Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Đề xuất một số bài tập nhằm sửa chữa những sai lầm thường mắc khi học kỹ thuật nhảy cao kiểu bước qua cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.31 KB, 16 trang )

TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14

MỤC LỤC
Nội dung
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Tổ chức nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng
3. Các giải pháp
4. Kết quả đạt được
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị


Tài liệu tham khảo

Trang
02
02
02-03
03-04
04
05
05-08
08-09
09-11
11-12
13
13
13
14

1


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục thể chất cho học sinh là một bộ phận cơ bản trong hệ thống giáo
dục thể chất cho nhân dân, là một nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng. Đảng ta cho rằng: “Giáo dục thể chất phải luôn hướng vào
mục tiêu chủ yếu là bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho nhân dân, góp phần đào
tạo cho con người phát triển toàn diện có sức khỏe dồi dào, có thể chất cường
tráng, có dũng khí kiên cường để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Đây là một vấn đề quan trọng gắn với vấn đề xây dựng đất nước, với

hạnh phúc nhân dân và là một trong những mối quan tâm hàng đầu của chế độ
ta”. Để đáp ứng được nhiệm vụ quan trọng đó thì giáo dục thể chất cho nhân
dân, học sinh là việc làm không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Bác Hồ đã
nói “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới”. Việc gì cũng cần
có sức khỏe “Nên tập luyện thể dục” và coi đó “ Là bổn phận của người dân
yêu nước”.
Nghị quyết Hội nghị lần IV Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII đã
khẳng định “ Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây
dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”
Với lực lượng chiếm gần 25% dân số của cả nước học sinh đóng vai trò
cực kỳ quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như phong
trào TDTT của nước nhà. Xuất phát từ mục tiêu cao cả đó Đảng, Nhà nước ta
xác định rõ vị trí đặc biệt của TDTT trường học và coi việc tập luyện TDTT là
quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992, điều 41 có ghi “Quy định giáo dục thể chất bắt buộc
trong tất cả trường học” Vì vậy để con người có một sức khỏe dồi dào đáp ứng
được nhu cầu của đời sống xã hội thì hoạt động TDTT là hoạt động không thể
thiếu được, nó vô cùng phong phú và đa dạng, nó có ở mọi nơi mọi lúc, tác động
mạnh mẽ đến các mặt giáo dục khác như Đức dục, Trí dục, Mỹ dục. Căn cứ vào
mục đích, tác dụng, nội dung cụ thể thì Đảng ta đã xác định bộ môn Điền kinh
có một vị trí quan trọng trong thể thao trường học bởi vì Điền kinh là một trong
những môn cơ bản của TDTT, là môn dể học dể vận dụng được tất cả các đối
tượng học sinh tham gia tập luyện, nó là bộ phận chủ yếu cấu thành tiêu chuẩn
rèn luyện thân thể. Điền kinh có vai trò quan trọng trong việc giáo dục phát triển
các tố chất vận động như: Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, sự khéo léo.
Xuất phát từ mục đích trên, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
“Đề xuất một số bài tập nhằm sửa chữa những sai lầm thường mắc khi học
kỹ thuật nhảy cao kiểu bước qua cho học sinh”
2. Mục đích nghiên cứu:

- Qua nghiên cứu chúng tôi lựa chọn các bài tập bổ trợ nhằm nâng cao thành
tích môn nhảy cao “Kiểu bước qua” cho học sinh nam lớp 9 Trường THCS
- Thông qua quá trình điều tra sư phạm để áp dụng các bài tập bổ trợ vào một số
đối tượng nghiên cứu và với kết quả nghiên cứu của đề tài này mong được đóng
góp vào sự nghiệp giáo dục, làm phong phú thêm phương tiện giáo dục thể chất,

2


giúp cho quá trình giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh đạt kết quả
cao.
- Tập các bài tập bổ trợ giúp cho quá trình học tập của học sinh tiếp thu kỹ thuật
và thể lực nhằm nâng cao thành tích môn nhảy cao “ Kiểu bước qua”
3. Phương pháp nghiên cứu:
Để giải quyết các nhiệm vụ của đề tài này chúng tôi đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
3.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã sử dụng các tài liệu sau
đây để tham khảo:
- Sách lý luận và phương pháp giáo dục thể chất.
- Sách sinh lý học TDTT
- Sách điền kinh
- Giáo trình lý thuyết điền kinh
- Sách giáo viên thể dục lớp 6, 7, 8, 9
3.2. Phương pháp toán học thống kê:
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng phương pháp này để xử lý số
liệu và đánh giá hiệu quả của việc ứng dụng các bài tập mà chúng tôi đã lựa
chọn. Bao gồm các công thức toán học thống kê sau:
n


- Công thức tính trung bình cộng:
Trong đó:

∑x

X =

i =1

i

n

X là giá trị trung bình cộng.

xi là giá trị thành tích của từng học sinh
n là số lượng cá thể

∑ (x
n

- Công thức tính phương sai:
- Công thức tính độ lệch chuẩn:

- Công thức tính hệ số biến sai :

δ =
2
x


i =1

i

−X

)

( n < 30)

n −1

δ x = δ x2
T =

X

A

δ A2
nA

−X
+

B

δB2
nB


Dựa vào bảng giá trị T quan sát để tìm trong bảng T ngưỡng xác suất P
ứng với độ tự do?
+ Nếu T tìm ra > TBảng thì sự khác biệt có ý nghĩa ở ngưỡng xác suất P < 5%
+ Nếu T tìm ra < TBảng thì sự khác biệt không có ý nghĩa ở ngưỡng xác suất
P = 5%.
3.3. Phương pháp quan sát sư phạm:
Trong qúa trình giảng dạy chúng tôi đã sử dụng phương pháp quan sát quá
trình sư phạm (Dự giờ đồng nghiệp, tham khảo ý kiến đồng nghiệp, huấn luyện
viên chuyên ngành nhảy cao). Qua đó chúng tôi đã rút ra những kinh nghiệm
3


thực tế và kết hợp với lý luận khoa học để lựa chọn một số bài tập bổ trợ mang
tính giải pháp nhằm nâng cao thành tích môn nhảy cao.
3.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Để giải quyết đề tài này chúng tôi thực hiện phương pháp này theo
phương pháp thực nghiệm song song trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã
phân thành 2 nhóm mỗi nhóm 20 học sinh có cùng lứa tuổi, cùng một địa bàn
dân cư, tương đương nhau về sức khỏe, thành tích, số buổi tập. Nhóm đối chiếu
A tập các bài tập bổ trợ theo giáo án bình thường. Nhóm thực nghiệm B tập theo
mẫu giáo án của chúng tôi.
4. Tổ chức nghiên cứu:
4.1. Thời gian nghiên cứu:
Đề tài này được tiến hành nghiên cứu từ ngày 1/10/2018 đến ngày
10/3/2019 và được tiến hành qua 2 giai đoạn:
4.1.1. Giai đoạn 1: Từ ngày 1/10/2018 đến ngày 30/12/2018 đọc tài liệu lựa
chọn các bài tập bổ trợ tiên tiến, xây dựng đề cương
4.1.2. Giai đoạn 2: Từ ngày 1/1/2019 đến ngày 10/3/2019 thu thập tính toán,
xử lý số liệu, phân tích các số liệu thu được . Hoàn thành đề tài.
4.2. Đối tượng nghiên cứu:

Để giải quyết nhiệm vụ của đề tài tôi đề xuất một số bài tập nhằm sửa
chữa những sai lầm thường mắc khi học kỹ thuật nhảy cao kiểu bước qua cho
học sinh”
4.3. Dụng cụ nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng một số dụng cụ cần
thiết cho học sinh tập luyện như: Thước dây, Bóng chuyền, Dây nhảy, Đồng hồ
bấm dây, Hố nhảy ....

4


II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận:
1.1: Đặc điểm về mặt tâm lý, giải phẩu sinh lý:
1.1.1: Về mặt tâm lý:
Ở lứa tuổi này quá trình tăng trưởng cơ thể của các em chưa kết thúc. Mặc
dù hoạt động thần kinh cao cấp của các em đã đến lúc phát triển cao nhưng ở
một số em vẫn phần nào hưng phấn mạnh hơn ức chế để có những phản ứng
thiếu kìm hãm cần thiết, do đó để làm rối loạn sự phối hợp vận động tính tình,
trạng thái tâm lý lứa tuổi này cũng hay thay đổi, có lúc rất tích cực, hăng hái,
nhưng có lúc lại buồn chán, tiêu cực. Ngay ở tuổi này các em cũng còn hay đánh
giá quá cao năng lực của mình mới chạy, nhảy bao giờ cũng dốc hết sức ngay,
mới tập bao giờ cũng muốn tập nặng ngay các em thường ít chú ý khởi động đầy
đủ, như thế rất dể tốn sức, hay dể xẩy ra chấn thương và chính điều đó đôi lúc
làm ảnh hưởng không tốt trong tập luyện TDTT.
Vì vậy khi tiến hành công tác giáo dục thể chất cho các em ở lứa tuổi này
không chỉ yêu cầu học sinh thực hiện đúng, nhanh những bài tập dưới sự chỉ dẫn
trực tiếp của giáo viên mà còn phải chú ý uốn nắm, luôn nhắc nhở và chỉ đạo,
định hướng và động viên các em hoàn thành nhiệm vụ, kèm theo khen thưởng
để có sự khuyến khích động viên, nói cách khác phải dạy các em biết cách học,

tự rèn luyện thân thể.
1.1.2. Về mặt giải phẩu sinh lý:
Lứa tuổi lớp 9 là lứa tuổi đầu của thanh niên, là thời kỳ đạt được sự
trưởng thành về mặt thể lực, nhưng sự phát triển cơ thể còn kém so với sự phát
triển cơ thể của người lớn. Có nghĩa là lứa tuổi này cơ thể các em đang phát
triển mạnh khả năng hoạt động của các cơ quan và bộ phận cơ thể được nâng
cao cụ thể là:
* Hệ vận động:
- Hệ xương: Ở lứa tuổi này phát triển một cách đột ngột về chiều dài,
chiều dày đàn tính xương giãn. Quá trình cốt hóa xương ở các bộ phận chưa
hoàn tất. Các tổ chức sụn được thay thế bằng mô xương nên cùng với sự phát
triển chiều dài của xương cột sống. Vì vậy mà trong quá trình giảng dạy cần
tránh cho học sinh tập luyện với dụng cụ có trọng lượng quá nặng và các hoạt
động gây chấn động quá mạnh.
- Hệ cơ: Ở lứa tuổi này cơ của các em phát triển với tốc độ nhanh để đi
đến hoàn thiện, nhưng phát triển không đồng đều và chậm hơn chi dưới. Do vậy
khi cơ hoạt động chóng dẫn đến mệt mỏi. Vì vậy khi tập luyện giáo viên giảng
dạy cần chú ý phát triển cơ bắp cho các em.
* Hệ thần kinh:
Ở lứa tuổi này hệ thống thần kinh trung ương đã khá hoàn thiện hoạt động
phân tích trên vỏ não về tri giác có định hướng sâu sắc hơn khả năng nhận, hiểu
cấu trúc động tác và tái hiện chính xác hoạt vận động đơn lẻ như trước (Chạy,
nhảy, bật, bay và chạm đất khi nhảy ném tại chỗ hoặc có đà) mà chủ yếu từng
bước hoàn thiện ghép những phần đã học trước thành các liên hợp động tác
tương đối hoàn chỉnh, ở các điều kiện khác nhau phù hợp với từng đặc điểm của

5


từng học sinh. Vì vậy khi giảng dạy cần thay đổi nhiều hình thức tập luyện, vận

dụng các hình thức trò chơi, thi đấu để hoàn thành tốt những bài tập đã đề ra.
* Hệ hô hấp:
Ở lứa tuổi này phổi các em phát triển mạnh nhưng chưa đều, khung ngực
còn nhỏ, hẹp nên các em thở nhanh và nông, không có sự ổn định của dung tích
sống, không khí đó chính là nguyên nhân làm cho tần số hô hấp của các em tăng
cao khi hoạt động và gây thiếu ôxi, dẫn đến mệt mỏi.
* Hệ tuần hoàn:
Ở lứa tuổi này hệ tuần hoàn đang trên đà phát triển mạnh để kịp thời phát
triển toàn thân, tim lớn hơn, khả năng co bóp của cơ tim phát triển, do đó nâng
cao khá rõ lưu lượng máu/phút mạch lúc này bình thường chậm hơn (tiết kiệm
hơn) nhưng khi vận động căng thẳng thì tần số nhanh hơn, phản ứng của tim đối
với các lượng vận động thể lực đã khá chính xác, tim trở nên dẻo dai hơn.
Từ những đặc điểm tâm lý đó để lựa chọn một số bài tập bổ trợ trên căn
bản khối lượng cường độ phù hợp với lứa tuổi học sinh đặc biệt khi áp dụng các
bài tập bổ trợ cần căn cứ vào đặc điểm tình hình tiếp thu kỹ thuật và đặc điểm
thể lực phù hợp với tâm sinh lý của học sinh để cho quá trình giảng dạy đạt kết
quả cao, giúp cho các em học sinh trở thành con người phát triển toàn diện về
thể chất, tinh thần.
1.2. Những yếu tố ảnh hưởng và quyết định đến độ cao của lần nhảy.
Theo cơ học độ cao khi bay của một vật được bắn trong chân không hợp
với mặt phẳng nằm ngang một góc α được tính theo công thức.

Vo2 Sin 2α
H=
2g
Trong đó:

- g là gia tốc
- Vo là vận tốc bay ban đầu
- α là góc độ bay

- H là độ cao quỹ đạo bay ( Thành tích)
Qua phân tích công thức ta thấy vì g ≈ 9,8m / giay 2 luôn là hằng số nên hai
yếu tố V0 và α là hai yếu tố quyết định đến độ cao quỹ đạo bay của tổng trọng
tâm.
Trong thực tế nhảy cao, do thành tích là mức xà mà người nhảy vượt qua
được, nên ngoài tốc độ bay ban đàu, góc bay thì độ cao của trọng tâm cơ thể
trước khi bay và kỹ thuật qua xà hợp lý của người nhảy cũng là những nhân tố
có ảnh hưởng tới thành tích của lần nhảy.
1.3. Kỹ thuật hảy cao “Kiểu bước qua”
Là một hoạt động không có chu kỳ bao gồm nhiều động tác liên kết với
nhau một cách chặt chẽ và phức tạp. Từ chạy lấy đà, giậm nhảy, bay trên không
và kết thúc là rơi xuống đất.
Kỹ thuật nhảy cao “Kiểu bước qua” gồm có 4 giai đoạn:
- Giai đoạn chạy đà.
- Giai đoạn giậm nhảy.
- Giai đoạn trên không.
- Giai đoạn tiếp đất.
6


1.3.1. Giai đoạn chạy đà:
Chạy đà nhằm tạo ra tốc độ giúp cho giậm nhảy thuận lợi và hiệu quả cao.
Đối với học sinh THCS, cự ly chạy đà dài khoảng 5 đến 9 bước đà, mỗi bước đà
tương đương độ dài 5 đến 7 bàn chân hoặc 2 bước đi thường. Góc độ chạy đà
chếch với xà khoảng 25 – 400. Nếu giậm nhảy bằng chân trái thì đứng phía bên
phải xà và ngược lại theo chiều nhìn vào xà.
Kỹ thuật chạy đà gồm có: Tư thế chuẩn bị trước khi chạy và kỹ thuật các
bước chạy đà.
- Tư thế chuẩn bị trước khi chạy đà: Có nhiều cách đứng chuẩn bị trước
khi chạy đà, dưới đây giới thiệu cách phổ biến nhất với học sinh THCS đó là:

Đứng chân lăng phía trước, chạm đất bằng nửa bàn chân, mũi chân sát
vạch xuất phát, hơi khuyu gối, trọng tâm dồn nhiều vào chân trước, chân giậm
nhảy phía sau khuyu gối nhiều hơn, mũi chân chậm đất cách gót chân trước 15 –
20cm, thân ngả trước, hai tay buông tự nhiên, tập trung chú ý, mắt nhìn theo
hướng chạy vào xà.
- Kỹ thuật chạy đà: Có hai phần, phần thứ nhất gồm một số bước đà đầu,
phần thứ hai gồm ba bước đà cuối trước khi giậm nhảy.
Ở phần thứ nhất của chạy đà cần tăng dần độ dài bước chạy và tốc độ
bằng cách tích cực đạp sau kết hợp với nâng thân, sau đó duy trì tốc độ cho đến
khi giậm nhảy. Một số bước chạy ban đầu đặt chân chạm đất bằng nửa trước bàn
chân, riêng ba bước đà cuối đặt chân chạm đất bằng gót bàn chân.
Ba bước đà cuối:
+ Bước 1: Đưa chân giậm nhảy ra trước dài hơn các bước trước đó và đặt
gót chân chạm đất phía trước.
+ Bước 2: Đưa nhanh chân lăng ra trước để thực hiện bước 2. Đây là bước
dài nhất trong 3 bước đà cuối. Khi chân chạm đất hơi miết bàn chân xuống đất –
ra sau. Việc duy trì tốc độ đà đạt được lúc này rất quan trọng vì vậy cần giữ chân
cho thẳng, không được ngả vai ra sau trước khi kết thúc thời kỳ chống.
+ Bước 3: Chủ động đưa chân giậm nhảy và hông cùng bên vươn nhanh
về trước để đặt gót bàn chân vào điểm giậm nhảy, Lúc này chân giậm nhảy gần
như thẳng, toàn bộ thân, hông, đùi và cẳng chân ngả chếch ra sau. Không phải
thân tên chủ động ngả ra sau mà là chủ yếu do đưa nhanh vùng hông và chân
giậm nhảy về trước tạo nên. Hai tay hơi co, khuỷu tay hướng ra sau nhưng
không để hai khuỷu tay khép vào người, ma nâng cao gần vai để sẵn sàng đánh
tay hỗ trợ với giậm nhảy.
1.3.2: Giai đoạn giậm nhảy:
Bàn chân giậm nhảy ở bước đà cuối cùng tiếp đất bằng gót, sau đó nhanh
chóng chuyển sang cả bàn, tiếp theo chùng gối để tạo thế co cơ khi giậm nhảy.
Khi giậm nhảy cần dùng hết sức của chân đạp thật mạnh, thật nhanh xuống đất
để bật người lên cao như sức bật của lò so. Phối hợp với chân giậm nhảy khi đạp

đất, chân lăng đá mạnh từ sau – ra trước – lên cao, hai tay đánh từ sau – ra trước
– lên cao hướng khuỷu tay sang hai bên và dứng đột ngột ở độ cao ngang vai để
tạo một lực nâng cơ thể lên cao. Động tác giậm nhảy tuy rất mạnh và nhanh,
nhưng phải phối hợp hết sức chính xác, ăn nhịp giữa chạy đà với giậm nhảy góc
độ hợp lý mới đạt thành tích cao.
7


Giậm nhảy là giai đoạn quan trọng nhất trong các giai đoạn kỹ thuật nhảy
cao.
1.3.3. Giai đoạn trên không:
Giai đoạn trên không bắt đầu khi chân giậm nhảy dời khỏi mặt đất, người
đang bay lên cao, chân đá lăng duỗi phía trước, chân giậm duỗi chếch xuống
dưới phía sau. Khi bay gần đến điểm cao nhất, thì gập thân, tay cùng bên với
chân duỗi về trước phối hợp với chân lăng theo một vòng cung qua xà. Cùng lúc
với chân lăng qua xà, nhanh chóng co chân giậm nhảy, sau đó đá mạnh lên cao –
ra trước, tiếp theo hơi xoay người lại phía xà hất mạnh chân giậm nhảy và mông
cùng bên đi theo một vòng cung qua xà. Hai tay phối hợp tự nhiên nhưng hướng
đi cao hơn tầm xà để không đập tay vào xà.
1.3.4. Giai đoạn tiếp đất:
Sau khi qua xà, chân lăng chủ động tiếp đất trước bằng nửa bàn chân hay
cả bàn chân, sau đó đến chân giậm nhảy tiếp đất, cả hai chân cần chùng gối để
giảm chấn động. Khi nhảy ở các mức xà cao, có thể tiếp đất bằng hai chân cùng
một lúc.
Tóm lại: Từ những đặc điểm về tâm - sinh lý, nguyên lý kỹ thuật cũng
như các yếu tố quyết định đến thành tích nhảy cao nêu trên là cơ sở ban đầu để
xác định hướng tác động, lựa chọn áp dụng các bài tập bổ trợ có khối lượng,
cường độ phù hợp với các đặc điểm của người tập nhằm nâng cao thể lực và
thành tích học tập của học sinh.
2. Thực trạng:

Điền kinh bao gồm nhiều môn, trong đó nhảy cao là môn được tập luyện
và thi đấu rộng rãi nhất trong các nhà trường, trong các Hội khỏe phù Đổng từ
cấp trường đến cấp trung ương đều có thi đấu nhảy cao và các em học sinh đã
lập được nhiều thành tích đáng khen ngợi. Tuy nhiên thành tích của học sinh
Trường THCS so với thành tích của học sinh các trường khác trong huyện còn ở
mức khiêm tốn. Nên việc giảng dạy môn nhảy cao “Kiểu bước qua” trong nhiều
năm qua đã được chú trọng và đạt kết quả nhất định song còn phải phấn đấu
nhiều hơn nữa mới đáp ứng được với phong trào ngày càng mạnh mẽ.
Trong quá trình học tập, để có sự tập luyện và tiếp thu kỹ thuật một cách
tốt nhất thì phải áp dụng tập luyện các bài tập bổ trợ, mà các bài tập bổ trợ ngày
càng đa dạng, phong phú thì càng giúp cho người tập tiếp thu kỹ thuật chính xác
và nhanh hơn, đặc biệt có cảm giác tốt khi hoạt động thì sẽ có thành tích cao.
Tuy nhiên việc áp dụng các phương tiện, phương pháp tập luyện tiên tiến,
các thành tựu khoa học vào giảng dạy còn hạn chế, chưa được phát động đồng
loạt. Đặc biệt là ở các trường THCS trong điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu
thốn, phương tiện tập luyện còn thô sơ đơn giản. Vì vậy mà cho tới nay việc áp
dụng các phương pháp học mới nhằm nâng cao trình độ thể lực, thành tích cho
học sinh còn rất ít được sử dụng. Quá trình tập luyện TDTT đang theo một
chương trình rập khuôn, chưa có tính sáng tạo để cải tiến hình thức, phương
pháp giảng dạy cho giáo viên cũng như sự tiếp thu, lĩnh hội các tri thức kỹ năng,
kỹ xảo cho người học. Vì thế mà ở học sinh chưa có tính tự giác cao trong tập
luyện đã làm hạn chế một phần sự phát triển thể chất, thành tích học tập của các
em.
8


Vì vậy mà để góp phần vào sự nghiệp giáo dục của nước nhà và để góp
một phần nhỏ nào đó để giải quyết các khó khăn trên. Thì vấn đề đặt ra cho
chúng tôi là nghiên cứu đưa ra một số bài tập bổ trợ để sắp xếp nội dung học tập
sao cho phù hợp với trình độ của các em và điều kiện thực tế để nhằm nâng cao

thành tích nhảy cao “Kiểu bước qua” trong chương trình giảng dạy ở các Trường
THCS.
Như vậy từ thực trạng trên ta nhận thấy công tác giảng dạy môn nhảy cao
“Kiểu bước qua” cũng như việc tập luyện của học sinh rất thụ động, rập khuôn,
máy móc chưa phát huy tính sáng tạo, nâng cao thể lực và thành tích. Do đó việc
nghiên cứu, áp dụng các bài tập bổ trợ để nâng cao thành tích nhảy cao “Kiểu
bước qua” là công việc rất cần thiết nhằm làm phòng phú thêm phương tiện giáo
dục thể chất, qua đó phát hiện bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu TDTT
nói chung và môn nhảy cao nói riêng để tham gia thi học sinh giỏi cấp huyện và
góp phần bồi dưỡng mầm non TDTT cho địa phương và đất nước.
3. Các giải pháp
Qua quá trình nghiên cứu về đặc điểm tâm – sinh lý, cấu trúc giải phẩu
của học sinh, nguyên lý kỹ thuật, cơ sở sinh lý cũng như các yếu tố quyết định
đến thành tích môn nhảy cao và qua quan sát quá trình sư phạm (Dự giờ các
thầy, cô giáo). Với vốn kiến thức của bản thân, từ đó tôi thấy rằng toàn bộ quá
trình giảng dạy nhảy cao phải được xem xét trong một mối quan hệ chặt chẽ với
trình độ tập luyện thể lực chuyên môn. Giảng dạy kỹ thuật phải được tiến hành
sau khi đã có một số chuẩn bị kỹ thuật cho người tập. Trong một buổi tập nhảy
cao, chúng ta cần sắp xếp nội dung bài tập một cách hợp lý, khoa học giữa bài
tập kỹ thuật và bài tập phát triển thể lực chuyên môn. Từ đó tôi đã tìm ra các bài
tập bổ trợ phù hợp với đặc điểm tâm lý và điều kiện thực tế để nâng cao trình độ
thể lực và thành tích của học sinh.
Các bài tập bổ trợ bao gồm: Bài tập bổ trợ thể lực và bài tập bổ trợ kỹ
thuật.
3.1.Các bài tập bổ trợ thể lực:
Các bài tập này nhằm tạo ra một trạng thái ổn định, một vận tốc lớn nhất
trong các bài tập khắc phục trọng lượng bản thân (Bật nhảy). Các bài tập thể lực
này là các bài tập có công suất lớn, được thực hiện trong thời gian ngắn. Trong
thực tiễn huấn luyện và trong phạm vi đề tài này chúng tôi sử dụng các bài tập
thể lực sau đây:

- Bật cao liên tục đầu chạm vật chuẩn
- Đứng lên ngồi xuống bằng hai chân, một chân.
- Bật nhảy tại chỗ bằng hai chân.
- Nhảy dây.
- Chạy đạp sau 30m
- Chạy nâng cao đùi

9


TT
1.1

1.2

1.3
1.4

1.5

1.6

Bảng 1
Kế hoạch thực hiện các bài tập bổ trợ thể lực
Tên bài tập
Định lượng
Phương pháp chỉ dẩn
Bật cao liên tục 3 tổ, mỗi tổ 45 giây. Chú ý nhịp điệu và thể lực bật
đầu chạm vật
Thời gian nghỉ giữa nhảy. Không có bước đệm

chuẩn
là 1- 2 giây
1 – 2 tổ. 10 – 15 Thực hiện đúng kỹ thuật. Ngồi
Đứng lên ngồi
lần/tổ/1chân. Thời xuống sát, chân duỗi phía trước,
xuống bằng hai
gian nghỉ giữa là 1- thẳng không chạm đất, hai tay
chân, một chân.
2 giây
không chống đất.
2 tổ mỗi tổ 15 m. Bật xa bằng hai chân, ưỡn thân
Bật nhảy tại chỗ
Thời gian nghỉ 1-2 tiếp đất bằng hai chân. Chú ý
bằng hai chân
phút
phải liên tục.
2 tổ mỗi tổ 45 giây Nhảy liên tục, lò cò trên một
Nhảy dây
thời gian nghỉ giữa chân rồi đổi chân.
là 1-1phút 30giây
Lăng trước đùi nâng cao gần như
chạỵ, cổ chân thả lõng, góc độ
2 – 3 tổ (20 - 30 m).
giữa đùi và cẳng chân 900 . Đạp
Chạy đạp sau
Thời gian nghỉ giữa
sau nhanh chóng duỗi hết các
là: 1 phút
khớp từ hông đến cổ chân góc độ
đạp sau là 450

2 – 3 tổ. Mỗi tổ 30 Yêu cầu học sinh chạy với tốc độ
Chạy nâng cao m. Thời gian nghỉ tối đa. Xuất phát trước 10 m rồi
đùi
giữa là 1 – 2 phút
bấm giây cho học sinh chạy băng
qua 30 m

3.2. Các bài tập bổ trợ kỹ thuật:
3.2.1: Xác định điểm giậm nhảy và hướng chạy đà.
Người đứng thẳng mặt và thân quay chếch vào 1/3 độ dài của xà (từ cột
xà bên chạy đà). Tay cùng bên với chân lăng đưa sang ngang, bàn tay chạm xà.
Tiếp theo đá chân lăng lên cao cách xà 0,10m là được. Đường đi qua gót đến
mũi bàn chân giậm chính là hướng chạy đà. Điểm chạm đất của bàn chân giậm
chính là điểm giậm nhảy.
3.2.2: Nhảy cao tự do để xác định chân giậm nhảy.
3.2.3: Chạy đà 3 - 5 bước phối hợp giậm nhảy đá lăng chạm vật chuẩn rơi
xuống bằng chân giậm.
Biện pháp thực hiện: Chạy đà 3 bước giậm nhảy chân lăng đá lên cao
chạm vật chuẩn và rơi xuống bằng chân giậm.
3.2.4: Chạy đà (chính diện) 3 – 5 bước giậm nhảy đá lăng thu chân giậm qua xà
thấp rới bằng chân giậm.
3.2.5: Đà ba bước – giậm nhảy qua xà:
- Chuẩn bị: Đứng theo hướng chạy đà và cách xà khoảng 0,8m, chân lăng phía
trước chạm đất băng cả bàn chân. Chân giậm nhảy co gối ở phía sau, mũi chân
10


chạm đất, hai tay buông tự nhiên.
- Bước chân giậm nhảy về trước 1 bước và thực hiện động tác như ở bước
đà cuối cùng, sau đó giậm nhảy và thực hiện các động tác qua xà kiểu “bước

qua” hay chạy 3,5,7 bước qua xà kiểu “bước qua”
4. Những kết quả đạt được
Trên cơ sở lý luận đã nghiên cứu ở trên, trong qúa trình giảng dạy tôi sử
dụng các giáo án đã xây dựng vào giảng dạy đối với nhóm thực nghiệm B. Để
đánh giá được một cách khách quan về kết quả kiểm tra cuối cùng. Sau khi áp
dụng vào giảng dạy các bài tập đã lựa chọn, thì tôi tiến hành kiểm tra toàn bộ kỹ
thuật, thành tích nhảy cao “Kiểu bước qua”. Tôi sử dụng phương pháp so sánh
song song trong toán học thống kê để đánh giá và làm sáng tỏ hiệu quả các bài
tập được áp dụng.
Kết quả xử lý số liệu được trình bày ở bảng sau:

Bảng 2:
Thời điểm
X (m)
δ

T(Tính)
T(Bảng)
P%

Sau thực nghiệm
Nhóm đối chiếu
Nhóm thực nghiệm
1,09
1,21
0,17
0,27
2,652
2,365
1%


Nhìn vào bảng 2 ta thấy:
+ Sau thực nghiệm: Thành tích trung bình của nhóm đối chiếu A là 1,09m.
Nhóm thực nghiệm B là 1,21m. Khi chúng tôi đem so sánh thành tích trung bình
của 2 nhóm với nhau thì toán học học thống kê tìm ra sự khác biệt rất có ý
nghĩa.
T(Tính) = 2,652 > 1,365 = T(Bảng) (P = 1%)
Có nghĩa là thành tích trung bình của 2 nhóm A và B sau thực nghiệm
chênh lệch có nghĩa và đạt độ tin cậy ở ngưỡng xác suất P = 1%
Tương tự như thế chúng tôi tiến hành kiểm tra điểm kỹ thuật của hai
nhóm đối chiếu và nhóm thực nghiệm, kết quả được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3
Nhóm đối chiếu
Nhóm thực nghiệm
Kết quả
Số học sinh
%
Số học sinh
%
HS đạt điểm giỏi: 9-10
4
13,4
10
33.3
HS đạt điểm khá: 7-8
10
33,3
16
53,3
HS đạt điểm TB: 5-6

10
33,3
4
13,4
HS đạt điểm yếu, kém
6
20
0
Tóm lại: Trước thực nghiệm tố chất sức mạnh tốc độ của nhóm đối chiếu
và nhóm thực nghiệm là tương đối đồng đều, thậm chí thành tích của nhóm đối
chiếu có phần tốt hơn chút ít so với thành tích của nhóm thực nghiệm. Sau một
thời gian chúng tôi áp dụng các bài tập bổ trợ kỹ thuật môn nhảy xa “Kiểu ngồi”
11


của hai nhóm. Độ tin cậy của toán học thống kê đã tìm ra sự khác biệt của 2
nhóm rất có ý nghĩa.
T(Tính) = 2,652 > 2,365 = T(Bảng)

(P = 1%)

Có nghĩa là thành tích trung bình của 2 nhóm A và B sau thực nghiệm
chênh lệch có nghĩa và đạt độ tin cậy ở ngưỡng xác suất P = 1%
Nhìn vào bảng 3 thì ta thấy sau thực nghiệm không những nhóm thực
nghiệm tăng lên về thành tích mà điểm kỹ thuật của nhóm thực nghiệm cũng tốt
hơn nhóm đối chiếu. Cụ thể là: Sau thực nghiệm:
Số học sinh đạt điểm giỏi của nhóm đối chiếu là 4 học sinh, đạt tỷ lệ
13,3%. Còn số học sinh đạt điểm giỏi của nhóm thực nghiệm tăng lên 10 học
sinh, đạt tỷ lệ 33,3%
- Số học sinh đạt điểm khá của nhóm đối chiếu là 10 học sinh, đạt tỷ lệ

33,3%. Còn số học sinh đạt điểm khá của nhóm thực nghiệm tăng lên 16 học
sinh, đạt tỷ lệ 53,3%.
- Số học sinh đạt điểm TB của nhóm đối chiếu là 10 học sinh, đạt tỷ lệ
33,3%. Còn số học sinh đạt điểm TB của nhóm thực nghiệm giảm xuống còn 4
học sinh, đạt tỷ lệ 13%.
- Số học sinh đạt điểm yếu, kém của nhóm đối chiếu là 6 học sinh, đạt tỷ
lệ 20%. Riêng nhóm thực nghiệm không có học sinh nào bị điểm kém.
- Như vậy với sự tăng lên rõ rệt về thành tích nhảy xa của nhóm thực
nghiệm đã cho chúng ta thấy rằng việc áp dụng các bài tập bổ trợ nhằm nâng cao
thành tích nhảy cao cho học sing lớp 9 Trường THCS đã đưa lại kết quả có tính
khoa học. Đây là một bài học thực tiễn cao, có thể áp dụng ở trường THCS.

12


C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khoa học thực tiễn giáo dục đã nghiên
cứu ở trên các số liệu thu được qua phân tích xử lý đánh giá trong qua trình
nghiên cứu đề tài này chúng tôi đi đến những kết luận sau đây:
- Qua một thời gian nghiên cứu đề tài chúng tôi đã lựa chọn được một hệ
thống bài tập bổ trợ và xây dựng được một tiến trình giảng dạy cho kỹ thuật
nhảy cao “Kiểu bước” có tính khoa học và mang tính thực tiễn cao.
- Hệ thống bài tập bổ trợ đó đã mang lại hiệu quả cao khi áp dụng và giảng
dạy cho học sinh Trường THCS. Cụ thể là sau khi thực hiện bài tập bổ trợ đó và
giảng dạy cho nhóm thực nghiệm B thì chúng tôi tiến hành kiểm tra thành tích
nhảy cao, toàn bộ kỹ thuật nhảy cao “Kiểu bước” của hai nhóm độ tin cậy toán
học thống kê đã tìm ra sự khác biệt của hai nhóm rất có ý nghĩa.
T(Tính) = 2,652 > 2,365 = T(Bảng) (P = 1%)
Hệ thống bài tập bổ trợ đã góp phần làm phong phú thêm các phương tiện

giáo dục thể chất, giúp cho qúa trình giảng dạy của giáo viên và học tập của học
sinh đạt kết quả cao.
2. Kiến nghị:
Trên cơ sở đã nêu trên các kết luận của đề tài cùng với thực tiễn hoạt động
trong giảng TDTT, chúng tôi có một số kiến nghị sau:
- Đối với học sinh THCS việc xác định đúng các bài tập cho các em là điều
kiện tốt để các em phát triển tốt nhất về thể lực cũng như tiếp thu về kỹ thuật,
nâng cao hiệu qủa tập luyện. Do đó trong quá trình giảng dạy cần áp dụng nhiều
bài tập bổ trợ để giúp cho học sinh đạt hiệu quả tốt nhất.
- Do điều kiện nghiên cứu còn hạn chế, đề tài mới chỉ là những nghiên cứu
bước đầu trong phạm vi hẹp, nên kết quả nghiên cứu không tránh khỏi thiếu sót.
Chúng tôi mong được sự góp ý của các thầy, cô giáo để đề tài này được hoàn
thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Yên Định, ngày 10 tháng 3 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Tác giả ký và ghi rõ họ tên)

Dương Văn Tuấn

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trong qúa trình nghiên cứu tôi có sử dụng các tài liệu tham khảo sau.
1, Bác Hồ với Thể thao Việt Nam
- Tác giả: PTS Lê Bửu
- Nhà xuất bản Thể dục Thể thao Hà Nội
2, Lý luận và phương pháp Thể dục Thể thao
- Tác giả: Nguyễn Toàn - Đăng Danh Tốn
- Nhà xuất bản Thể dục Thể thao Hà Nội
3, Tâm lý học lứa tuổi
- Tác giả: Lê Ngọc Lan- Lê Văn Hồn - Nguyễn Văn Hưng
- Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội
4, Sách giáo viên Thể dục 6,7,8,9
- Tác giả: Trần Đồng Lâm – Vũ Học Hải – Vũ Bích Huệ
- Nhà xuất bản giáo dục
5, Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kỳ III Môn Thể
dục (quyển 1 và quyển 2)
- Tác giả: Đinh Mạnh Cường - Phạm Vĩnh Thông – Vũ Thị Thư
- Nhà xuất bản giáo dục
7, Báo Thể thao Việt Nam
8, Các tài liệu trên mạng Internet.

14


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Dương Văn Tuấn
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường THCS Định Hưng


TT

Tên đề tài SKKN

1.

" Nghiên cứu một số bài tập
nhằm nâng cao hiệu quả xuất
phát thấp cho học sinh mũi
nhọn ".
“Tìm hiểu những sai lầm
thường mắc và đề xuất một số
bài tập nhằm nâng cao hiệu
quả khi học giai đoạn chạy đà
trong môn học ném bóng 150
gram cho học sinh lứa tuổi
14-15 trường THCS".
"Nghiên cứu ứng dụng các
bài tập nhảy dây và bật xa tại
chỗ để nâng cao thể lực cho
học sinh khối 7".
“Nghiên cứu và ứng dụng một
số bài tập nhằm phát triển sức
mạnh tốc độ ở nội dung chạy
60m cho nam học sinh khối 9”
“Một số biện pháp giáo dục
học sinh cá biệt (chưa ngoan)
có hiệu quả trong công tác chủ
nhiệm”.
“Đưa một số trò chơi vào

giảng dạy chạy cư ly ngắn để
nâng cao thành tích chạy
100m”
"Đưa một số bài tập bổ trợ vào
giảng dạy kỹ thuật phát cầu,
tâng cầu để nâng cao hiệu quả
môn học đá cầu cho học sinh
THCS ".

2.

3.

4.

5.

6.

7

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)


Năm học
đánh giá xếp
loại

Phòng
GD&ĐT

C

2006-2007

Phòng
GD&ĐT

B

2007-2008

Phòng
GD&ĐT

B

2010-2011

Phòng
GD&ĐT

A


2011-2012

Phòng
GD&ĐT

C

2012-2013

Phòng
GD&ĐT

A

2013-2014

Phòng
GD&ĐT

A

2014-2015

15


8

9

10

"Đưa một số phương pháp tập
luyện và bài tập bổ trợ vào
giảng dạy để nâng cao thành
tích nội dung nhảy xa “kiểu
ngồi”.
“Tạo hứng thú trong học nội
dung chạy bền thông qua các
trò chơi vận động”
“Tạo hứng thú trong học nội
dung chạy bền thông qua các
trò chơi vận động”

Phòng
GD&ĐT

A

2015-2016

Phòng
GD&ĐT

A

2016-2017

Sở
GD&ĐT


C

2016-2017

----------------------------------------------------

16



×