Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Điều tra tỷ lệ ngã và các yếu tố nguy cơ gây ngã ở người già trên 80 tuổi tại cộng đồng (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.29 KB, 46 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội ngày càng phát triển, tuổi thọ và chất lượng sống của con người
ngày càng tăng lên, song hành là vấn đề về bệnh tim mạch, bệnh chuyển hóa,
bệnh sa sút trí tuệ, đặc biệt là rối loạn dáng đi, thăng bằng và ngã ở người cao
tuổi cũng là một bệnh trở lên phổ biến. Ngã ở người cao tuổi gây nhiều biến
chứng, trong đó có gãy xương, suy giảm vận động sau ngã, tâm lý sợ hãi, lo
âu trầm cảm, đó là yếu tố gây giảm chất lượng cuộc sống và tỷ lệ tử vong tăng
lên. Khi có rối loạn dáng đi và thăng bằng thì người bệnh lớn tuổi có nguy cơ
cao tử vong do té ngã. Té ngã ở người cao tuổi là nguyên nhân gây chấn
thương và đứng hàng thứ sáu trong số những nguyên nhân thường gặp gây tử
vong ở những người trên 65 tuổi tại Mỹ. Một nghiên cứu cho thấy rối loạn
dáng đi và thăng bằng làm tăng nguy cơ ngã lên gấp 3 lần. Vấn đề liên quan
đến nguy cơ ngã ở những cá thể này có thể phòng tránh và cần được sự chung
tay của cả cộng đồng hơn nữa so với những bệnh lý khác ở người cao tuổi.
Ngã gây ra những thương tích nghiêm trọng về thể chất và tinh thần,
gây tốn kém chi phí điều trị cho người cao tuổi. Té ngã liên quan chặt chẽ đến
hội chứng dễ bị tổn thương và các bệnh tiềm ẩn nên rất khó để ước tính chi
phí thực tế do ngã. Trong một nghiên cứu, nhóm bệnh nhân bị ngã cần được
chăm sóc tại nhà tăng gấp 7 lần, chi phí nhập viện tăng gấp 3 lần, chi phí cấp
cứu tăng gấp 4 lần so với nhóm không bị ngã [5].
Có người ngã nhưng không bị chấn thương cũng cần sự tăng cường
chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là sau khi điều chỉnh các bệnh đi kèm. Theo
WHO, chi phí Y tế dùng cho người già cao gấp 7 đến 10 lần người trẻ [9].
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng ngã gây ra trên 10.000 ca tử
vong một năm ở nhóm người trên 65 tuổi. Khoảng 30-40% người cao tuổi


2


trên 65 ngã ít nhất 1 lần trong một năm và tỉ lệ này tăng rất cao ở người trên
75. Ở Pháp khoảng 1,2 đến 1,5 triệu người trên 65 tuổi bị ngã trong 1 năm.
Ngã có tỉ lệ rất cao ở nhóm người rất già và nhóm người có hạn chế vận
động. Hàng năm có khoảng 1/3 số người trong nhóm sống cùng gia đình bị
ngã. Phần lớn không gây thương tật nghiêm trọng, nhưng có khoảng 5% bị
gẫy xương. Trung tâm phòng chống ngã quốc gia của Mỹ cho biết chi phí
hàng năm cho ngã lên tới 27,3 tỉ đôla, chi phí điều trị cho ngã ở Pháp lên tới
hàng triệu euro. Vì vậy, đánh giá các yếu tố nguy cơ và tiến hành các biện
pháp dự phòng ngã tái phát là rất quan trọng. Trên thế giới đã có nhiều nghiên
cứu về nguy cơ ngã, những can thiệp được đặt ra nhằm giảm thiểu rủi ro. Tuy
nhiên tại Việt Nam có rất ít công trình nghiên cứu nào mang tính hệ thống và
đầy đủ về vấn đề này. Trên thực tế lâm sàng cho thấy, chúng ta nên xây dựng
cách tiếp cận, đánh giá và phân loại nguy cơ ngã một cách đơn giản thông qua
những thang điểm, bộ câu hỏi có sẵn, đó là phương tiện dễ sử dụng, phù hợp
cho cả y tế cơ sở khi khám sàng lọc, từ đó đặt mục tiêu cụ thể trong việc điều
trị, dự phòng nguy cơ ngã cho bệnh nhân, đăc biệt về mặt phục hồi chức năng,
từ đó giúp người cao tuổi sống độc lập tại cộng đồng. Cơ sở y tế tuyến xã,
điển hình là trạm y tế xã đóng vai trò hết sức quan trọng. Trạm y tế xã nắm
trọng trách quản lý và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại cộng đồng. Mặc
dù vậy, những hướng dẫn cụ thể để dự phòng ngã thì chưa có. Vì lí do đó,
chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu “Điều tra tỷ lệ ngã và các yếu tố nguy
cơ gây ngã ở người già trên 80 tuổi tại cộng đồng” nhằm mục tiêu sau:
1.

Mô tả thực trạng nguy cơ ngã của người già trên 80 tuổi tại 5 xã
thuộc Huyện Sóc Sơn, Hà Nội.

2.

Tìm hiểu các yếu tố nguy cơ nội sinh và ngoại sinh gây ngã ở người

cao tuổi tại cộng đồng.


3

Chương 1
TỔNG QUAN

1.1. Định nghĩa người cao tuổi
Quan niệm về người cao tuổi tồn tại từ thế kỷ XVII, theo đó tuổi 50 −
60 được coi là người già. Ở Châu Âu vào những năm 1830, những người
trong nhóm tuổi từ 65 trở lên được coi là người già. Hiện tại, hầu hết các nước
phát triển cũng cùng quan niệm như vậy. Tại các nước đang phát triển cho
rằng mốc trên chưa phù hợp. Hiện tại chưa có tiêu chuẩn thống nhất cho các
quốc gia.
Theo quy ước của WHO, người cao tuổi là người 60 tuổi trở lên.Trong
đó, phân loại người cao tuổi theo nhóm tuổi:

- Sơ lão từ 60 −69 tuổi.
- Trung lão từ 70 −79 tuổi.
- Đại lão từ ≥ 80 trở lên
Người cao tuổi thường mắc nhiều bệnh đồng thời, nhất là bệnh mạn tính
như tăng huyết áp, tiểu đường, bệnh tim mạch, đột quỵ, sa sút trí tuệ...Người cao
tuổi thường có các triệu chứng không điển hình nên chẩn đoán bệnh rất khó
khăn, khả năng phục hồi kém khiến cho chi phí y tế tăng cao.
1.2. Đại cương về ngã ở người cao tuổi
Ngã là một hiện tượng thường gặp ở người cao tuổi, đặc biệt là phụ nữ.
30% người từ 65 tuổi trở lên trong cộng đồng đều đã có ngã trong năm. Một
phần tư trong số họ bị chấn thương nghiêm trọng. Khoảng 5% trường hợp ngã
có kèm theo gẫy xương. Ngã là nguyên nhân đứng hàng thứ 6 về tử vong của



4

người già và 40% trường hợp trong số họ phải nhập viện điều trị. Ngã có thể
phòng tránh và hậu quả cũng có thể khắc phục được trong một phần đáng kể
các trường hợp.
Ngã được định nghĩa như một sự kiện, được bản thân người ngã hoặc
người xung quanh chứng kiến làm cho cơ thể ngã xuống đất, hoặc chúi về
phía trước, người ngã có thể tỉnh hoặc mê, bị chấn thương hoặc không. Hậu
quả của ngã gây chấn thương dẫn đến gãy xương, đặc biệt là gãy cổ xương
đùi. Ngoài ra, có thể gây chấn thương sọ não, nỗi sợ bị té ngã dẫn đến lo âu
trầm cảm, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
Khả năng kiểm soát thăng bằng ở người cao tuổi ngày càng kém do
những thay đổi về sinh lý hoặc bệnh lý dẫn đến nguy cơ ngã tăng cao. Thăng
bằng là phản ứng của cơ thể nhằm duy trì tư thế trong các hoạt động hằng
ngày. Tư thế mô tả một vị trí bất kỳ của cơ thể, vị trí nào cũng đòi hỏi cần
thăng bằng để không có sự xáo trộn do trọng lực. Năm 1997 F.B. Horak đã có
cách nhìn nhận mới về kiểm soát tư thế thăng bằng, vấn đề rối loạn thăng
bằng và yếu tố nguy cơ ngã [16]. Việc kiểm soát tư thế dựa trên sự toàn vẹn
của các hệ thống: Hệ thống tiền đình, hệ thống cảm giác bản thể, hệ thống thị
giác, hệ thống thần kinh trung ương, hệ thống thực hiện. Các công trình
nghiên cứu của Hulse (1981-1982-1983) cũng như của WYKE (1983) nêu rõ
vai trò quan trọng của các cơ quan đó[14].
Ngã do rất nhiều nguyên nhân như yếu tố môi trường, các bệnh lí dễ
gây ngã, hoặc đang sử dụng các thuốc làm tăng nguy cơ ngã.
Các yếu tố thường thấy ở nhà gây ra ngã ở 80% các trường hợp là cầu
thang, nhà vệ sinh, bồn cầu, phòng bếp không hợp lí.
Các yếu tố bệnh lý có thể gây ngã như: mất ý thức do giảm lưu lượng
tưới máu não, cơn động kinh, hạ đường huyết, hội chứng lú lẫn, dùng thuốc



5

an thần, bệnh lý thoái hóa thần kinh, rối loạn dáng đi, thăng bằng như
Parkinson hoặc bệnh lí cơ xương khớp, rối loạn thị giác, sử dụng thuốc an
thần kinh...Năm 1996 W. C. Graafmans và cộng sự đã nghiên cứu các yếu tố
nguy cơ liên quan đến té ngã, trong đó có các yếu tố như: rối loạn thăng bằng
và dáng đi, trạng thái tinh thấn, yếu tố môi trường, điều kiện nhà ở… Và đưa
ra cách dự phòng ngã tái phát có hiệu quả.
Năm 2000 G. F. Fuller đã đưa ra các nguyên nhân gây ngã và các yếu tố
nguy cơ liên quan kèm theo[12].
Ngoài ra, còn một số nguyên nhân khác như tình trạng chân yếu,
TBMMN, Parkinson, gây chóng mặt, tụt huyết áp tư thế hoặc rối loạn dáng đi.
OPPENHEIM (1913) coi chóng mặt là một cảm giác lờ đờ do rối loạn quan
hệ giữa cơ thể và khoảng không gian xung quanh[14].. Nguyên nhân gây ngã
thường là sự phối hợp của nhiều yếu tố. Các yếu tố nguy cơ quan trọng nhất
là yếu chân, rối loạn dáng đi, giảm hoạt động chức năng, rối loạn về nhận
thức. Việc sử dụng nhiều loại thuốc (bốn hoặc nhiều hơn), ngay cả những
thuốc có tác dụng điều trị đặc hiệu đều có thể dẫn đến RLDĐ và gia tăng tỷ lệ
ngã [4]. Các nguyên nhân gây ngã được tổng hợp cụ thể dưới đây:
* Các yếu tố môi trường gây ngã
• Quần áo
• Giầy dép không vừa
• Quần quá dài
• Nội thất
• Ghế quá cao hoặc quá thấp
• Thảm hoặc dây điện
• Lối rẽ trong nhà
* Các yếu tố gây nguy hiểm khác



6

• Không đủ ánh sáng
• Bồn tắm trơn trượt
• Sàn nhà ẩm, trơn
• Bồn cầu không thích hợp.
* Các bệnh lí dễ gây ngã cho bệnh nhân:
Các bệnh lí thần kinh trung ương
• Bệnh lí mạch não hoặc khối u (tổn thương thân não hoặc tiểu não và
tiền đình)
• Bệnh lí thoái hóa: Bệnh Parkinson, liệt trên nhân tiến triển hoặc
bệnh Steele Richardson , bệnh Alzheimer và sa sút trí tuệ khác.
• Não úng thủy áp lực bình thường.
Tổn thương thần kinh ngoại biên
• Tổn thương tủy: ép tủy, viêm tủy, thiếu vitamin B12.
• Tổn thương rễ
• Viêm đa dây thần kinh: đái tháo đường, nhiễm bột, ngộ độc , do
thuốc
• Rối loạn cảm giác sâu do lão hóa.
Tổn thương cơ
• Bệnh cơ do tuyến giáp, corticoid, loãng xương
• Thuốc giãn cơ (benzodiazepine và các thuốc khác )
• Giả viêm đa khớp gốc chi
• Nhược cơ
• Teo cơ do tuổi già và suy dinh dưỡng
Bệnh lí xương khớp
• Tổn thương rễ thần kinh: cột sống cổ, cột sống thắt lưng
• Chi dưới: các bệnh lí gây biến dạng bàn chân .



7

Bệnh lí tim mạch
• Rối loạn nhịp (rung nhĩ, các bệnh có nhịp nhanh )
• Rối loạn dẫn truyền ( nghẽn nhĩ thất hoặc hội chứng xoang cảnh )
• Hạ huyết áp tư thế đứng
• Hạ huyết áp sau ăn
• Suy tim , bệnh mạch vành
• Bệnh lí động mạch chủ, bệnh cơ tim tắc nghẽn )
• Tăng huyết áp động mạch
• Xỉu/ ngất
• Hẹp động mạch dưới đòn, động mạch sống hoặc động mạch cảnh .
Rối loạn cảm giác
• Tổn thương thị giác: giảm thị lực và hoặc hạn chế thị trường (đục
thủy tinh
• thể, tăng nhãn áp mạn tính, lão thị do tuổi, bệnh lí võng mạc do tiểu
đường)
• Tổn thương tiền đình: hội chứng tiền đình ngoại biên, viêm dây tiền
đình do ngộ độc, bệnh Meniere
Rối loạn chuyển hóa và các bệnh khác
• Thiếu máu
• Thiếu oxi
• Suy dinh dưỡng
• Mất nước, rối loạn điện giải, hạ đường huyết, rối loạn chứng
năng tuyến
• giáp.
• Trầm cảm, lo âu



8

• Nghiện rượu, ngộc độc CO
• Dùng thuốc.
Bảng 1.1. Các thuốc sử dụng có thể dễ gây ngã và cơ chế
Cơ chế
Hạ huyết áp tư thế đứng

Thuốc
Nhóm nittres, lợi tiểu , ức chế men
chuyển, chẹn alpha,
kháng huyết áp trung ương, an thần
kinh , chống trầm cảm
ba vòng, L-Dopa.
Rối loạn nhịp hoặc dẫn truyền
Chống loạn nhịp nhóm quinidine,
verapamine, bepridil,
cordaron…
Digitaliss
Lợi tiểu hạ kali
Spirronolactone, fludrocortison
Hạ đường huyết
Insuline, sulfamid hạ đường huyết
Tăng calci
Vitamin D3, A, thiazides
Bệnh cơ
Giảm cholessterol, điều trị corticoid
Thiếu máu
Chống đông máu

Rối loạn độ tỉnh táo
Nhóm benzzodiazepine, kháng động
kinh, an thần kinh, giãn cơ
Trạng thái lú lẫn
Thuốc điều trị Parkinson, chống
trầm cảm ba vòng, lithium, thuốc
kháng cholinergic
Rối loạn tiền đình
Carbamazepine, phenylhydaintoin,
aminosides
Hội chứng Parkinson
An thần kinh, reserpine, kháng
histamine
Vận động bất thường
L- Dopa, an thần kinh
Thất điều tiểu não
Diphenylhydaintoin,
pirimidone,
phenorbarbital, carbamazepine.
* Các yếu tố nguy cơ gây ngã tái phát ở người cao tuổi bao gồm
- Yếu tố thuận lợi gây nguy cơ ngã như: Tuổi trên 80, giới nữ, tiền sử
gẫy xương do chấn thương, sử dụng nhiều thuốc (điều trị nhiều biện pháp
điều trị trong ngày ), sử dụng thuốc an thần (an thần kinh và hoặc chống trầm


9

ảm và hoặc thuốc ngủ và hoặc benzodiazepine), sử dụng thuốc tim mạch (lợi
tiểu , digoxine, chống rối loạn nhịp nhóm 1), Rối loạn dáng đi và hoặc thăng
bằng (đứng lên và đi trên 20 giây, đứng 1 chân dưới 5 giây), Yếu cơ ở chi

dưới và hoặc suy dinh dưỡng (Khả năng đứng lên khi đang ngồi ghế mà
không cần sự giúp đỡ, chỉ số khối cơ thể dưới 21 kg/m, giảm cân trên 5%
trong một tháng hoặc 10% trong 6 tháng), thoái hóa khớp ở chi dưới và hoặc
gốc chi , bất thường ở bàn chân (biến dạng ngón chân và bàn chân), rối loạn
cảm giác chi dưới (bất thường về nhận cảm khi khám bằng monofilament ở
lòng bàn chân, bất thường về cảm giác rung khi khám, bằng âm thoa ở khu
vực mắt cá ngoài bàn chân, giảm thị lực), triệu chứng trầm cảm, suy giảm
nhận thức (thang điểm MMSE dưới 27/30 là bất thường), trắc nghiệm ngắn
đánh giá nhận thức ( test Codex, trắc nghiệm đồng hồ)
- Yếu tố gây ngã như: tim mạch (xỉu và hoặc mất ý thức, tiềng thổi tâm
thu, Hạ huyết áp tư thế đứng, Điện tim bất thường,Thần kinh, Giảm cảm giác,
vận động thoáng qua và hoặc kéo dài, Hội chứng ngoại tháp, Trạng thái lú
lẫn), Tiền đình (Chóng mặt, Cảm giác mất thăng bằng, Rung giật nhãn cầu),
chuyển hóa (hạ nattri máu, hạ đường huyết, dùng thuốc tiểu đường đường
uống hoặc insuline, nghiện rượu)
1.3. Điều trị và dự phòng ngã:
Điều chỉnh tất cả các yếu tố nguy cơ thuận lợi và gây ngã là rất quan
trọng. Trong thực hành đôi khi rất khó xác định chính xác yếu tố nào gây ra
ngã, thực tế ngã là do sự kết hợp của nhiều yếu tố. Năm 1994 Marry E Tinetti
và cộng sự đã nghiên cứu 301 bệnh nhân trên 70 tuổi, sống trong cộng đồng
và có ít nhất một trong số các yếu tố nguy cơ bị ngã. Sau đó đưa ra kết luận
rằng khi có sự can thiệp vào các yếu tố nguy cơ ngã ở người cao tuổi có thể
giảm đáng kể tỷ lệ ngã, hạn chế được tai biến nguy hiểm và thường gặp nhất
do rối loạn dáng đi và thăng bằng gây ra. Ngã liên quan đến các bệnh lí tim
mạch, thuốc, dinh dưỡng, giảm thị lực. Can thiệp vào các yếu tố này có thể
phòng được ngã tái phát. Khi nguyên nhân ngã là do một rối loạn cấp tính,
nên áp dụng các biện pháp điều trị đơn giản, trực tiếp và hiệu quả. Điều trị


10


nội khoa, phục hồi chức năng, thay đổi môi trường sống và thói quen sinh
hoạt. Điều trị phục hồi chức năng cần làm sớm. Điều trị thăng bằng cho bệnh
nhân, điều chỉnh dáng đi, áp dụng các kĩ thuật là tăng cơ lực chi dưới, giữ
thăng bằng ở trạng thái tĩnh và trạng thái động.
Bảng 1.2. Các can thiệp cho phép phòng ngã và biến chứng ngã ở người
Can thiệp
1. Điều chỉnh/ điều trị yếu tố thuận lợi gây ngã
-Xem lại các thuốc hoặc các biện pháp điều trị và hoặc các
loại thuốc an thần hoạc tim mạch có nguy cơ gây ngã.
-Điều trị tình trạng suy dinh dưỡng, giảm thị lực
liên quan đến đục thủy tinh thể, hạ huyết áp tư thế
đứng, rối loạn nhịp hoặc dẫn truyền, hạ đường
huyết, biến dạng bàn chân, điều trị trầm cảm.
2. Đi giày bệt, đế rộng, chất liệu mềm, cổ giầy cao, có
dây buộc.
3. Thay đổi môi trường sống và hỗ trợ kĩ thuật
-Sử dụng các hỗ trợ về kĩ thuật cho đi lại thuận lợi
và hỗ trợ các rối loạn về thăng bằng .
-Thích nghi về môi trường: điều chỉnh lại các yếu
tố dễ gây ngã tại nơi ở.
4. Tập hàng ngày về dáng đi và / hoặc các hoạt
động thể lực khác.
5. Uống hàng ngày ít nhất Vitamin D 800 nếu thiếu
vitamin D
6. Uống bổ sung hàng ngày Calci 1g-1,5g.
7. Giáo dục bệnh nhân và những người giúp đỡ.
8. Trong trường hợp có loãng xương, khởi phát điều trị
loãng xương .
9. Trong trường hợp rối loạn dáng đi và hoặc thăng

bằng, có liệu pháp điều trị phục hồi chức năng
- Điều trị thăng bằng ở trạng thái tĩnh và trạng thái động
- Cải thiện độ chắc của cơ và chi dưới
- Các kĩ thuật khác, kích thích đường cảm giác hoặc học
cách đứng lên.
Các biện pháp tập nên tiến hành thường xuyên, từ
nhẹ đến nặng, về lâu dài cũng hướng dẫn các hoạt

Chỉ
định

Áp dụng
Có không


11

động trong sinh hoạt hàng ngày.
* Một số biện pháp dự phòng được đề cập cụ thể dưới đây
Chống lại tình trạng yếu cơ và thay đổi về chức năng : Yếu cơ và giảm
hoạt động chức năng là các yếu tố nguy cơ quan trọng gây ngã. Điều trị cần
tập trung vào việc tăng cường cơ lực cũng như sự dai sức của người già.
Những thay đổi về dáng đi và sự thăng bằng : Mục đích nhằm cải thiện
rối loạn về dáng đi và khả năng giữ thăng bằng. Ở những người có các rối
loạn về dáng đi hoặc khả năng giữ thăng bằng, chủ yếu thông qua chương
trình dậy cách đi, các bài tập về cơ và cho bệnh nhân sử dụng các dụng cụ hỗ
trợ. Chương trình dậy cách đi thường do một kĩ thuật viên phục hồi chức
năng hướng dẫn, đặc biệt có hiệu quả với bệnh nhân tai biến mạch máu não,
gẫy khớp háng, thoái hóa khớp hoặc hội chứng Parkinson. Với những người
có xu hướng ngã hoặc đã bị ngã, phải áp dụng bày tập dậy cách đi. Tùy từng

trường hợp cụ thể có thể sử dụng các dụng cụ hỗ trợ như gậy chống nạng,
giầy chỉnh hình. Nếu bệnh nhân có biến dạng bàn chân hoặc chai chân thì cần
đi khám chuyên khoa chỉnh hình.
Những thay đổi về môi trường sống : Cần hướng dẫn cho bệnh nhân và
người nhà bệnh nhân một cách cụ thể cách loại bỏ những nguy hiểm trong
môi trường sống để tránh ngã. Điều này giúp đỡ cho người chăm sóc bệnh
nhân có thể giám sát được tốt, nhất là với các bệnh nhân sa sút trí tuệ.
Giáo dục cho bệnh nhân và người nhà về các bệnh lí và yếu tố nguy cơ
của bệnh nhân có thể gây ngã: Hướng dẫn cho bệnh nhân và người nhà hiểu
rõ về bệnh lý mà bệnh nhân đang mắc phải có nguy cơ gây ngã cũng như các
thuốc mà bệnh nhân đang sử dụng có các tác dụng không mong muốn có thể
gây ngã, từ đó đề xuất các biện pháp hạn chế nguy cơ ngã.


12

Phòng chống gẫy xương ở người già đã từng bị ngã: Bổ sung vitamin
D có tác dụng giảm nguy cơ ngã tái phát ở người cao tuổi. Hiệu quả trên
những bệnh nhân có thiếu vitamin D là rất rõ ràng. Liều sử dụng thường là
800U/I / 24 giờ.- Điều trị loãng xương.
Phòng chống ngã ban đầu ở người cao tuổi: Khuyến khích người cao
tuổi duy trị tốt chức năng vận động, cảm giác và dáng đi. Giáo dục sức khỏe
cho người cao tuổi và những người xung quanh về độ an toàn của môi trường
sống. Tập thể dục thường xuyên cũng là một chiến lược giảm yếu tố nguy cơ
ngã ở người cao tuổi. Nếu rối loạn dáng đi nhẹ, một chương trình tập thể dục
thường xuyên như đi bộ, đi xe đạp…Vì ngã là hậu quả quan trọng nhất của
một rối loạn dáng đi, công tác phòng chống ngã là vô cùng quan trọng. Việc
sửa đổi yếu tố nguy cơ trong môi trường gia đình có thể được thực hiện bằng
cách giáo dục thích hợp cho bệnh nhân và gia đình của họ hoặc thông qua
việc kiểm tra nhà của một chuyên gia được đào tạo từ cơ quan y tế.

1.4. Các công cụ đánh giá nguy cơ ngã ở người cao tuổi
Tình trạng ngã ở người cao tuổi, đặc biệt là sự té ngã thường xuyên chỉ
ra sự suy giảm chức năng và các bệnh tiềm ẩn ở người cao tuổi. Ngã thường
xuyên gây ra giảm khả năng di chuyển, suy giảm chức năng các cơ quan,
khiến bệnh nhân tăng nguy cơ phải ở trong các trung tâm dưỡng lão hoặc
chăm sóc sức khỏe dài hạn, giảm khả năng tự phục vụ của bản thân hay thậm
chí có thể dẫn đến tử vong. Một số test kiểm tra có thể dự đoán nguy cơ ngã
trong tương lai có độ nhạy và đặc hiệu tương đối cao, giúp các nhân viên y tế,
bệnh nhân, người nhà tăng hiệu quả trong việc phòng ngừa ngã.


13

Bảng 1.3: Đánh giá nguy cơ ngã của bệnh nhân [5].
Công cụ

Miêu tả

Đứng thăng bằng bằng 1 BN đứng bằng 1 chân trong 5 giây mà không
chân

cần hỗ trợ

Test chức năng với

BN để cánh tay vuông góc, với tối đa về phía
trước

Test đứng dậy và đi ( TUG)


Đo thời gian để BN đứng lên khỏi ghế, đi bộ
3 mét, quay người, trở lại ghế, và ngồi xuống;
≥ 20 giây là có rối loạn nặng

Thang điểm đánh giá dáng 16 yếu tố đánh giá sự cân bằng và 12 yếu tố
đi và thăng bằng Tinetti

về dáng đi

Kiểm tra thể chất

Đánh giá 9 yếu tố cân bằng tĩnh và động

(Physical performance test)

trong hoạt động thường ngày

Thang điểm cân bằng Berg

Kiểm tra cân bằng 14-mục, tối đa
56 điểm (<45 là bất thường)

Thang điểm Johns Hopskin

Đánh giá 7 yếu tố nguy cơ ngã, tính tổng
điểm các yếu tố và phân loại nguy cơ.

Trong những giờ đầu sau ngã, bác sĩ cần thăm khám kĩ để đánh giá hậu
quả của ngã. Thăm khám lâm sàng cần phải đặc biệt chú ý đến chức năng sinh
tồn, thần kinh, khám ngoài da, hệ cơ xương khớp. Sau là cần phải xác định

xem bệnh nhân có bệnh lí nào khác cần phải xét nghiệm và điều trị cấp. Đặc
biệt là tìm kiếm ổ nhiễm trùng, rối loạn dẫn truyền, tai biến mạch máu não
hay cơn hạ đường huyết, cuối cùng cần phải tìm các bệnh lý có thể làm cho
tình trạng ngã nặng hơn như điều trị chống đông, loãng xương, ngã liên tiếp


14

trong vài tuần gần đây. Nếu cần phải cho bệnh nhân nhập viện cấp để làm xét
nghiệm. Với những bệnh nhân ngã nhẹ, sau một vài ngày cần đánh giá vấn đề
tinh thần thế nào.
Hỏi xem bệnh nhân có ngất, xỉu hoặc mất ý thức không. Có trường
hợp có rối loạn về trí nhớ, trường hợp khác có các bệnh liên quan đến các yếu
tố nguy cơ. Hỏi bằng chứng về ngã rất quan trọng: tìm hiểu về biểu hiện trước
ngã, tình trạng ý thức trong suốt quá trình ngã, khám lâm sàng cần tìm kiếm
các dấu hiệu của bệnh lí tim mạch, thần kinh chuyển hóa hoặc rối loạn cảm
giác. Khám tim mạch đo huyết áp, nghe tim, khám thần kinh, vận động, cơ
lực, trương lực cơ, phản xạ, khám cơ xương khớp, phát hiện rối loạn thính
giác và thị giác, bất thường vận động nhãn cầu... và các phần khám tổng quát.
Khám đo huyết áp bệnh nhân tư thế nằm để phát hiện có hạ huyết áp tư thế
đứng, khám các rối loạn về thăng bằng, nghiệm pháp Romberg. Đánh giá lâm
sàng của một rối loạn dáng đi bắt đầu bằng đánh giá tiền sử. Khám thực thể,
bệnh nhân nên được đánh giá hạ huyết áp tư thế đứng, tầm nhìn và thính giác,
và các vấn đề tim mạch và phổi. Bệnh nhân cũng phải được đánh giá tình
trạng biến dạng khớp, sưng, đau, và những hạn chế trong phạm vi chuyển
động liên quan đến khung chậu, đầu gối, bàn chân, mắt cá chân, lưng, cổ và
cánh tay.
Khám tư thế, hỗ trợ giày dép thoải mái và ổn định. Tìm dấu hiệu thần
kinh khu trú, và đánh giá cơ lực, phản xạ gân xương, cảm giác, biểu hiện run,
chức năng tiền đình và tiểu não. Ngoài ra, bệnh nhân cần phải được đánh giá

tình trạng nhận thức và sàng lọc trầm cảm. Cảm giác sợ bị ngã có thể được
đánh giá trực tiếp hoặc sử dụng một bảng câu hỏi xác nhận [2].


15

Bảng 1.4 Các công cụ đánh giá nguy cơ ngã [1]
Khám
và hỏi
bệnh

Khám tổng quát thông qua hỏi bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân.
+ Hỏi bệnh:
- Tiền sử ngã
- Tiền sử dùng thuốc
- Tiền sử chấn thương do ngã
- Tiền sử mắc các bệnh lý phối hợp
- Các dấu hiệu khác kèm theo
+ Khám bệnh:
-Dấu hiệu sinh tồn
- Hệ thống tim mạch
- Hệ thần kinh
- Cơ xương khớp
- Hệ hô hấp
- Khám thị lực
- Khám dinh dưỡng
- Khám các triệu chứng 2 chi dưới
- Khám đánh giá sinh hoạt hằng ngày
Khám Bệnh nhân có một trong các yếu tố nguy cơ tự thân như: Giới
về các nữ; tuổi từ 80; tiền sử có dùng thuốc có nguy cơ gây ngã; tiền sử

yếu tố đã bị ngã trước đó; có rối loạn nhận thức về môi trường xung
nguy cơ quanh; trầm cảm; rối loạn dáng đi, thăng bằng; tiền sử gãy
ngã: yếu xương do chấn thương; sống một mình; mắc một trong số các
tố tự
bệnh lý mạn tính như: Thần kinh, cơ xương khớp, tim mạch, rối
thân và loạn chuyển hóa, biến dạng bàn chân, suy giảm thị lực.
yếu tố Hoặc bệnh nhân có một trong các yếu tố nguy cơ môi trường
môi
như: Cầu thang có bậc quá cao; ánh sáng trong nhà quá thiếu
trường hoặc quá sáng; sàn nhà ẩm ướt, trơn trượt, không bằng phẳng;
thảm trong nhà quá lỏng hoặc dây điện dưới sàn; vật dụng bàn
ghế, giường không phù hợp; không có tay nắm cửa, thanh giữ an
toàn trong nhà tắm, nhà vệ sinh; lối đi trong nhà hẹp, khoảng rẽ
khó khăn, nhiều vật dụng cản trở; bồn tắm trơn trượt; bồn cầu
không thích hợp; giày dép không phù hợp; quần quá dài
Đánh
- Thang điểm Johns Hopkins
giá nguy
cơ ngã


16

Bảng 1.5: Đánh giá các yếu tố thuận lợi và yếu tố gây ngã tái phát ở người
cao tuổi trên lâm sàng.
Loại
Yếu tố
thuận
lợi


Tiêu chuẩn xác định
Tuổi trên 80
Nữ
Tiền sử gẫy xương do chấn thương
Sử dụng nhiều thuốc (điều trị nhiều biện
pháp điều trị trong ngày )
Sử dụng thuốc an thần (an thần kinh và
hoặc chống trầm ảm và hoặc thuốc ngủ và hoặc
benzodiazepine)
Sử dụng thuốc tim mạch (lợi tiểu , digoxine,
chống rối loạn nhịp nhóm 1)
Rối loạn dáng đi và hoặc thăng bằng
Đứng lên và đi trên 20 giây
Đứng 1 chân dưới 5 giây
Yếu cơ ở chi dưới và hoặc suy dinh dưỡng
Khả năng đứng lên khi đang ngồi ghế mà không
cần sự giúp đỡ
Chỉ số khối cơ thể dưới 21 kg/m
Giảm cân trên 5% trong một tháng hoặc
10% trong 6 tháng.
Thoái hóa khớp ở chi dưới và hoặc gốc
chi
Bất thường ở bàn chân (biến dạng ngón
chân và bàn chân)
Rối loạn cảm giác chi dưới
Bất thường về nhận cảm khi khám bằng
monofilament ở lòng bàn chân.
Bất thường về cảm giác rung khi khám
bằng âm thoa ở khu vực mắt cá ngoài bàn chân
Giảm thị lực

Triệu chứng trầm cảm
Suy giảm nhận thức
Thang điểm MMSE dưới 27/30 là bất
thường
Trắc nghiệm ngắn đánh giá nhận thức (test



không


17

Yếu tố
gây
ngã

Codex, trắc nghiệm đồng hồ
Tim mạch
Xỉu và hoặc mất ý thức, tiềng thổi tâm thu
Hạ huyết áp tư thế đứng
Điện tim bất thường
Thần kinh
Giảm cảm giác, vận động thoáng qua và
hoặc kéo dài
Hội chứng ngoại tháp
Trạng thái lú lẫn
Tiền đình
Chóng mặt
Cảm giác mất thăng bằng

Rung giật nhãn cầu
Chuyển hóa
Hạ nattri máu
Hạ đường huyết
Dùng thuốc tiểu đường đường uống hoặc
insuline
Nghiện rượu

1.5. Một số công cụ đánh giá nguy cỏ ngã và rối loạn dáng đi, thăng bằng
thường sử dụng trên lâm sàng
* Vận tốc dáng đi (gait speed)
GS= khoảng cách/ giây (m/s)
Cách đo vận tốc dáng đi: BN được hướng dẫn bắt đầu đi bộ với một tốc
độ thoải mái và an toàn, tính thời gian để bệnh nhân đi được khoảng cách là
10 m. Mỗi BN được thực hiện 2 lần và lấy kết quả ở lần có số thời gian ngắn
hơn. Rối loạn dáng đi được xác định là vận tốc dáng đi ≤ 0,8 m/s [3].
* Test đứng dậy và đi ( test Up and Go ):
Test “đứng dậy và đi’’ thực hiện nhanh chóng, là công cụ chẩn đoán
đáng tin cậy cho rối loạn dáng đi và thăng bằng [6,7]. Bệnh nhân được ngồi
trong một chiếc ghế có tay vịn cứng, đứng dậy, đi lại với tốc độ bình thường


18

trong 3 m, quay người trở lại, đi 3 m và ngồi xuống ghế. Bệnh nhân được
quan sát trong lúc thực hiện kiểm tra. Bệnh nhân có thể đứng lên mà không
chống tay? Dáng đi lúc có bắt đầu bình thường không? Những bước đi của
bệnh nhân có ổn định, và nhanh chóng không? Bệnh nhân có thể ngồi xuống
một cách an toàn mà không cần trợ giúp không? Thời gian bệnh nhân thực
hiện ít hơn 10 giây được coi là bình thường, và từ 14 giây hoặc nhiều hơn là

bất thường và tăng nguy cơ té ngã [7]. Nếu thời gian thực hiện kiểm tra ≥ 20
giây là có rối loạn dáng đi nặng hơn và cần điều trị để giảm nguy cơ ngã [2].
Test đứng dậy và đi dễ dàng thực hiện, tiến hành trong thời gian ngắn và có
độ tin cậy cao. Những người gặp khó khăn hoặc không vững khi thực hiện bài
test này được đánh giá thêm, làm sáng tỏ dáng đi suy yếu và hạn chế chức
năng liên quan.


19

* Test Romberg:
Cách thực hiện: Yêu cầu bệnh nhân đứng thẳng, chạm 2 chân vào nhau,
mắt nhìn thẳng. Sau đó yêu cầu bệnh nhân nhắm mắt lại. Bác sĩ đứng gần để
trong trường hợp bệnh nhân lảo đảo hoặc ngã có thể hỗ trợ.
Khi mở mắt 3 hệ thống giác quan thị giác, thính giác, cảm giác tiền
đình sẽ duy trì sự ổn định của dáng đi. Nếu có tổn thương trong hệ thống tiền
đình ta sẽ thấy thân mình bệnh nhân nghiêng về phía tổn thương, hiếm hơn là
bệnh nhân nghiêng ra phía trước hoặc phía sau. Nếu nặng hơn bệnh nhân có
thể bị ngã, lúc này bệnh nhân không thể đứng và đi lại được [17].
* Thang điểm Tinetti:
Được phát triển bởi Mary Tinetti, MD, tại Đại học Yale [1]. Bảng điểm
này cung cấp sự đánh giá chính xác mức độ rối loạn dáng đi và thăng bằng
trong hiện tại và cho phép so sánh điểm số ở thời điểm khác nhau để xác định
sự thành công của điều trị. Những cá nhân với số điểm Tinetti thấp thường
được yêu cầu một sự trợ giúp ngay lập tức, cần cung cấp một cây gậy hoặc
khung tập đi.
Điểm số tối đa cho các thành phần dáng đi là 12 điểm. Điểm số tối đa
cho các thành phần thăng bằng là 16 điểm. Tổng số điểm tối đa là 28 điểm.
Bệnh nhân có điểm dưới 18 có nguy cơ cao cho té ngã. Bệnh nhân có điểm
trong khoảng 19 - 24 có nguy cơ trung bình bị té ngã. Nếu điểm số từ 24 - 28

thì bệnh nhân có nguy cơ thấp bị ngã. Việc phân loại các nhóm nguy cơ có ý
nghĩa quan trọng trong việc phân loại thứ tự ưu tiên trong điều trị của bác sĩ.
Nếu điểm thành phần dáng đi < 9 điểm BN được xác định có RLDĐ [18].
* Thang điểm Johns Hopkins:
Đánh giá nguy cơ ngã thông qua phỏng vấn bệnh nhân và người nhà để
tìm hiểu các yếu tố nguy cơ gây ngã.


20

Bảng 1.6: Thang điểm Johns Hopkins
Tiêu chuẩn
1.Tuối
60-69
70-79
≥ 80
2.Tiền sử ngã
Ngã 1 lần trong vòng 6 tháng trước khi
nhập viện
3.Bài tiết (Đại tiện/ Không kiểm soát
tiểu tiện)
Cấp bách hoặc thường xuyên
Cấp bách, thường xuyên và không kiểm
soát
4.Sử dụng thuốc: Trên 1 loại thuốc có nguy cơ ngã cao
Gồm PCA/có thuốc
phiện, chống co giật,
hạ HA, lơị tiểu, thuốc Trên 2 hoặc nhiều hơn các loại thuốc có
ngủ, nhuận tràng, nguy cơ ngã cao
thuốc an thần


Điểm
1
2
3
5

Sư dụng thuốc an thần trong vòng 24
tiếng sau cùng
5..Dụng cụ chăm sóc Có 1
bệnh nhân (Truyền Có 2
tĩnh mạch, ống dẫn Có 3 hoặc nhiều hơn
lưu phổi, ống thông
tiểu lưu
6.Di chuyển (có thể Có sự trợ giúp hoặc cần sự giám sát khi
nhiều lựa chọn và di chuyển
cộng điểm lại)
Dáng đi không vững
Giảm thị lực hoặc thính lực ảnh hưởng
đến việc di chuyển
Có sự thay đổi nhận thức về môi trường
7.Nhận thức
xung quanh

7

2
2
4
3

5

1
2
3
2
2
2
1

Kích thích

2

Thiếu kiến thức về giới hạn vật lý và
nhận thức

4


21

Cộng tổng điểm lại và ta có kết quả:
-

Nguy cơ ngã thấp: < 6 điểm
Nguy cơ ngã cao: > 13 điểm
Nguy cơ ngã trung bình: 6-13 điểm
Cả 2 trường hợp đều cần can thiệp điều trị và dự phòng ngã


1.6. Chiến lươc điều trị dự phòng ngã thông qua chương trình phục hồi
chức năng tại cộng đồng
Quá trình lão hóa gây giảm chức năng vận động, chức năng nhận thức
và chức năng sinh hoạt hằng ngày. Phục hồi chức năng tai nhà cho bệnh nhân
có nguy cơ ngã giúp giảm thiểu chi phí điều trị, cải thiện nguy cơ ngã, cải
thiện chức năng sinh hoạt, làm tăng chất lượng cuộc sống. Tùy từng cá nhân
cụ thể có nguy cơ ngã, tiền sử bệnh tật mà chọn lựa phương pháp tập luyện
phù hợp. Trên một người bệnh, có thể sử dụng đồng thời nhiều bài tập khác
nhau. Việc giám sát, hướng dẫn và đánh giá hiệu quả điều trị cần làm thường
xuyên, nhằm mục đích giảm thiểu tối đa nguy cơ ngã và hậu quả của nó [19].
* Nội dung phục hồi chức năng tại nhà cho người cao tuổi:
Các bài tập về tăng cường sức mạnh cơ: Các nhóm cơ quan trọng giúp
cải thiện chức năng di chuyển: nhóm cơ duỗi/ gập gối, cơ dạng khớp háng,
nhóm cơ mông, nhóm cơ cẳng chân. Tập mạnh nhóm cơ chi trên giúp cải
thiện chức năng sinh hoạt hàng ngày cũng như di chuyển với dụng cụ trợ giúp
như gậy, khung tập đi, xe lăn, bao gồm tập nhóm cơ gập, duỗi khuỷu, nhóm
cơ dạng…
Các bài tập cải thiện sức bền, duy trì tầm vận động khớp: Đi bộ, đạp xe,
đi chợ, quét sân nhà, tối thiểu 10 phút/ lần, 30 phút/ngày, tuần tập 5 ngày
Tập thăng bằng: tập đứng trên một chân theo trình tự: Đứng vịn mở
mắt, nhắm mắt, đứng không vịn nhắm mắt…


22

Hoạt động trị liệu/lao động liệu pháp: Hoạt động trị liệu là biện pháp
giúp cho người bệnh có rối loạn về thể chất, tinh thần cũng như về mặt xã hội
đảm bảo và duy trì chức năng hàng ngày, tái thích nghi nghề ngiệp, giải trí,
thể thao và hòa nhập với cuộc sống gia đình và xã hội. Bệnh nhân cần được
hướng dẫn tập các bài tập chức năng trong sinh hoạt hằng ngày: Tập các động

tác khóe léo của bàn tay, các kiểu cầm nắm cơ bản, cầm nắm thô, lao động
liệu pháp, tập thay quần áo cho bệnh nhân yếu liệt...Các hoạt động trị liệu tại
nhà bao gồm thay đổi môi trường sống phù hợp với tình trạng bệnh tật của
người cao tuổi, hướng dẫn sử dụng dụng cụ trợ giúp di chuyển
Hướng dẫn di chuyển: Những bệnh nhân có tình trạng nằm liệt giường
cần được tập cách ngồi dậy, đi lại/di chuyển ra ghế/ xe lăn và ngược lại để
thực hiện các chức năng sinh hoạt hàng ngày( ăn uống, vệ sinh,tắm rửa, thay
áo quần…)
Sử dụng dụng cụ trợ giúp di chuyển: Lựa chọn dụng cụ trợ giúp cho
người cao tuổi phụ thuộc vào nhiều yếu tố: thăng bằng, khả năng vận động,
vấn đề đau, cảm giác, môi trường, sự chấp nhận của họ…Mục đích dụng cụ
trợ giúp di chuyển là đảm bảo an toàn khi di chuyển và phù hợp với bệnh tật,
gậy, khung tập đi, xe lăn. Những bệnh nhân xa sút trí tuệ cần có những bài tập
riêng phù hợp cho từng cá thể.
Các phương pháp giảm đau tại nhà gồm: Nhiệt trị liệu, sử dụng túi
chườm nóng, lạnh để giảm đau một số các bệnh cơ xương khớp như đau vùng
thắt lưng, đau vai gáy, đau khớp gối…Xoa bóp tại nhà, Kích thích điện qua da
(TENS), Thủy trị liệu: phương pháp thủy trị liệu đơn giản như ngâm tay/ chân
vào nước nóng, nước lạnh để giảm đau…


23

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại xã ( sẽ nêu tên sau) của Huyện Sóc Sơn,
Hà Nội.
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 1/2016 đến tháng 10/2017.

2.2. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
Tất cả những người từ 80 tuổi trở lên tại 5 xã ( sẽ nêu tên sau)
Còn khả năng đi lại được.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Những người < 80t
Những người không còn khả năng đi lại, nằm hoàn toàn tại chỗ
Không đồng ý tham gia nghiên cứu
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.3.2. Phương pháp chọn mẫu
Ngẫu nhiên thuận tiện. Tất cả các bệnh nhân đủ tiêu chuẩn đến khám.


24

2.3.3. Phương pháp nghiên cứu
Thăm khám và hỏi bệnh: tiến sử, bệnh sử, khám lâm sàng, điều tra các
yếu tố môi trường gây ngã theo bệnh án nghiên cứu thống nhất. Bệnh nhân
được kiểm tra thông qua bảng điểm Johns Hopkins để đánh giá nguy cơ ngã.
2.3.4. Các biến số và chỉ số nghiên cứu
2.3.4.1. Các yếu tố chung của nhóm nghiên cứu
-

Tuổi: của đối tượng tham gia nghiên cứu, tính bằng năm.

-


Giới: nam hay nữ.

-

Chiều cao (m), cân nặng (kg), chỉ số BMI.

-

Điều kiện sống: Có làm việc nhà hay không, sống một mình hay sống cùng
người thân.

-

Tiền sử ngã: Có hay không
+ Số lần ngã trong vòng 6 tháng gần đây
+ Ngã ở vị trí nào trong nhà.
+ Mức độ nghiêm trọng của chấn thương do ngã:
Nhẹ: Tự điều trị tại nhà
Trung bình: đã khám tại cơ sở y tế và không nhập viện
Nặng: Đã từng nhập viện điều trị

-

Tiền sử nhập viện điều trị do ngã.

-

Tiền sử dùng các nhóm thuốc: Bệnh nhân có hay không uống thuốc hằng
ngày, ghi rõ các nhóm thuốc đang sử dụng: thuốc ngủ, có hay không; thuốc an
thần kinh, có hay không; thuốc chống trầm cảm, có hay không; nhóm

benzodiazepine, có hay không; thuốc trợ tim (digoxine), có hay không; thuốc


25

lợi tiểu, có hay không; thuốc chống loạn nhịp nhóm, có hay không; Số lượng
các nhóm thuốc đang uống là bao nhiêu (1, 2, 3…).
-

Tiền sử chấn thương do ngã: Có hay không

-

Tiền sử mắc các bệnh mạn tính:
Tai biến mạch não, sa sút trí tuệ, parkinson, rối loạn tiền đình, trầm
cảm, viêm khớp, thoái hóa khớp, suy tim, tăng huyết áp, hạ huyết áp tư thế,
bệnh lý mạch máu, COPD, Hen phế quản, béo phì, đái tháo đường, bệnh
tuyến giáp, nghiện rượu: có hoặc không.
2.3.4.2. Đặc điểm lâm sàng của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
- Xác định bệnh nhân có nguy cơ ngã và mức độ nguy cơ ngã khi:
+ Bệnh nhân có một trong các yếu tố nguy cơ tự thân như: Giới nữ; tuổi
từ 80; tiền sử có dùng thuốc có nguy cơ gây ngã; tiền sử đã bị ngã trước đó;
có rối loạn nhận thức về môi trường xung quanh; trầm cảm; rối loạn dáng đi,
thăng bằng; tiền sử gãy xương do chấn thương; sống một mình; mắc một
trong số các bệnh lý mạn tính như: Thần kinh, cơ xương khớp, tim mạch, rối
loạn chuyển hóa, biến dạng bàn chân, suy giảm thị lực.
+ Hoặc bệnh nhân có một trong các yếu tố nguy cơ môi trường như:
Cầu thang có bậc quá cao; ánh sáng trong nhà quá thiếu hoặc quá sáng; sàn
nhà ẩm ướt, trơn trượt, không bằng phẳng; thảm trong nhà quá lỏng hoặc dây
điện dưới sàn; vật dụng bàn ghế, giường không phù hợp; không có tay nắm

cửa, thanh giữ an toàn trong nhà tắm, nhà vệ sinh; lối đi trong nhà hẹp,
khoảng rẽ khó khăn, nhiều vật dụng cản trở; bồn tắm trơn trượt; bồn cầu
không thích hợp; giày dép không phù hợp; quần quá dài
+ Thang điểm Johns Hopkins: < 6 điểm, nguy cơ ngã thấp; 6-13 điểm,
nguy cơ ngã trung bình; > 13 điểm, nguy cơ ngã cao.


×