Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Hình dạng và màu sắc nhóm răng cửa hàm trên ở một nhóm người dân tộc pa côlứa tuổi 18 25 tại huyện a lưới, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (938.13 KB, 85 trang )

11

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu thẩm mỹ của con
người ngày càng được nâng cao, đặc biệt là thẩm mĩ của gương mặt. Việc làm
đẹp không chỉ giúp làm tăng sự tự tin trong giao tiếp mà còn thể hiện sự tôn
trọng đối với người đối diện. Trong số các yếu tố tạo nên vẻ đẹp của khuôn
mặt, nụ cười là một yếu tố đóng vai trò rất quan trọng [1],[2]. Người ta luôn
có vẻ hấp dẫn và quyến rũ hơn với một nụ cười đẹp. Ngoài ra, đó cũng là một
trong những cách giao tiếp không lời rất quan trọng của con người. Trong đó,
các răng cửa trên là những răng được nhìn thấy trước tiên khi cười. Chính vì
vậy, hình dạng, kích thước, màu sắc và sự sắp xếp hài hòa của các răng này
cần phải được quan tâm khi muốn tạo một nụ cười đẹp. Giữa các yếu tố này,
màu sắc và hình dạng thân răng được xem là những yếu tố quan trọng nhất
[3],[4]. Trong lĩnh vực phục hình thẩm mĩ, việc lựa chọn hình dạng, màu sắc
đúng và tái tạo lại những yếu tố này một cách chính xác là một thách thức cho
các bác sĩ lâm sàng, với mục tiêu đảm bảo được sự hài hòa với các răng tự
nhiên, giúp phục hình không bị nhận ra.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới ở các nước như Anh, Mĩ, Tây Ban Nha,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Kosovo, Pakistan và một số nghiên cứu
trong nước đã được tiến hành để xác định màu sắc và hình dạng thân răng
bằng nhiều phương pháp khác nhau. Đối với xác định màu sắc răng thì đó là
phương pháp so màu răng sử dụng bảng so màu có hướng dẫn [5],[6],[7],[8],
[9] hoặc phương pháp so màu bằng máy (so màu với sự hỗ trợ của máy ảnh
hoặc camera trong miệng, so màu bằng sắc kế và phổ quang kế) [10],[11],
[12],[13],[14]. Đối với đánh giá hình thể răng thì đó là phương pháp đánh giá
dựa vào mối tương quan giữa các kích thước ngang của thân răng [15],[16],
[17],[18],[19] hoặc phương pháp đối chiếu với răng mẫu [20],[21],[22],[23].


22



Tuy nhiên, các nghiên cứu ở nước ngoài đều mang tính đại diện cho những
cộng đồng khác nhau, khi áp dụng cho cộng đồng người Việt thì chưa phù
hợp. Trong khi đó số lượng nghiên cứu tại Việt Nam về hai chỉ số mang tính
quyết định đến thẩm mĩ này vẫn còn hạn chế, nhất là các nghiên cứu được
tiến hành ở những vùng dân cư có mức sống thấp, trình độ dân trí hạn chế những nơi cần được sự quan tâm nhiều hơn nữa của các tổ chức và dịch vụ
chăm sóc sức khỏe. Chính vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Hình
dạng và màu sắc nhóm răng cửa hàm trên ở một nhóm người dân tộc Pa
Cô lứa tuổi 18-25 tại huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế” với các mục
tiêu sau:
1

Mô tả màu sắc nhóm răng cửa hàm trên ở một nhóm người dân tộc Pa
Cô tại huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế có độ tuổi 18-25;

2

Xác định hình thể thân răng nhóm răng cửa hàm trên ở nhóm đối
tượng nêu trên.


33

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN
1.1. Màu sắc răng
1.1.1. Tọa độ ba chiều của màu sắc
Một màu sắc được định nghĩa bởi ba tọa độ - ba yếu tố cơ bản: độ sáng,
độ bão hòa màu và tông màu.

1.1.1.1. Độ sáng
Độ sáng, xếp theo cấp độ quan trọng, là yếu tố đầu tiên tạo nên sự thành
công về màu sắc của một phục hình răng. Nó được định nghĩa là số lượng
màu trắng có trong một màu nào đó. Bảng so màu 3D của Vita® là bảng so
màu duy nhất được xây dựng để xác định nhanh chóng và đầu tiên răng đang
được quan sát thuộc về nhóm độ sáng nào [24].
1.1.1.2. Độ bão hòa màu
Được định nghĩa là số lượng hạt màu thuần có trong một màu sắc nào đó.
Ta có thể làm giảm độ bão hòa của một màu bằng hai cách : hoặc là thêm vào
màu trắng, điều này sẽ làm cho màu gốc sáng ra và cho cảm giác màu bị nhạt
đi ; hoặc là thêm vào màu đen, điều này sẽ làm cho màu gốc bị xỉn đi. [24]
1.1.1.3. Tông màu
Tông màu được định nghĩa là độ dài bước sóng của ánh sáng được phản
xạ lại của một vật. Nó tương ứng với các màu khác nhau như đỏ, lục, lam hay
vàng. Nó là yếu tố ít quan trọng nhất trong việc tạo nên sự thành công về màu
sắc của răng giả [24].
1.1.2. Phổ màu Munsell
Năm 1909, Albert H. Munsell đã lần đầu tiên xây dựng một hệ thống
không gian màu ba chiều, được gọi là Phổ màu Munsell [25]. Nó giúp định
nghĩa mỗi màu bằng một điểm được định vị trong một không gian ba chiều
mà các thông số chính là: tông màu (Hue), độ sáng (Value) và độ bão hòa màu
(Chroma). Phổ màu có hình khối lăng trụ tròn. Trục đứng trung tâm của hình
lăng trụ mang các giá trị thể hiện độ sáng (Value) đi từ 0 (cực dưới, tương ứng


44

với màu đen) đến 10 (cực trên, tương

ứng với màu


trắng). Bán kính của khối trụ tròn

mang các giá

trị biểu thị độ bão hòa màu (Chrom)

đi từ 1 đến 5,

với 1 là giá trị thể hiện độ bão hòa cao

nhất. Đường

tròn đáy thể hiện 10 tông màu (Hue)

với các cặp

màu bù được đặt đối diện nhau [26],[27],[28].
Hình 1.1: Phổ màu Munsell [29]
1.1.3. Các không gian màu
Năm 1931, Ủy ban quốc tế về chiếu sáng - Commission Internationale
de l’Eclairage (CIE) được thành lập, đây là cơ quan chịu trách nhiệm cho các
khuyến nghị quốc tế về trắc quang và đo màu [30]. CIE đưa ra các hệ thống
màu sử dụng ba tọa độ để xác định vị trí một màu sắc trong không gian. Các
không gian màu sắc bao gồm: CIE XYZ, CIE La*b* và CIE LCh0.
1.1.3.1. Không gian màu CIE XYZ
Năm 1931, CIE đưa ra cơ sở đo màu cho phép mỗi màu sắc có thể được
xác định bởi bộ 3 giá trị định hướng: X, Y, Z. Màu sắc của một vật được biểu
diễn thông qua các con số cụ thể của bộ ba X, Y, Z, từ đó cho phép phân biệt
các màu sắc khác nhau một cách khá chính xác. Mặt hạn chế chính của biểu

đồ CIE XYZ là nó không đại diện đồng nhất cho mỗi màu riêng biệt. [30],
[31].
1.1.3.2. Không gian màu CIE La*b*
Năm 1976, không gian màu đồng nhất hơn được đề xuất bởi CIE là
không gian màu La*b*. Không gian màu này đã trở nên phổ biến và được ứng
dụng trong các máy đo màu. Không gian màu ba chiều này bao gồm ba trục là
: L, a* và b*. Trục tung L thể hiện độ sáng tối của đối tượng: màu đen hoàn
toàn có giá trị L = 0; L = 100 đại diện cho màu trắng. Trục a* thể hiện sự thay
đổi sắc thái của màu, đi từ xanh lá cây sang đỏ (-a = xanh lá cây; +a = đỏ).
Trục b* thể hiện sự thay đổi sắc thái của màu, đi từ xanh dương sang vàng (-b
= xanh dương; +b = vàng) [32],[33],[34],[35],[36].
1.1.3.3. Không gian màu CIE LCh0


55

Mặc dù không gian màu CIE La*b* được ứng dụng một cách rất hiệu
quả đối với nhiều người sử dụng nhưng các con số được biểu diễn bởi hệ
thống CIE La*b* không giúp ích được nhiều trong việc tái tạo màu sắc răng
tự nhiên. Chính vì vậy, không gian màu CIE LCh 0 đã ra đời, trong đó: L luôn
là trục tung, mang các giá trị thể hiện độ sáng từ 0 đến 100; C là giá trị thể
hiện độ bão hòa màu, được tính bằng khoảng cách từ trục L đến vị trí của màu
được xác định; h0 là giá trị

tính góc từ

trục +a đến vị trí của màu

được


định, đại diện cho tông màu.

So với không

gian màu CIE La*b*, các

giá

không gian màu CIE LCh0

tạo điều kiện

hơn cho các kĩ thuật viên

trong

xác định cũng như tái tạo

màu sắc răng

vì chúng nêu lên được ba

yếu tố cơ bản

xác
trị

từ
việc


của màu sắc. [32]
Hình 1.2: Không gian màu CIE La*b*
và CIE LCh0 [29]
1.1.4. Các yếu tố quyết định màu sắc răng tự nhiên
1.1.4.1. Các yếu tố do răng
* Tính phân lớp: (Stratification)
Ngà răng là phần quyết định màu sắc của răng trong khi men răng quyết
định các hiệu ứng về ánh sáng. Sự giảm độ sáng nơi cổ răng tương ứng với sự
mỏng đi của lớp men, làm lộ dần màu của ngà răng ở phía dưới. [26]

* Tính trong mờ: (Translucence)
Tính trong suốt và trong mờ của một vật liệu được thể hiện qua việc một
phần (tính trong mờ) hoặc toàn bộ ánh sáng tới (tính trong suốt) có thể truyền
qua vật liệu đó. Độ trong mờ của ngà răng là 40% trong khi của men răng là


66

70%. Năm 1985, Yamamoto đã đề xuất một cách phân loại tính trong mờ của
răng, bao gồm ba loại sau: [37]
-

Loại A: Độ trong mờ được phân bố đều trên khắp bề mặt ngoài của răng;

-

Loại B: Tính chất trong mờ tập trung ở khu vực rìa cắn;

-


Loại C: Tính chất trong mờ tập trung ở rìa cắn và về phía các mặt bên.
Thông tin về độ trong mờ của răng cần phải được trao đổi với labo để

được tái tạo trên phục hình, tốt nhất nên trao đổi thông qua ảnh kĩ thuật số.

Hình 1.3: Phân loại tính trong mờ của Yamamoto (1985) [38]
* Hiệu ứng Opal: (Opalescence)
Hiệu ứng quang học này thấy rõ nhất trên đá mắt mèo, được tạo ra do
kích thước rất nhỏ của các tinh thể silicium dioxide trong đá. Kích thước rất
nhỏ của các tinh thể hydroxyapatites (0,05 đến 0,15 μm) khiến men răng cũng
có tính chất tương tự. Phân loại của Vanini sau đây cho phép đơn giản hóa
việc đánh giá và tái tạo tính chất này [37]:
-

Loại 1: Hiệu ứng ánh sữa tạo nên hình ảnh các núm với hai rãnh;

-

Loại 2: Hiệu ứng ánh sữa tạo nên hình ảnh các núm với ba hay bốn rãnh;

-

Loại 3: Không có sự phân biệt thành núm rõ ràng, tạo hiệu ứng răng lược;

Loại 4: Hiệu ứng ánh sữa tạo thành hình ảnh một đường, tạo cảm giác
như mở một cửa sổ ở rìa cắn của răng;
- Loại 5: Bề mặt răng có quầng màu cà phê, thường ở người lớn tuổi
hoặc trên những răng có ngà bị xơ hóa với ngà và men bị ngấm màu.
-


Loại 1

Loại 2

Loại 3


77

Loại 4
Loại 5
Hình 1.4: Phân loại về hiệu ứng Opal của Vanini [37]
* Hiệu ứng huỳnh quang: (Fluorescence)
Có thể quan sát rất rõ hiệu ứng huỳnh quang - răng mang màu trắng
phơn phớt xanh - của răng tự nhiên dưới ánh sáng tia cực tím. Hiện tượng này
gây ra bởi ngà răng. Theo thời gian, ngà răng dần mất đi tính chất huỳnh
quang do sự khoáng hóa quá mức của ngà răng ở người cao tuổi [26].
* Hiệu ứng ánh xà cừ: (Pearl effect)
Hiệu ứng ánh xà cừ hay là một hiệu ứng của bề mặt cản quang có độ
sáng lớn, hơi có ánh kim loại giống như được quan sát thấy trên bề mặt xà cừ.
Hiệu ứng này đôi khi được quan sát thấy ở răng người trẻ, đặc biệt là ở những
góc nhìn nghiêng không trực diện [26].
* Tình trạng bề mặt:
Tình trạng bề mặt của răng tự nhiên thường rất đa dạng. Nó có ảnh
hưởng đáng kể đến sự tiếp nhận màu sắc vì quyết định lượng ánh sáng phản
xạ lại và lượng ánh sáng được truyền qua răng. Răng người trẻ có thường có
bề mặt với nhiều hố trũng và những đường vân tăng trưởng ngang. Theo thời
gian, sự mài mòn hóa học hay cơ học xóa mờ dần đi những nét này [26].
* Đặc trưng của từng cá nhân:
Đặc tính của từng cá nhân là những đặc điểm màu sắc mang tính khu trú,

mắc phải và mang tính cấu trúc trên răng tự nhiên. Nó có thể là những đốm
trắng đục do sự hủy khoáng, những vết hoặc đám màu trắng do nhiễm màu
fluor, hiệu ứng những đám mây men màu sữa trên bề mặt răng thường được
quan sát thấy trên răng của người trẻ [26].
1.1.4.2. Các yếu tố bên ngoài
* Nguồn sáng


88

Điều kiện ánh sáng tốt nhất để thực hiện việc so màu là dưới ánh sáng
ban ngày, khi trời ít mây, với nhiệt độ màu của ánh sáng vào khoảng 5500 0K
và chỉ số hoàn màu CRI - Color Rendering Index (cho biết mức độ phản ánh
trung thực màu sắc các đối tượng được chiếu sáng của một nguồn sáng) của
ánh sáng là 100%. Tuy nhiên, ánh sáng tự nhiên thường không ổn định. Chính
vì vậy, việc so màu thường được khuyến cáo thực hiện dưới ánh sáng nhân
tạo. Nguồn sáng nhân tạo lí tưởng được miêu tả như sau: nguồn sáng đó
phải chứa tất cả các bước sóng trong phổ nhìn thấy được (380 - 780 nm),
nhiệt độ màu của nguồn sáng nằm trong khoảng 5500 - 6500 0K, chỉ số hoàn
màu CRI lớn hơn 90% [39].
* Nền quan sát
Cảm nhận màu răng của người quan sát bị ảnh hưởng bời nhiều yếu tố
xung quanh. Trong đó có những yếu tố không thay đổi được như màu lợi, màu
răng lân cận, màu da, màu mắt… và những yếu tố có thể thay đổi được như
màu áo, son môi, màu nền tường quan sát… [40].
-

Về độ sáng: Nền quan sát tối hơn sẽ làm cho răng trở nên sáng hơn và

-


ngược lại.
Về tông màu: Màu sắc răng được cảm nhận khác nhau khi quan sát trên các
nền có tông màu khác nhau. Azad [40] nghiên cứu ảnh hưởng của tông màu
da đối với màu sắc răng, cho kết luận: Những người có nước da trung bình
đến tối màu thì màu răng sáng hơn, những người da trắng thì răng tối màu

-

hơn; nam giới có màu răng tối hơn, còn nữ giới có màu răng sáng hơn.
Về độ bão hòa màu: Một nền ít màu sẽ làm cho răng có màu sắc đậm hơn
và ngược lại. Ngoài ra, nền có tông màu và độ bão hòa tương tự răng sẽ
làm cho việc phân biệt màu răng trở nên khó khăn hơn [41].

* Người quan sát
Đánh giá màu sắc răng là quá trình chủ quan vì các cá thể khác nhau có
đáp ứng khác nhau với các kích thích ánh sáng khác nhau, tại các thời điểm
khác nhau [40]. Bên cạnh đó có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng lựa
chọn màu của cá thể.


99

Tuổi: Theo thời gian, giác mạc và thủy tinh thể bị lão hóa và trở nên vàng
hơn, dẫn đến việc khó phân biệt giữa màu trắng và màu vàng [42].
- Mệt mỏi: Khả năng phân tích màu của mắt giảm nhanh khi quan sát vật lâu
vì mắt phải tập trung vào một điểm, thường gây ra hiện tượng mỏi mắt,
khiến việc cảm nhận màu sắc thiếu chính xác [2].
- Dinh dưỡng: Ăn nhiều chất béo bão hòa có thể làm thoái hóa điểm vàng
dẫn tới mất dần thị lực. Ăn nhiều rau trái, chất chống oxy hóa như vitamin

C, E có thể trì hoãn hoặc làm giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh [2].
- Metamerism: Là hiện tượng mà hai màu có vẻ giống nhau ở nguồn sáng
này nhưng lại khác nhau dưới nguồn sáng khác. Vấn đề này hay gặp trong
so màu: màu răng có vẻ giống nhau ở ánh sáng phòng răng nhưng lại khác
nhau ở ánh sáng ban ngày [43].
- Mù màu: Là một bệnh di truyền, những người bị mù màu không thể phát
hiện được màu đỏ, xanh lá cây và màu xanh dương nhưng vẫn còn khả
năng phân biệt độ sáng tối [4].
- Thuốc: Một số thuốc có tác dụng phụ lên thị lực, các thuốc gây tăng nhãn
áp, đục thủy tinh thể, mờ giác mạc khiến việc so màu thiếu chính xác [4].
1.1.5. Các phương pháp xác định màu sắc răng
1.1.5.1. Sử dụng bảng so màu có hướng dẫn
Sử dụng bảng so màu có hướng dẫn để so màu răng ngày càng được áp
dụng phổ biến trong nha khoa [43]. Các bảng so màu được phân thành hai loại:
* Các bảng so màu được xây dựng dựa trên các tông màu chính:
®
• Bảng so màu Vitapan Classical :
Vitapan Classical® là bảng hướng dẫn so màu cổ điển được giới thiệu vào
năm 1956 bởi hãng Vita với tên gọi Vita Lumin Vacuum ®. Nó bao gồm 16 thẻ
màu, được phân thành bốn nhóm tông màu (Hue) khác nhau: A (nâu đỏ), B
(vàng đỏ), C (xám), D (xám đỏ). Mỗi nhóm tông màu có 4 mức độ bão hòa màu
(Chroma) từ 1 đến 4. [43]
-

Bảng 1.1: Phân độ màu theo thang điểm Vita [4]
B1 A1 B2 D2 A2 C1 C2 D4 A3 D3 B A3, B4 C3 A4 C4
3 5
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16
Sáng nhất


Tối nhất


10
10

Hình 1.5: Bảng so màu Vitapan
Classical® [24]


Bảng so màu Chromascop® :

Chromascop® là sản phẩm của hãng Ivoclar-Vivadent, được giới thiệu vào
năm 1990, bao gồm 20 thẻ màu, được chia thành 5 nhóm tông màu khác nhau:
100 (màu sáng), 200 (vàng cam), 300
(nâu), 400 (xám), 500 (nâu sẫm). Mỗi
nhóm tông màu bao gồm 4 mức độ bão
hòa màu (10-20-30-40). So với Vitapan
Classical®, bảng so màu Chromascop® đa
dạng hơn về độ bão hòa màu. [43]
Hình 1.6: Bảng so màu Chromascop® [24]
* Các bảng so màu được xây dựng dựa trên độ sáng của màu:
Ở đây muốn nói đến hệ thống các bảng so màu 3D của Vita, Vita System
3D Master®.


Bảng so màu Tooth Guide 3D Master® :

Được đưa ra thị trường từ năm 1998, đây là bảng so màu đầu tiên được
xây dựng thực sự dựa trên ba tính chất cơ bản của màu sắc. Mỗi màu sẽ được

biểu diễn như sau: Số thứ nhất - Chữ cái - Số thứ hai, trong đó, số thứ nhất đại
diện cho độ sáng của màu, số thứ hai biểu thị mức bão hòa màu, còn chữ cái
tương ứng với tông màu. Tooth Guide 3D Master ® bao gồm 26 thẻ màu được
phân thành 5 nhóm độ sáng sắp xếp theo mức độ giảm dần từ nhóm 1 đến
nhóm 5. Ngoài ra, có bốn nhóm độ sáng trung gian được đề xuất, đó là 1,5;
2,5; 3,5 và 4,5. Trong các nhóm 2, 3, 4, các thẻ có tông màu khác nhau được
chia thành 3 cột, kí hiệu bằng chữ: L (Less red - Tông màu ít đỏ hơn, tức có
màu vàng trội hơn), M (Medium - trung gian) và R (Redder - Tông màu đỏ
hơn, tức có màu đỏ trội hơn). Trong khi đó, nhóm độ sáng 1 và 5 chỉ có một


11
11

nhóm tông màu là M. Các thẻ trong mỗi cột tông màu lại có các độ bão hòa
màu khác nhau: Nhóm tông màu M có 5 độ bão hòa được đại diện bởi các con
số đi từ 1 (nhạt) đến 3 (đậm), trong đó có hai mức độ bão hòa trung gian được
đề xuất thêm: 1; 1,5; 2; 2,5; 3; Nhóm L và R có 3 độ bão hòa cho mỗi nhóm:
1,5; 2; 2,5. [24]
Bảng so màu Tooth Guide 3D Master® ưu tiên trước hết việc lựa chọn
tính chất quan trọng nhất của màu sắc là độ sáng, sau đó mới đến độ bão hòa
và tông màu. Điều này cho phép việc so màu diễn ra một cách khoa học và
nhanh hơn so với các hệ thống so màu ở trên. Ngoài ra, sự đa dạng của các
thẻ màu cũng cho phép việc so màu được
chính xác hơn. Chính vì vậy, sự ra đời của
bảng so màu Tooth Guide 3D Master® có
thể được xem như một bước tiến lớn trong
việc so màu răng bằng các bảng so màu có
hướng dẫn. [24]
Hình 1.7: Bảng so màu Tooth Guide 3D Master® [24]



Hệ thống so màu Linearguide 3D Master® :

Bảng so màu Linearguide 3D Master® được tạo thành dựa trên nguyên lí
tương tự Tooth Guide 3D Master®, nhưng cách sắp xếp các thẻ màu thì lại
khác. Bảng so màu Linearguide 3D Master® bao gồm 26 thẻ, được sắp xếp
không phải trong duy nhất một bảng màu mà là 6 bảng màu khác nhau. Bảng
màu thứ nhất cho phép lựa chọn độ sáng, 5 bảng màu còn lại (mỗi bảng màu
tương ứng một độ sáng) cho phép lựa chọn độ bão hòa màu và tông màu [24].

Hình 1.8: Hệ thống so màu Linearguide 3D Master® [24]


12
12

1.1.5.2. So màu bằng máy:
Các máy so màu ra đời giúp việc so màu chính xác và khách quan hơn so
màu bằng mắt. So màu bằng máy không bị ảnh hưởng của môi trường xung
quanh, kết quả có thể tái lập được và truyền tải thành dữ liệu dễ dàng [5].
* So màu với sự trợ giúp của máy ảnh kĩ thuật số:
Một số tác giả trên thế giới đã mô tả qui trình so màu răng thông qua ảnh
chụp bởi máy ảnh kĩ thuật số và phần mềm xử lí ảnh sử dụng bảng so màu mẫu
trên máy tính. Để thực hiện so màu răng bằng phương pháp này, tất cả các hình
ảnh phải được chụp trong cùng một điều kiện ánh sáng. Trên thực tế điều này rất
khó đạt được. Máy ảnh kĩ thuật số là một công cụ rất hữu ích trong việc trao đổi
thông tin với xưởng, làm hoàn thiện việc so màu răng, nhưng trong tất cả các
trường hợp, nó không thể được sử dụng đơn độc để xác định màu răng. [44],
[45],[46],[47].

* So màu bằng mắt được trợ giúp bởi camera trong miệng:
Hãng Acteon Sopro của Pháp đã cho ra đời sản phẩm camera trong
miệng Sopro 717® nhằm hỗ trợ việc so màu bằng mắt thông thường. Qua đó,
hình ảnh của răng sẽ được phóng to và nguồn
sáng ở đây được cung cấp trực tiếp bởi đèn LED

gắn

ở đầu của camera. Kinh phí đầu tư cho hệ thống

này

rẻ hơn so với hệ thống sắc kế điện tử và phổ
quang kế [24].
Hình 1.9: Camera trong miệng Sopro 717® [24]
* Sắc kế điện tử:
Sắc kế điện tử được sử dụng để đo màu răng dựa theo nguyên lí cảm
nhận màu sắc của tế bào cảm quang ở hố mắt. Thiết bị này đưa ra kết quả
tương tự với cảm nhận màu sắc của người quan sát tiêu chuẩn. Tuy nhiên,
đánh giá màu bằng sắc kế có thể gặp phải sai số do hiệu ứng mất rìa và do sự
thiếu chính xác của máy khi gặp lỗi hệ thống, rất khó kiểm soát [48].
* Phổ quang kế:


13
13

Phổ quang kế là dụng cụ đo bước sóng ánh sáng phản xạ từ một vật thể ở
nhiều điểm dọc theo quang phổ khả kiến và các phép đo cho ta dữ liệu về các
phổ màu. Hiện nay, phổ quang kế là dụng

cụ đo màu sắc chính xác nhất [49]. Có rất
nhiều loại phổ quang kế của các hãng
khác nhau như: SpectroShade Micro ®, Xrite®, Shade-X®, Vita Easyshade®, Vita
Easyshade Compact®…
Hình 1.10: Máy Vita Easyshade
Compact® [43]
1.1.6. Một số nghiên cứu màu sắc răng trên thế giới và ở Việt Nam:
1.1.6.1. Một số nghiên cứu màu sắc răng trên thế giới:
Có nhiều tác giả trên thế giới tiến hành nghiên cứu và đưa ra các chỉ số
màu sắc theo không gian màu CIE La*b*:
Cho và cộng sự [23] đánh giá màu răng bằng phổ quang kế đưa ra kết
quả theo phổ màu Munsell là: C (20,1 42) và h0 (75,5 3,1).
Bảng 1.2: Kết quả nghiên cứu của O’Brien và cộng sự [5] trên 24 răng cửa
giữa hàm trên tại Mĩ bằng phổ quang kế:
Chỉ số
Vị trí
Cổ răng
Thân răng
Rìa cắn

Vita 2D

L

a*

b*

8,9
6,5

3,9

72,6
72,4
71,4

1,5
1,2
0,9

18,4
16,2
12,8

Bảng 1.3: Kết quả nghiên cứu màu sắc răng cửa giữa của Hasegawa và
cộng sự [7] trên 87 bệnh nhân tuổi 13-84 ở Nhật Bản bằng phổ quang kế:
Chỉ số
Vị trí
Cổ răng
Thân răng
Rìa cắn

L

a*

b*

69,0
73,0

64,0

8,5
4,5
2,0

20,0
16,5
13,0


14
14

Bảng 1.4: Một số nghiên cứu trên thế giới về màu sắc răng cửa giữa hàm
trên tại vị trí giữa thân răng:
Nội dung
Cỡ
Quốc gia
Tuổi
mẫu

Tác giả

Phương
pháp

Azad et al. [6]

Phổ quang

kế

Pakistan

Cho et al. [4]

Sắc kế

Hàn
Quốc

47

Douglas [50]

Sắc kế

Canada

7



120

Gazalo - Diaz Phổ quang
[8]
kế
Tuncdermir et
Sắc kế

al. [9]
Phổ quang
Zhu et al. [10]
kế
Zhao - Zhu Phổ quang
[11]
kế

Thổ Nhĩ

Trung
Quốc
Trung
Quốc

100 18-35

L

a*

b*

62,29
5,45

1,33
1,34

8,65

3,44

>19 57,8 3,5 -1,0 0,9 6,7 3,1
?

54,76
4,16

0,6
0,05

>18 73,3 7,7 4,7 2,3

125 16-63
163 20-73
70

Các chỉ số màu

18-70

82,4
4,85
54,91
6,39
51,4
8,02

-0,25
1,52

-1,69
1,56
0,62
0,14

6,37
3,65
18,8
4,9
20,2
5,75
9,19
5,65
0,15
0,02

1.1.6.2. Một số nghiên cứu màu sắc răng ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu màu sắc răng bình thường trong
cộng đồng còn ít. Sau đây là một số nghiên cứu trên các nhóm răng bình
thường và nhóm răng bị nhiễm sắc:
Võ Thị Phương Linh [2] nhận xét màu sắc nhóm răng phía trước trên 90
đối tượng đưa ra các chỉ số màu của nhóm răng cửa hàm trên: Vita 2D (4,6
3,7), C (19,9

4,7), h0 (94,4

5,7), L (84,6 6,8), a* (-1,25

1,9), b* (19,8


4,8).
Nguyễn Thị Châu [12] đánh giá màu sắc răng của nhóm răng cửa trên ở
78 bệnh nhân trước khi tẩy trắng cho kết quả: Vita 2D (13,2 1,8), C (27,8
4,3), h0 (79,4 4,9), L (71,0 4,2), a* (5,0 1,9), b* (27,3 4,4).
Phạm Thị Thu Hiền và cộng sự [13] đánh giá trên 10 bệnh nhân có răng
bị nhiễm màu ngoại sinh theo thang điểm Vita 2D là 11,3 và trên 20 bệnh
nhân nhiễm tetracyclin có màu răng tính theo thang điểm Vita 2D là 14,8.
Nguyễn Trà Mi [14] nhận xét màu sắc của 60 răng vĩnh viễn hàm nhỏ
bằng phổ quang kế cho kết quả sau:


15
15

Bảng 1.5: Màu sắc răng theo không gian màu CIE La*b* trong nghiên
cứu của Nguyễn Trà Mi [14]:
Giá trị
Cổ răng
Thân răng
Rìa cắn

n
60
60
60

L
80,8 5,7
80,1 5,8
71,9 6,8


a*
0,3 2,0
1,1 2,0
0,7 1,7

b*
31,1 5,0
27,8 4,3
23,0 4,8

1.2. Hình thể răng
1.2.1. Đặc điểm giải phẫu học các răng cửa hàm trên
1.2.1.1. Đặc điểm chung
Răng cửa giữa và răng cửa bên hàm trên giống nhau rất nhiều về đặc
điểm hình thái bởi vì chúng cùng thực hiện chức năng giống nhau, đó là cắt
và xé [51]. Nhìn theo chiều ngoài trong, các răng cửa hàm trên có những đặc
điểm chung như sau so với các răng cửa dưới: [51],[52],[53]
-

To hơn các răng cửa dưới tương ứng
Răng cửa bên, trừ kích thước nhỏ hơn, trông tương tự răng cửa giữa. Có

-

thể nói răng cửa bên là răng cửa giữa bị tiêu giảm về hình thể
Gờ bên và cingulum rõ hơn răng cửa dưới. Hõm lưỡi sâu hơn răng cửa dưới
Mặt ngoài tròn hơn mặt trong khi quan sát từ phía cắn
Kích thước thân răng theo chiều gần xa lớn hơn chiều ngoài trong


1.2.1.2. Răng cửa giữa hàm trên:
-

-

Là răng rộng nhất trong nhóm răng cửa
Mặt ngoài ít lồi hơn so với mặt ngoài của răng cửa bên; gần như phẳng ở
phần giữa thân răng và rìa cắn
Góc gần rìa cắn hơi nhọn, góc xa tròn
Mặt ngoài:
• Có dạng hình thang, đáy lớn ở phía cắn
• Điểm lồi tối đa thường ở một phần ba cắn
• Đường viền gần khá thẳng, đường viền xa hơi cong
• Góc gần của rìa cắn vuông, góc xa tròn
• Lồi nhiều ở một phần ba cổ răng; một phần ba giữa và một phần ba
cắn nhìn chung nhẵn


16
16

-

Mặt trong hay mặt lưỡi thường có hình xẻng
Đường cổ răng là một cung tròn đều đặn lồi về phía chóp [53],[54],[55].

1.2.1.3. Răng cửa bên hàm trên:
-

Răng cửa bên hàm trên trông gần giống răng cửa giữa hàm trên vì nó bổ

sung chức năng và hình thái thẩm mĩ cho răng cửa giữa; các kích thước

-

đều nhỏ hơn răng cửa giữa
Mặt ngoài:
• Nhỏ hơn răng cửa giữa theo chiều gần xa và chiều nhai nướu
• Hình dạng tương tự răng cửa giữa nhưng rìa cắn tròn hơn, góc gần
và góc xa rìa cắn cũng tròn hơn nên thân răng trông tròn hơn răng

-

cửa giữa
• Đường cổ răng cong đều đặn nhưng hẹp hơn răng cửa giữa
Mặt trong: ở người Châu Âu, hõm lưỡi răng cửa bên thường sâu hơn răng
cửa giữa. Trên người Việt thường ngược lại, hõm lưỡi răng cửa giữa

-

thường sâu hơn răng cửa bên. Đây là một đặc trưng chủng tộc
Răng cửa bên rất hay dị dạng, tỉ lệ dị dạng chỉ xếp sau răng khôn [56].

1.2.2. Mối tương quan giữa kích thước và hình thể thân răng các răng cửa
hàm trên với các kích thước và hình dạng khuôn mặt:
Đã có nhiều hệ thống phân loại hình dạng thân răng cửa được xây dựng
nhằm mục đích phục vụ cho việc thiết kế hình dạng thân răng giả sao cho gần
nhất với hình dạng của răng thật.
Ngay từ cuối thế kỉ XIX, Dalbey và Wavrin, nhận thấy có sự liên quan
hình thái rất mật thiết giữa khung xương mặt với hình dáng của thân răng cửa
giữa hàm trên, đã chỉ ra ba loại mặt mà chúng ta sẽ thừa nhận, vì cách phân

loại này có một ý nghĩa thực dụng: loại mặt hình tam giác, hình vuông và
hình ô van [57].
Dựa trên nhận xét của Dalbey và Wavrin, tác giả Nelson đã tập hợp
những dấu hiệu nêu rõ mối liên quan hình thái của cung răng, khuôn mặt và
thân răng cửa giữa hàm trên và gọi đó là Bộ ba Nelson (Triade de Nelson).


17
17

Ông cho rằng nếu ta chụp ảnh một chiếc răng cửa giữa của một bệnh nhân
nào đó, đem phóng đại cho vừa bằng kích thước ảnh của mặt bệnh nhân ấy thì
ta thấy đường quanh răng cửa giữa phù hợp với khuôn mặt từ trán đến cằm;
nó cũng trùng với hình thái cung răng [57].
Năm 1913 Leon William nghiên cứu nhân trắc học hơn 1.000 hộp sọ tại
trường Đại học Georgia ông đã tìm thấy có ba hình dạng của răng cửa giữa
hàm trên đó là: hình vuông, hình trứng và hình tam giác. Ông quan sát thấy
rằng những phác thảo của

khuôn mặt, khi đảo ngược, có

thể tương ứng với hàm răng

cửa giữa hàm trên, kết quả

trong thẩm mỹ mong muốn. Vì vậy được gọi là “lý thuyết hình thái học” về sự
phù hợp dạng của khuôn mặt và các hình dạng thân răng cửa giữa hàm trên. Lý
thuyết này mặc nhiên công nhận và phổ biến nhất cho sự lựa chọn răng giả khi
làm phục hình. Nó được đề cập ở hầu hết các sách giáo khoa phục hình răng giả
trên thế giới. Nhiều tác giả đồng ý với lý thuyết này, nhưng một số nghiên cứu

vẫn không chấp thuận [16].
Hình 1.11: Ba hình dạng thân răng theo Leon William [17]
Năm 1980, Mavroskoufis và G. M. Ritchie [58] ở trường Nha khoa Luân
Đôn đã nghiên cứu trên 70 mẫu hàm thạch cao của sinh viên, đa số là da
trắng, về mối tương quan giữa hình thể răng cửa giữa hàm trên và hình dạng
khuôn mặt. Các tác giả đã nhận thấy rằng chỉ có 31,3% trường hợp có sự
đồng dạng giữa hình thể răng cửa giữa hàm trên và hình dạng khuôn mặt. Họ
đã kết luận rằng không có mối liên quan mật thiết nào giữa hình thể răng cửa
giữa hàm trên và hình dạng khuôn mặt, và do vậy việc lựa chọn răng giả trên
cơ sở giả thiết Luật hài hòa là không có giá trị.
Năm 1988 Philip Sellen và Daryll Jagger [59] đã nghiên cứu trên 50 đối
tượng người da trắng ở độ tuổi từ 20 đến 31 để đánh giá 5 yếu tố thẩm mỹ là:


18
18

Hình dạng khuôn mặt, hình thể răng cửa giữa, hình dạng cung răng, hình dạng
vòm miệng và sự sắp xếp các răng hàm trên. Kết quả của Philip và Daryll cho
rằng mối tương quan giữa ba yếu tố hình dạng khuôn mặt, hình dạng thân
răng cửa giữa hàm trên và hình dạng cung răng là không đủ lớn để bổ trợ cho
bộ ba thẩm mỹ của Nelson.
Năm 2004, trong luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú, Đặng Thị Vỹ [18] đã
tiến hành nghiên cứu trên 100 sinh viên trường Đại học Y Hà Nội độ tuổi từ
18-25 nhằm xác định mối tương quan giữa hình dạng, kích thước cung răng
với hình dạng khuôn mặt và hình thể răng cửa giữa hàm trên. Kết quả thu
được cho thấy mức độ tương quan này cũng chỉ ở mức 33%.
Năm 2011 Laith Mahmoud Abdulhadi đã kiểm tra mối quan hệ giữa hình
thái khuôn mặt đảo ngược và răng cửa giữa hàm trên ở Mã Lai và Trung
Quốc. 120 tình nguyện viên đáp ứng các tiêu chí được xác định tham gia vào

nghiên cứu. Phép đo được thực hiện trực tiếp và hình ảnh kỹ thuật số chụp 15
ảnh mặt thẳng của các đối tượng nghiên cứu. Một phân tích hình ảnh được sử
dụng để phân chia hình ảnh của khuôn mặt thành 14 đường có khoảng cách
bằng nhau từ điểm trước nhất của cằm và đến điểm thấp nhất của mũi. Răng
cửa giữa hàm trên cũng được chia đều thành 14 đường co khoảng cách bằng
nhau từ cổ răng lâm sang đến vị trí rộng nhất và tiếp xúc với răng của bên.
Kết quả cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hình thái khuôn
mặt và ngược hàm răng cửa trung tâm ở Mã Lai và Trung Quốc, hay nói cách
khác rằng không có mối quan hệ giữa hình thái khuôn mặt và ngược hàm răng
cửa trung tâm ở Mã Lai và Trung Quốc [19].
Gần đây nhất, trong năm 2015, một nghiên cứu của Alvarado và Cabello
[20] được thực hiện trên 124 đối tượng nghiên cứu là sinh viên nha khoa từ 17
đến 28 tuổi tại Lima, Peru nhằm mục đính xác định mối tương quan giữa hình
dạng khuôn mặt và hình dạng thân răng cửa giữa bên phải hàm trên theo Luật


19
19

hài hòa của Williams. Kết quả cũng chỉ cho thấy 43,5% ở phương pháp đo
lường trực tiếp và 41,1% ở phương pháp đo sử dụng máy ảnh về mức độ
tương quan giữa hình dạng khuôn mặt và hình thể răng cửa giữa hàm trên.
Kết quả này không ủng hộ cho thuyết hình thái của Williams.
1.2.3. Các phương pháp đánh giá hình thể thân răng cửa hàm trên:
Có hai phương pháp phổ biến, thường được sử dụng trong các nghiên
cứu đánh giá hình thể thân răng cửa giữa hàm trên. Hai phương pháp này sẽ
được miêu tả sau đây:
1.2.3.1. Phương pháp đánh giá dựa vào mối tương quan giữa các kích thước
gần - xa của thân răng:
Trong hai nghiên cứu của Alvarado [20] và Ibrahimagić [21] về đánh giá

tương quan giữa hình dạng thân răng cửa giữa hàm trên và hình dạng khuôn
mặt, họ đã đánh giá hình dạng thân răng cửa dựa vào mối tương quan giữa ba
kích thước gần xa của thân răng, đó là:


20
20

Hình 1.12: Các hình dạng thân răng cửa giữa hàm trên theo Ibrahimagić
và Jérolimov [21]
-

Chiều rộng vùng cổ răng (CW: Cervical width): được tính bằng khoảng
cách đo được giữa hai đỉnh nhú lợi gần-xa của răng;

-

Chiều rộng của thân răng: được tính bằng khoảng cách đo được giữa hai
điểm tiếp xúc với hai răng bên cạnh (CPW: Contact point width);

-

Chiều rộng vùng rìa cắn (IW: Incisal width).


21
21

Phương pháp này có thể được tiến hành trực tiếp trên bệnh nhân hoặc trên
mẫu thạch cao, hay đo đạc qua ảnh chụp. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ tiến

hành đánh giá hình thể thân răng bằng phương pháp đo đạc qua ảnh chụp.
1.2.3.2. Phương pháp đối chiếu với răng mẫu:
Paranhos trong hai nghiên cứu của mình với đồng nghiệp [22],[23] đã sử
dụng phương pháp đánh giá hình dạng

thân răng cửa giữa
Hình thể thân răng

hàm trên nhờ sự hỗ trợ của máy tính.

Trong đó, các răng

sẽ được chụp hình, sau đó hình ảnh sẽ

được phóng to và

đem đối chiếu với ảnh của các thân

răng cửa đã được

phân loại trước trong một album mẫu.

Hình vuông

album được phân loại theo Kina và

Các răng cửa trong
Hình ô van

Hình tam giác


Bruguera [22] thành

các nhóm thân răng hình vuông, hình tam giác và hình ô van. Sau khi đối
chiếu sẽ đưa ra được kết luận về hình dạng của thân răng cần đánh giá.
Hình 1.13: Một trang của album chứa các hình ảnh răng theo phân loại
của Kina và Bruguera và thân răng cửa giữa hàm trên bên phải của một
đối tượng nghiên cứu [22].
Bệnh nhân

Hình thể thân răng
Hình vuông
Hình ô van
Hình tam giác

1.3. Người Pa Cô tại huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế:
Việt Nam hiện có 63 tỉnh, thành phố. Trước năm 2009, chỉ có 54 dân tộc
anh em được hiện diện trong danh mục cộng đồng người dân Việt. Mặc dù
người dân tộc Pa Cô đã có từ lâu và sinh sống trên vùng núi cao, biên giới A
Lưới, một huyện phía tây của tỉnh Thừa Thiên Huế, giáp ranh với nước Cộng
Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào nhưng chưa có trong danh mục. Năm 2009, Pa
Cô đã trở thành dân tộc thứ 55 được công nhận trong đại cộng đồng các dân
tộc của Việt Nam [60].


22
22

Theo số liệu năm 2009, trong 21 xã, thị trấn của huyện A Lưới có 19 xã
với 6.338 hộ gia đình và 34.159 người dân tộc thiểu số, chiếm hơn 80% dân

số toàn huyện. Nơi đây có 8 dân tộc thiểu số anh em sinh sống gồm Pa Cô, Tà
Ôi, Cơ Tu, Vân Kiều, Pa Hy, Mường, Tày, Nùng và dân tộc Kinh đến xây
dựng kinh tế mới năm 1976 sau ngày đất nước được hoàn toàn thống nhất.
Địa bàn huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, huyện Hướng Hóa, huyện Đa
Krông, tỉnh Quảng Trị là đất sống của người Pa Cô cổ trước đây và gần
20.000 người dân tộc Pa Cô sinh sống hiện nay. A Lưới có thể xem là thủ phủ
của cộng đồng người dân tộc Pa Cô khi có đến 9/21 xã, thị trấn của toàn
huyện mang tên “Hồng” với đa số là người Pa Cô như Hồng Thủy, Hồng Vân,
Hồng Trung, Hồng Kim, Hồng Bắc, Hồng Quảng, Hồng Thái, Hồng Thượng,
Hồng Hạ. Trong đó có 4 xã người Pa Cô chiếm đa số tuyệt đối về mặt dân số
là Hồng Thủy, Hồng Bắc, Hồng Trung và Hồng Vân [60].

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu:
-

Thời gian: Từ 10/2015 đến 05/2016.
Địa điểm nghiên cứu: Huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

2.2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nhóm người dân tộc Pa Cô của huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế trong
độ tuổi 18-25.


23
23

2.2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn:

Quốc tịch Việt Nam hoặc có cha mẹ, ông bà nội ngoại là người Việt Nam
Là người dân tộc Pa Cô trú tại huyện A Lưới có độ tuổi từ 18-25
Tình trạng sức khỏe bình thường
Đủ bốn răng cửa hàm trên
2.2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
- Răng mòn nhiều, không còn rõ các mốc đo
- Răng gãy, sứt mẻ làm mất các mốc đo
- Đang điều trị nắn chỉnh răng
- Răng mọc lệch lạc gây cản trở việc so màu cũng như đo đạc đánh giá
-

hình dạng thân răng.
- Đã trải qua các can thiệp làm ảnh hưởng đến màu sắc răng và hình thể
thân răng:
+ Có phục hình hoặc hàn phục hồi trên nhóm răng nghiên cứu
+ Đã điều trị tủy các răng cần so màu
+ Đã điều trị tẩy trắng răng
- Có các bệnh lí làm ảnh hưởng đến màu sắc răng và hình thể thân răng:
+ Sâu các răng cửa hàm trên
+ Răng đổi màu do tủy hoại tử hoặc xung huyết tủy
+ Nhiễm tetracyclin hoặc thiểu sản men ngà trên các răng cần so màu
+ Bất thường về hình dạng và thể tích răng
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu:
2.2.2.1. Thiết kế nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, nhằm đánh giá màu sắc và
hình dạng thân răng của bốn răng cửa hàm trên.
2.2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu:
Được tính dựa theo công thức tính cỡ mẫu cho việc ước tính một tỉ lệ
trong quần thể [61]:
Trong đó:

-

: Cỡ mẫu nghiên cứu;
: Mức ý nghĩa thống kê của tỉ lệ tính được ở nhóm đối tượng nghiên cứu; giá trị =

-

0,05, tương ứng với độ tin cậy là 95%;
: Hệ số tin cậy tương ứng với giá trị vừa nêu trên; 1,96;


24
24

-

: Tỉ lệ răng hình ô van của răng cửa giữa hàm trên bên trái trong nghiên
cứu của Trần Đức Trinh (2013) [17] trên 146 học sinh lứa tuổi 15-17 tại

-

Hà Nội, = 48,6%;
: Khoảng sai lệch mong muốn giữa tỉ lệ thu được từ mẫu ( và tỉ lệ quần thể
(P). Ta chọn = 0,07.
Từ công thức trên tính được cỡ mẫu nghiên cứu = 100.
Trên thực tế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 128 đối tượng đạt các

tiêu chuẩn chọn mẫu.
2.2.2.3. Kĩ thuật chọn mẫu:
- Chọn mẫu có chủ đích theo tiêu chuẩn chọn mẫu với tỉ lệ nam:nữ xấp xỉ 1:1.

-

Chọn những đối tượng người dân tộc Pa Cô có ngày tháng năm sinh nằm

-

trong khoảng từ 01/01/1990 đến 31/12/1997.
Sàng lọc các đối tượng trên theo tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ
đã nêu.

2.2.2.4. Biến số nghiên cứu:
Bảng 2.1: Các biến số nghiên cứu

Mục
tiêu 1

Mục
tiêu 2

Nhóm biến số

Loại biến

Giới tính

Định tính

Độ sáng, độ bão hòa và
tông màu tại ba vị trí: 1/3 cổ
răng, 1/3 giữa thân răng, 1/3 Định tính

rìa cắn của bốn răng cửa
hàm trên
Tính trong mờ của bốn răng
Định tính
cửa hàm trên
Hiệu ứng Opal của bốn răng
Định tính
cửa hàm trên
Hiện tượng ánh xà cừ trên
Định tính
bốn răng cửa hàm trên
Chiều rộng vùng cổ răng
Định lượng
của các răng (CW)
Chiều rộng của thân răng
Định lượng
giữa hai điểm tiếp xúc với

Phương pháp thu thập
Phỏng vấn, ghi vào phiếu
khám
So màu bằng bảng so
màu Vita 3D Master®,
ghi vào phiếu khám,
chụp ảnh lưu

Đánh giá trực tiếp trên
bệnh nhân

Đo đạc bằng phần mềm

AutoCAD 2008® trên
ảnh chụp


25
25

răng bên cạnh (CPW)
Chiều rộng vùng rìa cắn
(IW)
Hình dạng thân răng của
bốn răng cửa hàm trên

Định lượng
Định tính

Đánh giá từ các kích
thước ngang của thân
răng thu thập được

2.2.2.5. Công cụ thu thập số liệu:
-

Phiếu khám;

-

Bộ khay khám răng: khay quả đậu, gương, thám trâm, kẹp gắp;

-


Bông, cồn, găng tay;

-

Công cụ so màu răng:
+ Tấm xăng màu xám;
+ Bảng so màu Vita 3D Master®;

-

Công cụ chụp ảnh:
+ Máy ảnh Nikon D300, ống kính 80-200 f2.8;
+ Dụng cụ banh miệng;
+ Phông đen kết hợp thước chuẩn hóa;
+ Mã số bệnh nhân.

-

Phần mềm AutoCAD 2008®

Hình 2.1: Bảng so màu Tooth Guide 3D Master®


×