởng, những người thầy trực tiếp hướng dẫn, đã dành nhiều tâm sức, tận
tình chỉ bảo, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban lãnh đạo cùng tập thể Khoa
Giải phẫu bệnh - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Ban lãnh đạo cùng tập thể
khoa Giải phẫu bệnh - Bệnh viện K, Ban lãnh đạo cùng tập thể khoa Giải
phẫu bệnh - Bệnh viện Việt Đức đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi học tập,
nghiên cứu trong thời gian tôi học nội trú.
Tôi xin cảm ơn những bệnh nhân - những người Thầy đã cung cấp cho
tôi những kiến thức từ chính những bất hạnh về bệnh tật của họ.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể bạn bè, các anh chị em
học viên nội trú, cao học, những người đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và cũng như quá trình làm khóa luận này.
Con vô cùng biết ơn công sinh thành nuôi dưỡng của bố mẹ, cảm ơn bố
mẹ luôn luôn ủng hộ và sát cánh bên con trong suốt sự nghiệp học tập.
Cuối cùng, tôi muốn nói lời cảm ơn đến chồng của tôi, người luôn yêu
thương, sát cánh cùng tôi vượt qua những khó khăn trong học tập cũng như
trong cuộc sống.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 6 tháng 9 năm 2017
Nguyễn Thị Ngọc


LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Nguyễn Thị Ngọc, học viên bác sĩ nội trú khóa 40 Trường Đại
học Y Hà Nội, chuyên ngành Giải phẫu bệnh, xin cam đoan:
1.


Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện, dưới sự hướng

2.

dẫn của Thầy Lê Văn Sơn và Thầy Trần Đức Hưởng.
Công trình nghiên cứu này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu

3.

nào khác đã được công bố ở Việt Nam.
Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở
nơi nghiên cứu.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 6 tháng 9 năm 2017
Người viết cam đoan

Nguyễn Thị Ngọc

MỤC LỤC



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BN
CCOT
CS
KCOT
MBH


Bệnh nhân
Calcifying cystic odontogenic tumour
Cộng sự
Keratinizing Cystic Odontogenic Tumour
Mô bệnh học

OT
NBM
XHD

Odontogenic Tumor
Nguyên bào men
Xương hàm dưới

XHT

Xương hàm trên

DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC HÌNH

DANH MỤC ẢNH


7


ĐẶT VẤN ĐỀ
U do răng (Odontogenic Tumour - OT) là những tổn thương phát sinh
từ thành phần biểu mô, ngoại trung mô hoặc trung mô của cơ quan hình thành
răng hoặc phần còn sót lại của chúng. U do răng có thể chỉ là sự tăng sinh quá
mức, không có tính tự động và trưởng thành tại vị trí bình thường
(hamatomatous proliferation) nhưng cũng có thể là những u lành tính hoặc u ác
tính với tiềm năng xâm lấn và di căn khác nhau [1],[2],[3],[4],[5],[6]. Các tổn
thương này chủ yếu nằm ở trong xương hàm - thể trung tâm/ trong xương,
nhưng cũng có khi tìm thấy ở phần mềm như lợi, niêm mạc miệng, gọi là thể
ngoại vi/ ngoài xương.
U do răng tương đối hiếm gặp, chiếm 2- 3% các u vùng miệng và
xương hàm [7]. U do răng bao gồm nhiều loại tổn thương, cả lành tính và ác
tính, trong đó hơn 90% là lành tính [2],[3],[8],[9]. Triệu chứng lâm sàng của
chúng khá giống nhau và không đặc trưng: với các u lành phát triển chậm,
giai đoạn đầu, khi u nhỏ, rất ít hoặc hầu như không gây ra bất cứ khó chịu nào
cho bệnh nhân (BN). Do vậy, người bệnh thường tình cờ được phát hiện sau
khi chụp phim X quang. Ở giai đoạn sau, khi khối u đã phát triển to nó thường
gây các triệu chứng rõ rêt như đau, dị cảm, xô lệch, lung lay răng, gây sưng
phồng, biến dạng mặt, ảnh hưởng đến chức năng và thẩm mỹ. Ngược lại, các
tổn thương ác tính thì đau thường là triệu chứng đầu tiên, tuy nhiên chúng
cũng thường bị bỏ qua do BN nhầm lẫn với các bệnh trong miệng hay gặp
khác cũng gây đau như biến chứng mọc răng 8, loét apthus,…Vì vậy, BN
thường đến khám ở giai đoạn muộn [2].
X quang là chỉ định của tất cả các tổn thương có nghi ngờ là u do răng.
Việc phân tích kỹ lưỡng các đặc điểm hình ảnh trên phim X quang có thể gợi


8


ý cho việc xác định bản chất khối u, tính chất lành ác và định hướng điều trị.
Tuy vậy, các dấu hiệu về lâm sàng, X quang chỉ có tính chất định hướng, việc
chẩn đoán xác định vẫn phải dựa vào chẩn đoán mô bệnh học.
Ở Việt Nam các nghiên cứu về u do răng chưa nhiều và gần như chưa
có công trình nghiên cứu nào về đặc điểm mô bệnh học của chúng. Vì vậy, tôi
thực hiện đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, X quang và mô
bệnh học của các u do răng lành tính thường gặp ” với 02 mục tiêu:
1, Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, X quang và mô bệnh học các
u do răng lành tính thường gặp.
2, Đánh giá mối liên quan giữa típ mô bệnh học với một số đặc điểm
lâm sàng, X quang.


9

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sự hình thành và phát triển răng
1.1.1. Sự hình thành mầm răng
Các bằng chứng từ nghiên cứu phôi thai học thực nghiệm, tái tổ hợp
AND gần đây cho thấy biểu mô cung mang thứ nhất là cơ sở cho sự phát triển
răng. Ở phôi người, sự phát sinh răng bắt đầu từ 28 - 40 ngày sau khi thụ tinh.
Ở thời điểm này, phôi có độ dài đầu - mông (CRL: Crown- Rump Length)
khoảng 7- 9 mm. Hàm dưới và cung móng đã hình thành, sàn của hốc miệng
nguyên thủy đã đóng, các lồi và các củ hình thành lưới đã nhận biết được, các
mào mũi bên và vòm miệng nguyên thủy đã tạo thành. Trong pha phát triển
này của ngoại bì, biểu mô phủ của ống miệng có một lớp tế bào hình khối
vuông dẹt.
Trước đó, vào ngày thứ 18 của phôi thai, lớp ngoại bì đã hình thành tấm
thần kinh. Sau đó, tấm thần kinh lõm xuống phía trung bì ở đường giữa để tạo

thành máng thần kinh. Các tế bào từ hai bên bờ máng tăng sinh, di chuyển sang
hai bên và tách rời khỏi rãnh để tạo thành hai dải tế bào gọi là mào thần kinh.
Hai bờ máng thần kinh từ từ tiến lại gần nhau và hòa nhập ở đường giữa tạo
thành ống thần kinh. Các tế bào mào thần kinh là những phần hợp thành nhiều
mô: thần kinh giao cảm, tế bào sắc tố,…chúng góp phần tạo thành mô liên kết
vùng đầu mặt, trong đó có các mô liên kết của răng. Mặc dù có nguồn gốc ngoại
bì, tế bào mào thần kinh thể hiện một số đặc điểm của trung mô và kết hợp với
trung mô để tạo thành ngoại trung mô (ectodemesenchymal).
Vào tuần thứ 5- 6 của thai kì, khoang miệng nguyên thủy được lót bởi
ngoại bì gồm 2- 3 lớp tế bào hình trụ và tế bào dẹt bề mặt. Quá trình hình
thành răng là sự tụ tập của ngoại trung mô ngay sát dưới biểu mô niêm mạc


10

miệng. Sự tụ đặc của ngoại trung mô bắt đầu từ ở vùng trước gần đường giữa,
sau đó sẽ lan dần dọc ra sau mỗi nửa bên cung hàm tương lai, trong đó ở sự
phát triển ở hàm dưới bao giờ cũng trước hàm trên một chút. Khi ngoại trung
mô xuất hiện, nó sẽ cảm ứng biểu mô niêm mạc miệng phát triển dày lên tiến
xuống lớp trung mô bên dưới hình thành nên lá răng (tooth band/ dental lamina)
có hình móng ngựa. Mỗi nửa hàm có một lá răng, đầu trước của hai lá răng ở hai
bên sau này sẽ nối với nhau ở đường giữa [10],[11],[12],[13].
Sự hình thành mầm răng là một quá trình liên tục, căn cứ vào những
diễn biến hình thái, nguời ta chia sự phát triển của mầm răng thành 3 giai
đoạn: nhú, mũ và chuông.
1.1.1.1. Giai đoạn nụ (giai đoạn tăng sinh)
Từ biểu mô của lá răng, các tế bào tăng sinh hình thành một đám hình
cầu, gọi là cơ quan men hình nụ hoặc cơ quan tạo răng hình nụ (dental or
enamel organ).
1.1.1.2. Giai đoạn mũ

Các tế bào ngoại trung mô hình thành một nhú đồng thời cơ quan tạo
men lõm xuống tạo thành một mũ trên nhú răng. Các tế bào xung quanh cơ
quan tạo men và nhú răng phân chia tạo thành một lớp tế bào ngoại trung mô
tụ đặc, gọi là bao răng hay túi răng. Đến giai đoạn này, mầm răng đã bao gồm:
cơ quan tạo men (đã có 4 loại tế bào), nhú răng và bao răng.
Cấu tạo của cơ quan tạo men:
Gồm 4 thành phần riêng biệt, phân biệt nhau về các mặt hình thái học,
tế bào học và chức năng: biểu mô men lớp ngoài, lưới tế bào hình sao, lớp tế
bào trung gian và biểu mô men lớp trong.
Biểu mô men lớp ngoài: nằm ở mặt ngoài của cơ quan men, liên quan
mật thiết với mạch máu ngoại trung mô lân cận. Các tế bào này thay đổi hình
thái tùy theo vị trí so với biểu mô men lớp trong. Khi biểu mô men lớp trong


11

chưa biệt hóa, chúng có hình khối vuông hoặc lăng trụ. Khi đối mặt với biểu
mô men lớp trong, chúng trở nên thấp dẹt và sắp xếp lộn xộn hơn. Biểu mô
men lớp ngoài và biểu mô men lớp trong liên tiếp với nhau ở vùng gấp của cơ
quan men. Đây là vùng quan trọng có tác dụng cảm ứng, đồng thời là vùng
xảy ra phân chia tế bào để hình thành các tiền nguyên bào men mới và cũng là
nơi hình thành bao Hertwig có tác dụng cảm ứng hình thành chân răng. Biểu
mô men lớp ngoài có vai trò trong kiểm soát sự trao đổi chất giữa cơ quan
men và môi trường bên ngoài.
Lớp lưới tế bào hình sao: gồm các tế bào hình sao với nhiều nhánh bào
tương dài, nối với nhau bằng thể nối và khe khớp. Khoảng gian bào giữa
chúng được lấp bởi mucopolysaccaride có tính acid và các chất cơ bản ái
nước, là sản phẩm của tế bào lưới. Chúng có vai trò dinh dưỡng cho mầm
răng. Một số tác giả cho rằng nó như một tổ chức đệm, có tác dụng chống lại
các lực cơ học bên ngoài, cũng như giữ một khoảng cần thiết cho sự hình

thành thân răng.
Lớp tế bào trung gian: gồm 3 - 4 hàng tế bào dẹt, đa giác, tương đối gần
nhau. Người ta cho rằng chúng tham gia vào quá trình vôi hóa răng.
Biểu mô men lớp trong: gồm 1 hàng tế bào hình trụ thấp, nhân hình bầu
dục, các bào quan phân tán trong bào tương. Chúng biệt hóa thành nguyên
bào tạo men. Khi các nguyên bào tạo men chưa chế tiết thì được gọi là tiền
nguyên bào tạo men. Vai trò: cảm ứng lớp tế bào ngoại vi của nhú răng để tạo
thành các tiền nguyên bào tạo ngà.
1.1.1.3. Giai đoạn chuông (giai đoạn trưởng thành và biệt hóa)
Khác với hai giai đoạn trước, ở giai đoạn này mầm răng không chỉ tiếp
tục lớn lên về kích thước mà có sự biệt hóa của các tế bào. Gồm 2 giai đoạn:
giai đoạn sớm trước khi hình thành mô cứng của răng và giai đoạn sau là bắt
đầu có sự hình thành lớp ngà đầu tiên. Trong giai đoạn này, mầm răng có hai


12

đặc điểm chính là: (1) sự tiếp xúc của biểu mô men lớp trong và tế bào lớp
ngoài của nhú răng, xác định hình thể tương lai của răng; (2) có sự biệt hóa
thành nguyên bào men, nguyên bào ngà, cũng như một chuỗi các biệt hóa của
các tế bào khác của mầm răng.

Hình 1.1: Sự di cư của các tế bào mào thần kinh [13]

Hình 1.2: Giai đoạn nụ [13]


13

Hình 1.3: Giai đoạn mũ [13]


Hình 1.4: Giai đoạn chuông [13]
1.1.2. Quá trình hình thành răng
1.1.2.1. Sự hình thành thân răng
Biểu mô men lớp trong tiếp xúc với các tế bào ngoại vi của nhú răng đã
biệt hóa thành tiền nguyên bào tạo men. Sau đó, chính các tiền nguyên bào
tạo men lại cảm ứng các tế bào ngoại vi của nhú răng biệt hóa thành tiền
nguyên bào ngà, rồi thành nguyên bào ngà. Nguyên bào ngà có thể tạo ra ngà
răng ngay. Lớp ngà mới được tạo ra (tiền ngà) làm phân tách lớp nguyên bào


14

men khỏi hệ thống mạch máu ở nhú răng và gây biến đổi chuyển hóa của lớp
này. Và tiền nguyên bào men biệt hóa thành nguyên bào men, có khả năng chế
tiết tạo ra lớp men. Lúc này, việc cung cấp các chất dinh dưỡng cần cho sự tạo
men đều do hệ thống mạch máu ở sát lớp biểu mô men lớp ngoài đưa đến sau
khi đi qua lưới tế bào hình sao và lớp tế bào trung gian.
Các nguyên bào men và nguyên bào ngà tiếp tục chế tiết và tạo thành
các lớp men và ngà làm cho hai lớp tế bào ngày càng xa nhau. Men dày lên
theo hướng từ trong ra ngoài, ngà dày theo hướng từ ngoài vào trong làm cho
buồng tủy càng hẹp lại. Khi thân răng hình thành xong thì cơ quan tạo men
bắt đầu thoái hóa [11],[13],[14],[15].
1.1.2.2. Sự hình thành chân răng
Khi thân răng hình thành, thì vùng gấp của cơ quan tạo men cũng phát
triển nhưng không biệt hóa thành nguyên bào men mới mà hình thành 1 lá biểu
bì gồm 2 lớp biểu mô. Lá biểu bì này phát triển sâu xuống tổ chức mô liên kết
bên dưới, tạo thành 1 bao biểu mô, gọi là bao Hertwig (còn gọi là Von Brunn).
Bao Hertwig có 2 lớp tế bào:
Lớp biểu mô trong: không biệt hóa thành nguyên bào men nhưng vẫn

có khả năng cảm ứng tế bào ngoại vi của nhú răng để tạo ngà.
Lớp biểu mô ngoài: không ảnh hưởng gì đến mô liên kết bên xung quanh.
Sau khi lớp ngà chân răng hình thành thì bao Hertwig thoái hóa. Bao
này sẽ mất đi từng phần và để lại những di tích là những đám biểu mô nhỏ ở
tổ chức quanh chóp răng, gọi là những đám biểu mô Malassez. Những đám
biểu mô còn sót lại khi gặp điều kiện thích hợp có thể phát triển thành các
nang hoặc u [11],[13],[14],[15].


15

F

Hình 1.5: Các giai đoạn hình thành răng [11]
(A : giai đoạn nụ, B: giai đoạn mũ, C: giai đoạn chuông, D và E: hình thành
ngà và men răng, F: thân răng hình thành, G: hình thành chân răng, H: hình
thành răng hoàn chỉnh)
1.2. U do răng
1.2.1. Đặc điểm chung


Định nghĩa
OT là những tổn thương có nguồn gốc từ biểu mô, ngoại trung mô, và
hoặc trung mô của cơ quan tạo răng. Do đó, những u này thường được tìm
thấy trong xương hàm mặt (thể trung tâm/ thể trong xương) hoặc trong mô
mềm phủ cung răng hoặc niêm mạc huyệt ổ răng (thể ngoại vi hay ngoài
xương). U có thể tự thoái hóa. Các đặc điểm lâm sàng như tuổi, giới và vị trí
có thể vô cùng giá trị trong việc chẩn đoán phân biệt các u do răng [16].



16



Dịch tễ
Trong các bệnh lý vùng hàm mặt, u do răng tương đối hiếm gặp, chỉ
chiếm 2 - 3% các tổn thương ở miệng và xương hàm [7]. Theo số liệu nghiên
cứu của một số tác giả trên thế giới, thấy rằng có sự khác biệt rõ rệt về tỉ lệ
mắc u do răng. Kết quả nghiên cứu ở Trung Quốc, Hồng Kông, Nigeria,
Zimbabwe, Đức, Nhật, Canada, Nam Phi, Mĩ cho thấy hay gặp nhất là u
nguyên bào men típ đặc (58,6%), ở Hồng Kông là 59,4%, Nhật là 57% và ở
Zimbabwe và Nigeria lần lượt là 79,1 % và 58,5%. Tương phản với tỉ lệ gặp ở
Mĩ và Canada, u răng lại là u hay gặp nhất (73,8% và 56,4%), trong khi đó u
nguyên bào men típ đặc chỉ chiếm 12,2% và 14,8%. Khác biệt này có thể là
do ở một số nước đang phát triển thường không gửi giải phẫu bệnh để chẩn
đoán u răng [1]. Ngoài ra, có một số nghiên cứu lại thấy rằng u dạng nang
sừng hóa hay gặp nhất [3],[4]. Các u do răng có xu hướng lành tính nhiều hơn
ác tính [1],[3],[17]. Theo báo cáo của Taylor, Adalberto Mosqueda thấy trong
tất cả các mẫu sinh thiết được gửi đến, OT chỉ chiếm 0,8 - 3,7% và trong số
đó hơn 95% là lành tính, trong đó u răng, u nguyên bào men và u nhầy là hay
gặp hơn cả [2].
1.2.2. Đặc điểm lâm sàng
OT bao gồm nhiều loại khác nhau, cả lành tính và ác tính. Phần lớn các
OT ở trong xương hàm (thể trung tâm/ thể trong xương). OT thể ngoại vi/ ngoài
xương khi u nằm ở lợi, phần mô mềm phủ huyệt ổ răng. Đặc điểm lâm sàng của
hầu hết các OT không đặc trưng, có thể gặp các triệu chứng sau:



Đau: Hầu hết các OT lành tính, phát triển chậm thường không hoặc rất ít đau.

Ngược lại, đối với u ác tính, đau lại là dấu hiệu xuất hiện đầu tiên.



Phồng xương: Là triệu chứng thường gặp nhất. Nếu u phát triển to, gây tiêu
xương nhưng chưa phá vỡ vỏ xương, có thể gặp “dấu hiệu bóng nhựa”.


17



Răng liên quan đến u: có thể lung lay, di chuyển hoặc mọc bất thường, xương
ổ răng chậm lành sau khi nhổ răng.



Các dấu hiệu khác: ít gặp, như dò hay loét niêm mạc, gãy xương hàm tự
phát... Nếu u không tiến triển thành ác tính và không bị nhiễm trùng thì BN
không có hạch và không bị mất cảm giác.
1.2.3. Đặc điểm X quang
Bản chất của mỗi loại OT khác nhau nên hình ảnh biểu hiện trên phim
X quang cũng thay đổi. Các OT có thành phần mô cứng dễ phân biệt với các
tổn thương dạng nang hơn các OT không có thành phần mô cứng. U răng là
tổn thương cản quang được bao quang bởi viền thấu quang. U dạng u tuyến,
u biểu mô canxi hóa là tổn thương thấu quang, xen lẫn những ổ cản quang...
Những OT không có thành phần cản quang khó phân biệt với các nang xương
hàm, gây khó khăn cho các nhà chẩn đoán hình ảnh [9]. X quang rất có giá trị
trong chẩn đoán, việc phân tích cẩn thận hình ảnh tổn thương trên phim X
quang sẽ cung cấp những thông tin hữu ích, định hướng chẩn đoán.




Độ cản quang của tổn thương: những tổn thương cản quang (mờ trên phim)
do những thành phần của răng, xi măng hay u tạo xương. Thường gặp hơn là
những tổn thương không cản quang do tiêu xương hay nang. Hỗn hợp cản
quang và thấu quang: hiếm gặp, và nếu gặp thì là dấu hiệu đặc hiệu hơn của u
do răng.



Có thể có hình một buồng hay nhiều buồng.



Bờ của tổn thương: tổn thương có ranh giới không rõ hoặc rõ với đường viền
xơ dày hoặc mảnh.



Liên quan đến răng: có thể nhìn thấy hình ảnh răng ngầm, mầm răng hoặc tiêu
chân răng.



Liên quan của u với ống răng dưới và xoang hàm.


18


Trên phim CT- scanner ta có thể đánh giá được u chính xác hơn theo 3
chiều trong không gian về kích thước, sự xâm lấn và sự liên quan với các mô
lân cận.


Đặc điểm X quang của u nguyên bào men
Hình ảnh tổn thương u nguyên bào men (NBM) trên phim X quang

thường là hình ảnh thấu quang có thể một buồng hoặc nhiều buồng dạng
“bong bóng xà phòng” hoặc “tổ ong”, đường viền xung quanh tương đối rõ
nhưng không đều. Chân răng liên quan thường bị tiêu. Thường thấy răng chưa
mọc, nếu kèm thêm hình ảnh thấu quang đơn buồng sẽ rất dễ nhầm với nang
thân răng. Ueno và cộng sự nhận thấy răng trong 97 trường hợp u nguyên bào
men thì 47% có hình ảnh một buồng, 37% là nhiều buồng, 16% có dạng
“bong bóng xà phòng” [18],[20],[21],[22].

Hình 1.6. Hình ảnh thấu quang đa buồng dạng “bong bóng xà phòng”
(mũi tên mảnh) và “tổ ong” (mũi tên đậm) của u nguyên bào men [22]


Đặc điểm X quang của u răng
U răng phức hợp:
Biểu hiện trên X quang của u răng phức hợp phụ thuộc vào giai đoạn
phát triển của u. Người ta chia u ra làm 3 giai đoạn dựa trên mức độ khoáng
hóa của u: giai đoạn đầu đặc trưng bởi hình ảnh thấu quang do thiếu sự canxi
hóa, giai đoạn trung gian có sự canxi hóa một phần, giai đoạn cuối cùng tổn


19


thương là khối cản quang giống tổ chức cứng của răng, được bao quanh bởi
một viền thấu quang mỏng, ít thấy tiêu chân răng bên cạnh [19],[20], [21],
[22].

Hình 1.7: U răng phức hợp phía trên răng 37 [1]
U răng đa hợp:
Khối cản quang có nhiều tổ chức giống như răng và rất nhiều răng dị
dạng, kèm với 1 hoặc nhiều răng vĩnh viên ngầm hoặc răng thừa ngầm. Bao
quanh là viền xơ thấu quang rõ [19],[20],[21],[22],[24].

Hình 1.8. U răng đa hợp [24]


Đặc điểm X quang của u dạng nang sừng hóa


20

Tổn thương thấu quang với đường viền cản quang rõ. Những tổn
thương lớn, đặc biệt ở phía sau của thân XHD và cành lên, có thể thấy hình
ảnh nhiều ổ [22],[26].

Hình 1.9. Hình ảnh thấu quang của u nang sừng hóa vùng cằm, cành
ngang, cành lên xương hàm dưới bên phải [26]


Đặc điểm X quang của u nguyên bào xi -măng
Hình ảnh X quang thường là một khối cản quang tương đối đồng nhất,

hình tròn, liền với một hay nhiều chân răng. Xung quang là vùng thấu quang

mỏng, bờ rõ [18], [19], [20], [21].

Hình 1.10. U nguyên bào xi - măng [27]


Đặc điểm X quang của u dạng u tuyến


21

Hình ảnh thấu quang đơn buồng, ranh giới rõ, bao quanh thân răng và
một phần chân răng vĩnh viễn chưa mọc, rất dễ nhầm với nang thân răng. Có
thể không có răng ngầm. Hai phần ba các biến thể trong xương có hình ảnh
các ổ cản quang nhỏ phân tán trong vùng thấu quang. Biến thể ngoại vi có thể
thấy hình ảnh tiêu mào xương ổ răng [1].

Hình 1.11. A-B. Hình ảnh u dạng u tuyến [1]


Đặc điểm X quang của u nhầy
Tổn thương thấu quang đơn buồng hoặc đa buồng, có thể gặp hình ảnh
“bong bóng xà phòng” hoặc “tổ ong”. Ranh giới thường rõ thường gây đẩy
phồng vỏ xương, nhưng cũng có khi u ranh giới không rõ. Tiêu chân răng,
dịch chuyển răng có thể xảy ra. Khi u to có thể có phản ứng vỏ xương [1].
1.2.4. Đặc điểm mô bệnh học của một số u do răng
1.2.4.1. Lịch sử phân loại
Đứng trước thực trạng sử dụng thuật ngữ “odontoma” cho bất kì u do
răng nào, Broca đã gợi ý việc phân loại các OT năm 1869. Từ năm 1888
đến 1914, Bland - Sutton và Gabell, James và Payne đã đổi thuật ngữ u
trong khi vẫn duy trì khái niệm “odontoma” của Broca. Phân loại của



22

Thoma và Golman (1946) đã phân các OT thành các u có nguồn gốc từ
trung bì, ngoại bì và hỗn hợp 2 nguồn gốc, loại bỏ thuật ngữ “odontoma”.
Phân loại của Pindborg và Clausen (1958) dựa trên sự tương tác cảm ứng
của ngoại trung mô để hình thành các OT. Năm 1966, Tổ chức Y tế thế giới
WHO thành lập Trung tâm phối hợp về phân loại mô học các u do răng và
các tổn thương liên quan bao gồm các nang xương hàm, được đứng đầu bởi
Dr Jens Pindborg. Năm 1971, bản hướng dẫn về phân loại OT và các nang
đầu tiên của WHO ra đời [28].
Sau đó vào năm 1992, WHO công bố bảng phân loại mới, với sự thay đổi
so với phân loại cũ: các dưới típ của u xi - măng (cementoma) là (1) u nguyên
bào men lành tính (benign cementoblastoma), (2) u xơ sinh xi - măng
(cementifying fibroma), (3) loạn sản xi - măng quanh chóp (periapical cemental
dysplasia), (4) u xi - măng dạng khổng lồ (gigantiform cementoma) đã được gộp
lại thành u nguyên bào cement lành tính (benign cementoblastoma) [18].
Năm 2002, Philipsen và Reichart đã sửa đổi bản năm 1992 và vào năm
2003, các biên tập viên của WHO Blue Book quyết định sản xuất sách về các
khối u ở đầu - cổ, trong đó có một chương về OT và các tổn thương ở xương có
liên quan. Vào tháng 7 năm 2005 sách này được xuất bản bởi IARC, Lyon [28].
Phân loại OT của WHO 2005 có những thay đổi chính so với phân loại
năm 1992 như sau: [17]


U do răng không phải chỉ liên quan đến răng mà phải có nguồn gốc tạo
răng.




Mô đệm của nhóm u biểu mô là mô đệm xơ, không chứa thành phần ngoại
trung mô.



Dưới típ của u nguyên bào men phải được phân biệt (trong xương - ngoài
xương, thể xơ, thể đơn nang).


23



U răng dạng u tuyến được xếp lại vào nhóm u có nguồn gốc chỉ từ biểu mô,
không có ngoại trung mô.



U do răng tế bào bóng ma can-xi hóa (calcifying ghost cell odontogenic
tumor) cũng có trong phân loại.



Nang răng sừng hóa (odontogenic keratocyst) trước đây được phân loại vào
tổn thương dạng nang có nguồn gốc tạo răng, đã được đổi tên thành u dạng
nang sừng hóa ( keratocystic odontogenic tumour - KCOT) và xếp vào nhóm
u có nguồn gốc biểu mô tạo răng, thể hiện là một khối tân sản thực sự.




Phân loại OT ác tính đã được sửa đổi bới Eversole (1999) với một vài thay
đổi nhỏ. Đặc biệt là ung thư biểu mô nguyên bào men (ameloblastic
carcinoma) được phân biệt với u nguyên bào men ác tính/ di căn (malignant/
metastasizing ameloblastoma).



U tế bào sáng (clear cell odontogenic tumour) chuyển thành ung thư biểu mô
tế bào sáng (clear cell odontogenic carcinoma).


24

Bảng 1.1. Phân loại mô bệnh học các u do răng lành tính của WHO 2005
U do răng có nguồn gốc biểu mô
U nguyên bào men thể đặc/ đa nang (ameloblastoma, solid/
multicystic type)
U nguyên bào men thể ngoại vi (ameloblastoma, extraosseous/
peripheral type)
U nguyên bào men thể xơ (ameloblastoma, desmoplastic type)
U nguyên bào men thể đơn nang (ameloblastoma, unicystic type)
U do răng có biệt hóa vảy (squamous odontogenic tumour)
U do răng loại biểu mô can xi hóa (calcifying epithelial odontogenic tumour)
U dạng u tuyến (adenomatoid odontogenic tumour)
U dạng nang sừng hóa (keratocystic odontogenic tumour)
Nguồn gốc biểu mô và ngoại trung mô, có hoặc không có sự hình
thành mô cứng:
U xơ nguyên bào men (ameloblastic fibroma)
U xơ ngà nguyên bào men (ameloblastic fibrodentinoma)

U xơ - răng nguyên bào men (ameloblastic fibro - odontoma)
U răng (odontoma)
U răng phức hợp (complex odontoma)
U răng đa hợp (compound odontoma)
U nguyên bào men - răng (odontoameloblastoma)
U dạng nang canxi hóa (calcifying cystic odontogenic tumour)
U tế bào bóng ma có chất dạng ngà (dentinogenic ghost cell
tumour)
Nguồn gốc trung mô và hoặc ngoại trung mô, có hoặc không có
biểu mô.
U xơ (odontogenic fibroma)
U xơ nhầy (odontogenic myxoma/ fibromyxoma)
U nguyên bào xi -măng (cementoblastoma)

9310/0
9310/0
9310/0
9310/0
9312/0
9340/0
9300/0
9270/0
9330/0
9290/0
9280/0
9282/0
9281/0
9311/0
9301/0
9302/0

9321/0
9320/0
9273/0

Năm 2017, Tổ chức Y tế Thế giới WHO đã phát hành bản Phân loại các
u vùng đầu mặt cổ lần thứ tư. Trong bản phân loại mới này, có một số thay
đổi so với bản phân loại năm 2005, trong đó, về các u do răng lành tính có
một số thay đổi chính như sau:
• U nguyên bào men được chia thành 4 loại chính: u nguyên bào men, u
nguyên bào men típ đơn nang, u nguyên bào men típ ngoại vi, u nguyên
bào men di căn.


25



U dạng nang sừng hóa đã không còn được coi là u do răng có nguồn



gốc biểu mô, mà đã được xếp vào nhóm nang do răng
Trong nhóm u do răng có nguồn gốc biểu mô và trung mô, có thêm một

loại u mới đó là u do răng nguyên thủy. Đây là u bào gồm mô liên kết
xơ lỏng lẻo nghèo tế bào, và được bao quanh bởi hàng tế bào giống
nguyên bào men lớp trong của nhú răng nguyên thủy.
Bảng1.2: Phân loại MBH các u do răng lành tính của TCYTTG năm 2017
U do răng có nguồn gốc biểu mô
U nguyên bào men (Ameloblastoma)

U nguyên bào men típ đơn nang ( Ameloblastoma, unicystic type)
U nguyên bào men típ ngoại vi ( Ameloblastoma, peripheral type)
U nguyên bào men di căn (metastasizing Ameloblastoma)
U do răng có biệt hóa vảy (Squamous odontogenic tumour)
U do răng loại biểu mô can xi hóa (Calcifying epithelial
odontogenic tumor)
U dạng u tuyến (Adenomatoid odontogenic tumour)
U do răng có nguồn gốc biểu mô và trung mô
U xơ nguyên bào men (Ameloblastic fibroma)
U do răng nguyên thủy (Primordial odontogenic tumour)
U răng (Odontoma)
U răng đa hợp (compound type)
U răng phức hợp (complex type)
U tế bào bóng ma có chất dạng ngà (Dentinogenic ghost cell tumor)
U do răng nguồn gốc trung mô
U xơ (Odontogenic fibroma)
U xơ nhầy (Odontogenic myxoma)
U nguyên bào xi- măng ( Cementoblastoma)
U xơ sinh xi - măng - xương ( Cemento - ossifying fibroma)

9310/
0
9310/
0
9310/
0
9310/
3
9312/
0

9340/
0
9340/
0
9330/
0
9280/
0
9281/
0
9282/
0
9302/
0
9321/
0


×