Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Đánh giá hiệu quả của phác đồ antagonist trong kích thích buồng trứng tại bệnh viện phụ sản hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 79 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Vô sinh là vấn đề bức xúc hiện nay, chiếm tỷ lệ khá cao trên thế giới
cũng như ở Việt Nam. Vô sinh trên thế giới chiếm tỷ lệ khoảng 9%, theo tổ
chức Y tế Thế giới vô sinh ảnh hưởng đến khoảng 50 - 80 triệu phụ nữ trên
toàn thế giới và có khuynh hướng ngày càng gia tăng [1]. Hiện nay vô sinh
nằm trong chiến lược chăm sóc sức khỏe cộng đồng do ảnh hưởng rất lớn đến
hạnh phúc gia đình, tác động không nhỏ về mặt y tế và xã hội. Tại Việt Nam,
theo Nguyễn Viết Tiến (2010) tỷ lệ vô sinh chiếm 7,7%. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến vô sinh, trong đó vô sinh nam chiếm 25 - 40%, vô sinh nữ
chiếm 40 - 55% và 5 -10% không rõ nguyên nhân [2].
Sự ra đời của Louise Brown năm 1978, đứa trẻ đầu tiên được sinh ra
thành công từ kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm là một bước đột phá trong điều trị
vô sinh, sự thành công của phương pháp này đã mang lại nhiều hy vọng và niềm
vui cho các cặp vợ chồng bị vô sinh nói chung, đồng thời cũng tạo ra một bước
ngoặt lớn trong điều trị vô sinh tại Việt Nam.
Trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, kích thích buồng trứng là quy trình cơ
bản và đóng vai trò quan trọng trong thụ tinh ống nghiệm. Mục đích của kích
thích buồng trứng là tăng số lượng nang noãn phát triển ở cả hai buồng trứng
và số noãn cần thiết, có nhiều phôi tốt để chuyển phôi và làm tăng tỷ lệ có
thai. Tuy nhiên, một vấn đề lớn trong kích thích buồng trứng là sự xuất hiện
của đỉnh LH gây hoàng thể hóa sớm, làm giảm chất lượng noãn và giảm tỷ lệ
có thai [3]. Do đó việc ức chế đỉnh LH trong kích thích buồng trứng để làm
thụ tinh ống nghiệm là một trong những bước tiến quan trọng trong các phác
đồ kích thích buồng trứng.
Vào đầu những năm 1984 chất đồng vận (GnRH agonist) bắt đầu được
đưa vào để ức chế tuyến yên nhằm tránh hiện tượng phóng noãn sớm khi kích
thích buồng trứng đã tạo ra một bước đột phá và làm tăng đáng kể tỷ lệ thành
công của thụ tinh trong ống nghiệm.



2

GnRH đồng vận kết hợp với gonadotropin hiện nay chủ yếu được dùng
theo phác đồ dài, với sự sử dụng GnRH đồng vận trong 10 - 14 ngày liên tục,
sau đó kết hợp với FSH tái tổ hợp trong 14 ngày nữa đã có hiệu quả đến 99%
trong phòng ngừa đỉnh LH nội sinh sớm, giúp thu được nhiều nang noãn trưởng
thành có chất lượng tốt và tăng tỷ lệ có thai lâm sàng hơn so với không sử dụng
GnRH đồng vận. Tuy nhiên phác đồ dài cũng có một số nhược điểm như tổng
liều gonadotropin sử dụng kích thích buồng trứng cao nên tăng giá thành điều trị,
thời gian tiêm thuốc kéo dài và nguy cơ quá kích buồng trứng cao.
Gần đây, để khắc phục những bất lợi của GnRH đồng vận mà vẫn có hiệu
quả ngăn ngừa đỉnh LH nội sinh sớm, GnRH đối vận (GnRH antagonist) đã
bắt đầu được đưa vào sử dụng trong kích thích buồng trứng làm thụ tinh ống
nghiệm. Em bé đầu tiên được sinh ra sau sử dụng GnRH đối vận đã được báo
cáo ở Đức vào tháng 12/1993 [4], [5].
Ở Việt Nam tại trung tâm hỗ trợ sinh sản bệnh viện Phụ sản Hà nội từ
năm 2009 cũng đã bắt đầu sử dụng GnRH đối vận để kích thích buồng trứng
trên một số bệnh nhân, thay thế phác đồ dài sử dụng GnRH đồng vận, nhằm
giảm căng thẳng, tiết kiệm thời gian và chi phí điều trị cho những trường hợp
thụ tinh ống nghiệm.
Vì vậy, với mong muốn có thể hiểu được một cách rõ ràng và cụ thể
những ưu điểm và những mặt còn hạn chế của việc sử dụng phác đồ
Antagonist để từ đó có thể áp dụng một cách hợp lý nhất phác đồ Antagonist
trong thụ tinh ống nghiệm, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đánh giá hiệu
quả của phác đồ Antagonist trong kích thích buồng trứng tại bệnh viện
Phụ Sản Hà Nội” với các mục tiêu sau:
1.

Đánh giá hiệu quả điều trị của phác đồ Antagonist trong kích thích

buồng trứng tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội.

2.

Nhận xét một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị của phác đồ
Antagonist trong thụ tinh ống nghiệm tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. VÔ SINH
1.1.1. Định nghĩa vô sinh
Vô sinh là tình trạng không có thai sau một năm chung sống vợ chồng
mà không dùng biện pháp tránh thai nào, đồng thời tần suất giao hợp ít nhất 2
lần mỗi tuần. Đối với phụ nữ trên 35 tuổi thì tính thời gian là 6 tháng. Đối với
những trường hợp trong đó nguyên nhân vô sinh đã tương đối rõ ràng thì việc
tính thời gian không còn được đặt ra.
Vô sinh nguyên phát là chưa có thai lần nào, còn vô sinh thứ phát là
trong tiền sử đã từng có thai ít nhất 1 lần. Ngoài ra một số bệnh lý có thể dẫn
đến vô sinh như buồng trứng đa nang, lạc nội mạc tử cung…
Vô sinh nữ là nguyên nhân hoàn toàn do người vợ, vô sinh nam là vô
sinh có nguyên nhân hoàn toàn do người chồng.
Vô sinh không rõ nguyên nhân là trường hợp khám và làm các xét
nghiệm thăm dò kinh điển mà không phát hiện được nguyên nhân nào [6].
1.1.2. Tình hình và nguyên nhân vô sinh trên thế giới và trong nước
- Trên thế giới: Tùy từng nước mà tỷ lệ vô sinh thay đổi từ 8 - 18% có
nơi lên đến 40%. Về nguyên nhân vô sinh theo tổ chức y tế thế giới năm
1985, có khoảng 20% không rõ nguyên nhân, 80% có nguyên nhân trong đó

vô sinh nữ chiếm 40%, vô sinh nam chiếm 40%, và do cả hai là 20% [5],[6].
Các nguyên nhân gây nên tình trạng vô sinh nữ là do rối loạn phóng noãn
(30%), trong đó chủ yếu do buồng trứng đa nang, rối loạn chức năng vòi tử
cung (30%), các rối loạn này xảy ra do dính vòi tử cung sau viêm nhiễm như
nhiễm khuẩn lậu cầu, Chlammydia…. Một số nguyên nhân khác gây nên vô


4

sinh là do bệnh lạc nội mạc tử cung, bất thường về giải phẫu, các kháng thể
kháng tinh trùng và một số các yếu tố khác chưa được biết đến [7].
- Ở Việt Nam: Theo PGS Nguyễn Viết Tiến (2010) tỷ lệ vô sinh chiếm
7,7% [4]. Theo nghiên cứu của GS Nguyễn Khắc Liêu và cộng sự tại Viện bảo
vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh với đầy đủ các phương pháp thăm dò về độ thông của
đường sinh dục nữ, về phóng noãn, về tinh trùng… thì tỷ lệ vô sinh nữ là
55,4%, vô sinh nam 35,6% và vô sinh không rõ nguyên nhân là 10%.
1.2. TRỤC DƯỚI ĐỒI TUYẾN YÊN BUỒNG TRỨNG
Để có phác đồ kích thích và thuốc phù hợp với sinh lý của phụ nữ, các
nhà khoa học đã dựa trên nguyên lý sự điều hòa hoạt động sinh dục nữ, sự
phát triển nang noãn của buồng trứng trong chu kỳ kinh nguyệt.
1.2.1. Vùng dưới đồi
Sinh lý sinh sản nữ được điều hòa bởi trục dưới đồi - tuyến yên - buồng
trứng. Vùng dưới đồi là một cấu trúc thuộc trung não, nằm quanh não thất ba
và nằm chính giữa hệ thống viền. Vùng dưới đồi chế tiết ra GnRH.
(Gonadotropin Releasing Hormon).
GnRH được giải phóng vào hệ thống mạch máu tới thùy trước tuyến
yên qua sợi trục thần kinh và được bài tiết theo nhịp sinh học cứ 1 đến 3 giờ
GnRH được bài tiết 1 lần, mỗi lần kéo dài vài phút [8]. Đặc tính dao động của
GnRH cần thiết cho tuyến yên đáp ứng bình thường. Tác dụng của GnRH là
kích thích tế bào thùy trước tuyến yên bài tiết FSH và LH. Vì vậy thiếu GnRH

hoặc đưa GnRH liên tục vào máu đến tuyến yên thì cả FSH và LH đều không
được bài tiết [9], [10].
1.2.2. Tuyến yên
Tuyến yên là một tuyến nhỏ nằm trong hố yên của xương bướm thuộc
nền sọ. Tuyến yên gồm hai thùy: Thùy trước và thùy sau [8].
FSH và LH được bài tiết từ thùy trước tuyến yên. Bản chất hóa học của
FSH và LH đều là glycoprotein. FSH khích thích các nang noãn phát triển,
LH phối hợp với FSH kích thích các nang noãn phát triển tới chín, gây phóng


5

noãn, kích thích tế bào hạt và lớp vỏ còn lại phát triển thành hoàng thể, kích
thích tế bào hạt của nang noãn và hoàng thể bài tiết estrogen và progesterone.
1.2.3. Buồng trứng
Buồng trứng là tuyến sinh dục nữ gồm hai buồng trứng, nằm hai bên hố
chậu, trọng lượng trung bình 8 - 12 g, trọng lượng của chúng thay đổi theo
chu kỳ kinh nguyệt. Buồng trứng có hai chức năng chính: Chức năng ngoại
tiết tạo noãn chín và chức năng nội tiết tạo các hormone sinh dục.
Buồng trứng có rất nhiều nang noãn, số lượng các nang noãn này giảm
rất nhanh theo thời gian. Ở tuần 30 của thai nhi cả hai buồng trứng có khoảng
6.000.000 nang noãn nguyên thủy nhưng đến tuổi dậy thì số lượng nang noãn
chỉ còn 300.000 - 400.000. Trong suốt thời kỳ sinh sản của phụ nữ (khoảng 30
năm) chỉ có 400 nang noãn phát triển tới chín và phóng noãn hàng tháng [8].
Nếu các nang này được thụ tinh muộn thì phôi được hình thành này có thể bị
đe dọa về sự phát triển [11].
Nang noãn được coi là 1 đơn vị hoạt động của buồng trứng cả về
phương diện sinh sản và phương diện nội tiết. Các hormone của nang noãn và
của hoàng thể đủ để làm thay đổi nội mạc tử cung giúp cho phôi làm tổ, và
nếu người phụ nữ không thụ thai thì cũng đủ gây ra kinh nguyệt [8], [11].


Hình 1.1: Vai trò của trục dưới đồi – tuyến yên – buồng trứng


6

1.3. NANG NOÃN VÀ SỰ TRƯỞNG THÀNH NANG NOÃN.
1.3.1. Sự phát triển nang noãn
Quá trình phát triển nang noãn trung bình kéo dài 85 ngày, khoảng 3
chu kỳ, thường chỉ có 1 nang noãn trưởng thành và phóng noãn trong mỗi chu
kỳ kinh. Các nang noãn trải qua quá trình phát triển từ nang noãn nguyên
thủy, nang sơ cấp, nang thứ cấp, nang trội và nang Graaf trước phóng noãn.
Nang sơ cấp

Nang thứ cấp

Nang nguyên thủy

Nang Graff

Phóng noãn

Hoàn thể

Hình 1.2: Sự phát triển nang noãn chu kỳ kinh nguyệt .
1.3.2. Sự hình thành và phát triển nang noãn
Sự phát triển của noãn là sự hình thành, lớn lên và trưởng thành của
noãn. Quá trình này bắt đầu trong bào thai và kết thúc ở tuổi mãn kinh của
người phụ nữ, gồm 4 giai đoạn:
-


Nguồn gốc ngoài cơ quan sinh dục của tế bào mầm nguyên thủy và sự
di chuyển của tế bào mầm vào cơ quan sinh dục.

-

Sự gia tăng số lượng tế bào mầm bằng gián phân.

-

Sự giảm chất lượng di truyền bằng giảm phân.

-

Sự trưởng thành về cấu trúc và chức năng của nang.


7

1.3.3. Theo dõi sự phát triển nang noãn trong kích thích buồng trứng
Mục đích của KTBT là thu được số lượng nang noãn vừa đủ với chất
lượng tốt. Trong quá trình KTBT việc theo dõi phát triển nang noãn nhằm
mục đích:
-

Dự đoán đáp ứng của buồng trứng với gonadotropin.

-

Theo dõi tác dụng làm trơ hóa tuyến yên của GnRH.


-

Theo dõi đáp ứng với kích thích buồng trứng, liều gonadotropin đang
dùng có phù hợp để kích thích buồng trứng hiệu quả hay không.

-

Tránh hội chứng quá kích buồng trứng.

-

Chọn thời điểm thích hợp để tiêm hCG.

* Các phương pháp theo dõi sự phát triển nang noãn :
1.3.3.1. Xét nghiệm nồng độ estradiol.
Xét nghiệm nồng độ estradiol là phương pháp chính để theo dõi đáp
ứng của buồng trứng khi dùng gonadotropin ngoại sinh. Có mối tương quan
giữa nồng độ estradiol và sự phát triển nang noãn. Trong những chu kỳ kích
thích buồng trứng, nồng độ estradiol là tổng hợp lượng estradiol của nhiều
nang noãn đang phát triển không kể đến kích thước của các nang noãn, do đó
nồng độ estradiol chỉ phản ánh một cách tương đối chất lượng noãn. Tuy
nhiên, khi kích thích buồng trứng trong TTON, để có được nang noãn trưởng
thành thì nồng độ estradiol phải đạt được mức độ nhất định trước khi tiêm
hCG [12], [13].
Để đánh giá sự phát triển nang noãn thường hay kết hợp giữa siêu
âm và xét nghiệm nồng độ estradiol, đặc biệt những trường hợp có nguy cơ
xảy ra hội chứng quá kích buồng trứng. Đối với những bệnh nhân có tiên
lượng đáp ứng kém với KTBT, xét nghiệm nồng độ estradiol vào ngày thứ
5 sau khi KTBT để phát hiện những trường hợp này và có hướng điều trị



8

thích hợp. Đây là cách đơn giản để phát hiện liều rFSH ban đầu đã đủ để
KTBT có hiệu quả chưa.
1.3.3.2. Siêu âm
Siêu âm theo dõi số lượng, sự phát triển nang noãn và độ dày niêm mạc
tử cung. Siêu âm theo dõi nang noãn trong những chu kỳ có KTBT kết hợp
với xét nghiệm nồng độ estradiol có thể giúp điều chỉnh liều gonadotropin và
phác đồ KTBT kịp thời để đạt được sự đáp ứng buồng trứng tối ưu và giảm
thiểu các biến chứng, giúp tiến hành kỹ thuật TTON đúng thời điểm để đạt
được tỷ lệ thành công cao.
Siêu âm giúp đánh giá độ dày niêm mạc tử cung, nhiều nghiên cứu cho
thấy tỷ lệ có thai cao ở những chu kỳ có độ dày niêm mạc tử cung dày hơn và
tăng phát triển nhanh hơn, độ dày niêm mạc tử cung mỏng được ghi nhận có
thai là 6 mm, nhưng khi độ dày niêm mạc tử cung > 14 mm thì tỷ lệ có thai
cũng giảm.
1.4. KÍCH THÍCH BUỒNG TRỨNG TRONG THỤ TINH ỐNG
NGHIỆM
1.4.1. Định nghĩa
Thụ tinh trong ống nghiệm là chọc hút một hay nhiều noãn đã trưởng
thành từ buồng trứng cho thụ tinh với tinh trùng (đã được lọc rửa) trong ống
nghiệm. Sau khi noãn thụ tinh phát triển thành phôi, chuyển phôi tốt vào
buồng tử cung để phôi làm tổ và phát triển thành thai nhi [14], [15].
1.4.2. Các bước tiến hành trong TTON.
+ Dùng thuốc KTBT cho nhiều nang noãn phát triển và trưởng thành.
+ Theo dõi sự phát triển và trưởng thành của các nang noãn bằng siêu âm
và kết hợp với định lượng estardiol huyết thanh. Điều chỉnh liều thuốc tránh
các tác dụng không mong muốn.

+ Chọc hút nang noãn qua đường âm đạo sau khi tiêm hCG 34-36h.


9

+ Thu lượm noãn và đánh giá chất lượng noãn.
+ Lọc rửa tinh trùng cùng ngày với chọc hút noãn.
+ Sau 3 - 4 giờ, mỗi noãn sẽ chuyển vào một giọt chứa khoảng 100.000 tinh
trùng/ml môi trường. Nếu có chỉ định thì thực hiện ICSI vào thời điểm này.
+ Theo dõi sự thụ tinh và phát triển của phôi trong những ngày sau.
+ Đánh giá chất lượng phôi.
+ Chuyển phôi tốt vào buồng tử cung sau khi thụ tinh 2 - 3 ngày, số phôi
tốt còn lại được trữ lạnh.
+ Theo dõi và xét nghiệm chẩn đoán thai nghén sau chuyển phôi 2 tuần [14], [15].
1.4.3. Một số thuốc dùng để kích thích buồng trứng trong thụ tinh ống
nghiệm.
1.4.3.1. GnRH đồng vận (GnRH agonist)
GnRH đồng vận là những chất tổng hợp có cấu trúc gồm một chuỗi
polypeptide gồm 10 acid amin tương tự như GnRH trong cơ thể người, tuy nhiên
người ta thay thế 2 acid amin ở vị trí số 6 và số 10. Các GnRH đồng vận có tác
dụng sinh học và thời gian tác dụng cao hơn rất nhiều lần so với GnRH trong cơ
thể [16], [17], [18].
GnRH đồng vận khi tiêm vào cơ thể, ban đầu sẽ có tác dụng làm tăng
tiết FSH, LH trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên nếu cho tiếp tục nó sẽ làm
giảm dần các chức năng và số lượng các thụ thể của GnRH ở tế bào, dẫn đến
việc tuyến yên giảm đáp ứng với GnRH và giảm tiết FSH, LH. Do đó việc
dùng GnRH kéo dài phối hợp với FSH để KTBT sẽ giúp loại bớt các tác dụng
không có lợi của LH [16], [17], [18].
Có 3 cách sử dụng GnRH đồng vận: Tiêm thuốc tác dụng kéo dài (1
liều duy nhất); Tiêm liều thấp hàng ngày cho đến tận ngày tiêm hCG; Sử dụng



10

chế phẩm dưới dạng khí dung, loại này dễ sử dụng cho người bệnh nhưng ít
được ưa chuộng vì liều thuốc đưa vào không ổn định.
Các chế phẩm của GnRH đồng vận hiện có: Decapeptyl 0,1 mg,
Decapeptyl Depot 3 mg, Suprefact 6mg/ml, Diphereline 0,1 mg [19].
* Tác dụng không mong muốn: Nóng bừng, suy nhược, khô âm đạo,
nguy có loãng xương khi dùng kéo dài [19], [20].
1.4.3.2 Chất đối vận (GnRH antagonist) (GnRH đối vận)
Phân tử GnRH đối vận có cấu trúc tương tự phân tử GnRH nội sinh
nhưng nhiều vị trí acid amin bị thay đổi nhiều hơn. Các chất đối vận GnRH
không làm tăng tiết FSH và LH, ngược lại ức chế cạnh tranh với GnRH tại
các thụ thể làm ức chế tức thời hoạt động của tuyến yên, giảm tiết FSH và LH
trong vòng 6 – 8 giờ sau tiêm thuốc và sự chế tiết FSH và LH nội sinh sẽ bị
ức chế ngay. Tuy nhiên, ưu điểm của GnRH đối vận so với GnRH đồng vận là
gây tác động tức thì và sự phục hồi của tuyến yên sau khi ngưng thuốc diễn ra
nhanh hơn [21], [22]. Trong nghiên cứu này, GnRH đối vận được sử dụng với
biệt dược là Orgalutran (ganirelix) và Cetrotide (cetrorelix). Là các chất đối
vận thế hệ thứ ba được sử dụng vài năm gần đây với hiệu quả cao và tác dụng
phụ thấp. Liều hiện nay thường sử dụng là 0,25 mg mỗi ngày tiêm dưới da.
1.4.3.3. FSH nguồn gốc từ nước tiểu (hMG)
Các biệt dược của hMG hiện nay ở Việt Nam là Menogon, Pergonal,
Humegon, IVF-M. Tuy nhiên chế phẩm này có bất lợi là chứa LH có thể gây
hoàng thể hóa sớm và có chứa các protein không cần thiết. Gần đây, FSH
nguồn gốc từ nước tiểu dạng tinh chế cao như Fostimon, Menopur được dùng
để kích thích buồng trứng trong thụ tinh ống nghiệm, được đóng gói dạng
ống, tiêm bắp. Ở mức tinh chế cao thì các protein trong nước tiểu được loại
trừ gần như hoàn toàn.

1.4.3.4. Follicle Stimulating Hormon tái tổ hợp (rFSH)


11

Nước tiểu thường chứa nhiều tạp chất, không thể loại được hoàn toàn
trong quá trình chiết xuất. Người ta cũng lo ngại sự tạp nhiễm trong nước tiểu
người trong quá trình thu thập, quản lý và chiết xuất gonadotropins. Đầu
những năm 90, để đảm bảo nguồn cung cấp FSH ổn định phục vụ nhu cầu sử
dụng ngày càng tăng, FSH tinh khiết được tổng hợp bằng công nghệ tái tổ
hợp đã được giới thiệu và đưa vào sử dụng trong kích thích buồng trứng.
Năm 1995, công ty Serono cho ra đời sản phẩm FSH tái tổ hợp đầu tiên
trên thị trường Follitropin α (Gonal –F). Năm 1996, công ty Organon cho ra
đời sản phẩm FSH tái tổ hợp thứ 2 là Follitropin β (Puregon). FSH tái tổ hợp
được sản xuất từ công nghệ DNA tái tổ hợp cấy trên các tế bào buồng trứng
chuột Chinese Hamster. FSH tái tổ hợp tinh khiết hơn, hoạt tính sinh học ổn
định hơn, an toàn và hiệu quả hơn so với FSH có nguồn gốc từ nước tiểu [23].
FSH tái tổ hợp: có 2 loại là follitropin α (Gonal-F) và foliitropin β
(Puregon), đường tiêm dưới da và hàm lượng rất đa dạng từ 50 UI – 600 UI.
FSH tái tổ hợp (rFSH) là thuốc được lựa chọn hàng đầu để kích thích
buồng trứng trong thụ tinh ống nghiệm ở Việt Nam và trên thế giới. Sử dụng
rFSH có tác dụng : (1) Kích thích sự phát triển nang noãn; (2) Tránh được LH
ngoại sinh, giảm sự xuất hiện đỉnh LH tránh được hiện tượng hoàng thể hóa
sớm vì vậy cải thiện được chất lượng nang noãn. Liều lượng tùy thuộc vào
tuổi, FSH cơ bản của chu kỳ, BMI, số nang noãn thứ cấp trên siêu âm, tiền sử
đáp ứng buồng trứng, nguyên nhân vô sinh, đặc biệt là hội chứng buồng trứng
đa nang.
Chống chỉ định trong các trường hợp: có khối u buồng trứng; khối u
vú; ở tử cung; ở tuyến yên hoặc vùng dưới đồi; có thai và cho con bú; ra máu
âm đạo không rõ nguyên nhân; nhạy cảm với bất kỳ thành phần nào của

thuốc; suy buồng trứng nguyên phát; dị dạng sinh dục [23].


12

Tác dụng không mong muốn của gonadotrpins: (1) Quá kích buồng
trứng xảy ra khoảng 5 – 11% trên các bệnh nhân bị buồng trứng đa nang; (2)
Phản ứng viêm tại chỗ (hiếm): sưng, đau, đỏ, ngứa; (3) Đa thai; (4) Nguy cơ
tắc mạch (hiếm), thường gặp ở người có tiển sử gia đình béo phì [23].
1.4.3.5. Human Chorionic Gonadotropin (hCG)
hCG là một gonadotripin do rau thai tiết ra, cấu trúc hóa học có chứa
chuỗi β hoàn toàn tương tự như LH vì vậy có thể gây đáp ứng tương tự như
LH lên nang noãn. hCG dễ chiết xuất, tác dụng sinh học mạnh hơn, nên
thường được sử dụng thay thế LH để kích thích sự phát triển của noãn và gây
phóng noãn [16], [17].
hCG thường được cho vào thời điểm nang noãn đã phát triển tốt và
chuẩn bị phóng noãn. Liều sử dụng thường 5.000 - 10.000 IU.
hCG nguồn gốc từ nước tiểu có hàm lượng 1500 IU, 5000 IU, đóng gói
dạng bột pha với dung môi để tiêm bắp, chế phẩm hCG hiện có: Pregnyl
(Organon), Profasi (Serono) [16], [17].
hCG được chỉ định để tạo ra sự trưởng thành cuối cùng của nang noãn
trong kích thích buồng trứng để thụ tinh ống nghiệm. hCG dùng với liều từ
5000 – 10000 IU. Hút noãn được thực hiện sau khi tiêm hCG 34 – 36 giờ.
1.4.3.6. LH tái tổ hợp (Lutropin alpha- Luveris)
Năm 2010 hãng Serono đã sản xuất ra Pergoveris là sự kết hợp giữa
follitropin α (rFSH) tái tổ hợp với lutropin α tái tổ hợp (rLH) theo tỷ lệ 2:1 (150
IU rFSH: 75 IU rLH). Pergoveris được chỉ định trong kích thích buồng trứng
trên những bệnh nhân cần bổ sung LH.
1.4.4. Một số phác đồ kích thích buồng trứng trong thụ tinh ống nghiệm
Các thuốc kích thích buồng trứng được sử dụng nhằm đạt số lượng

nang noãn trưởng thành tối đa trong một chu kỳ kích thích buồng trứng. Sau


13

đó sử dụng hCG để kích thích giai đoạn phát triển cuối cùng của các nang
noãn, đồng thời dự tính được thời điểm chọc noãn. Một số vấn đề lớn trong
kích thích buồng trứng là sự xuất hiện của đỉnh LH gây hoàng thể hóa sớm và
làm giảm chất lượng noãn. Do vậy việc ức chế đỉnh LH trong kích thích
buồng trứng để làm IVF là một trong những bước tiến lớn trong các phác đồ
kích thích buồng trứng [17].
1.4.4.1. Phác đồ gonadotropin đơn thuần
Việc sử dụng hMG hoặc FSH đơn thuần để kích thích buồng trứng
trong IVF hiện nay ít dùng do không kiểm soát được sự xuất hiện đỉnh LH
sớm, có thể ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kích thích buồng trứng và tỷ lệ thành
công. Vì vậy mà hiện nay các phác đồ kích thích buồng trứng trong IVF đều
phối hợp FSH với GnRH đồng vận hoặc đối vận.
1.4.4.2. Phác đồ GnRH đồng vận + gonadotropins.
Sử dụng FSH để kích thích sự phát triển của nang noãn. Sử dụng GnRH
đồng vận để ngăn ngừa sự xuất hiện đỉnh LH sớm, hạn chế hoàn toàn hiện
tượng phóng noãn và hoàng thể hóa sớm, làm tăng số noãn thu được trong
một chu kỳ và tỷ lệ noãn trưởng thành cao [24]. Có hai phác đồ kích thích
buồng trứng phổ biến đó là phác đồ ngắn và phác đồ dài.
1.4.4.3. Phác đồ GnRH đối vận + Gonadotropin (Phác đồ Antagonist)
Phác đồ Gonadotropin phối hợp GnRH đối vận được áp dụng lâm sàng từ
năm 2001 [25] và đã được ghi nhận một số mặt tích cực như thời gian tiêm thuốc
ngắn, nguy cơ quá kích buồng trứng giảm nên phác đồ này ngày càng được sử
dụng nhiều hơn.
- Bệnh nhân bắt đầu được tiêm FSH vào ngày 2 của chu kỳ kinh.
- Liều FSH thay đổi từ 100 - 300 UI/ ngày, tùy thuộc vào tuổi, nội tiết cơ

bản, AFC, BMI.


14


15

Có 2 phác đồ bổ sung GnRH đối vận
* Phác đồ linh hoạt:
- Bổ sung GnRH đối vận 0,25 mg/ ngày khi có ít nhất 1 nang ≥ 14 mm
N2

Nang ≥ 14mm

hCG (GnRHa)

FSH
GnRHanta
3 - 5ngµy
8 - 10 ngµy
Chäc hótt no·nChuyÓn ph«i

Hình 1.3. Phác đồ antagonist linh hoạt
* Phác đồ cố định:
Bổ sung GnRH đối vận 0,25 mg/ngày vào ngày 6 của FSH.
N2

N5 - N6 FSH


hCG (GnRHa)

FSH
1

2

3

4

5

GnRHanta
3 - 5ngµy

8 - 10 ngµy
Chäc hótt no·nChuyÓn ph«i

Hình 1.4. Sơ đồ phác đồ sử dụng antagonist cố định [25]


16

- Theo dõi sự phát triển nang noãn trên siêu âm và định lượng nội tiết
LH, E2
- Điều chỉnh liều FSH tùy thuộc vào số lượng nang noãn phát triển và
nồng độ E2.
- Tiêm hCG khi có ít nhất 2 nang lớn nhất có đường kính ≥ 17mm
- Chọc hút trứng được thực hiện 34 - 36 giờ sau khi tiêm hCG.

* Ưu điểm:
+ Kích thích buồng trứng sử dụng GnRH đối vận giống với chu kỳ sinh lý hơn.
+ Không có hiện tượng hình thành nang chức năng.
+ Rút ngắn thời gian kích thích buồng trứng.
+ Lượng thuốc ít hơn cũng như thời gian tiêm thuốc ít hơn so với phác
đồ dài.
+ Có thể giảm quá kích buồng trứng.
* Nhược điểm:
+ Sự phát triển các nang noãn có thể không đồng bộ.
+ Nguy cơ có đỉnh LH sớm có thể tăng.
+ Số lượng trứng thu được có khuynh hướng thấp hơn [25], [26].


Lưu ý khi sử dụng phác đồ Antagonist
+ Khi có nguy cơ quá kích buồng trứng có thể dùng GnRH đồng vận gây

trưởng thành noãn thay thế cho hCG.
+ GnRH đối vận làm tiêu hoàng thể nên bắt buộc phải hỗ trợ hoàng thể
một cách tích cực.


17

1.4.5. Đáp ứng khi kích thích buồng trứng
1.4.5.1. Đáp ứng kém với kích thích buồng trứng
Đáp ứng kém với KTBT là tình trạng số lượng nang noãn ít, nồng độ
estradiol thấp sau khi dùng phác đồ KTBT. Theo các nghiên cứu trên thế giới
tỷ lệ đáp ứng kém với KTBT ở bệnh nhân TTON khoảng 9 - 26% [27]. Đáp
ứng kém với KTBT thường xảy ra ở những bệnh nhân:
+ Tuổi : > 35 tuổi

+ Tiền sử có một chu kỳ đáp ứng kém với KTBT, tiền sử phẫu thuật vùng
bụng gây co kéo, tiền sử phẫu thuật buồng trứng làm giảm mô lành buồng
trứng, lạc nội mạc tử cung tại buồng trứng, suy buồng trứng sớm.
+ Trên siêu âm thấy giảm thể tích buồng trứng, giảm số lượng nang noãn
thứ cấp, giảm lượng máu đến mô đệm buồng trứng.
+ Xét nghiệm sinh hóa: Tăng nồng độ FSH cơ bản > 12 - 15 UI/ ml, tăng
nồng độ estradiol cơ bản > 75 - 80 pg/ ml, tỷ số FSH/ LH cơ bản tăng.
Một số thông số để đánh giá đáp ứng kém với KTBT.
+ Có < 4 nang noãn sau 6 ngày KTBT.
+ Kích thước nang vào ngày thứ 6 thường là 10 - 12 mm.
+ E2 < 500 pg/ ml sau 6 ngày KTBT.
+ Khi được kích thích với phác đồ chuẩn.
+ Liều FSH ≥ 300 IU/ ngày hoặc ≥ 3000 IU/ 1 chu kỳ.
+ Thời gian KTBT 12 - 14 ngày.
Hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất trong y văn về khái niệm buồng
trứng đáp ứng kém, nhưng nhiều tác giả đã sử dụng một số tiêu chuẩn sau làm
định nghĩa cho buồng trứng đáp ứng kém:
-

Có 4 nang noãn vào ngày tiêm hCG.
Hoặc hàm lượng E2 < 500pg/ml vào ngày tiêm hCG.


18



Xử trí với các trường hợp đáp ứng kém với KTBT.

-


Tăng liều sử dụng gonadotropin ngoại sinh.

-

Không nên dùng phác đồ dài GnRH đồng vận.

-

Sử dụng viên thuốc tránh thai 3 tháng liên tục sau đó KTBT lại.

-

TTON với noãn của người hiến. Đây là giải pháp hiệu quả cho các trường hợp
đáp ứng kém và ở phụ nữ lớn tuổi.
1.4.5.2. Đáp ứng buồng trứng tốt
- Có 5 – 14 nang noãn trưởng thành sau KTBT.
- Nồng độ E2 ngày tiêm hCG > 1000 pg/ml.
1.4.5.3. Hiện tượng quá kích buồng trứng
Hội chứng quá kích buồng trứng là một biến chứng thường gặp khi
KTBT, trong đó chủ yếu là bệnh nhân sử dụng gonadotropin. Ranh giới giữa
buồng trứng đáp ứng tốt và buồng trứng quá kích là rất mong manh, đa số các
trường hợp đáp ứng tốt đều có ít nhiều triệu chứng quá kích buồng trứng.
Nguy cơ quá kích buồng trứng thường gặp ở những phụ nữ trẻ hoặc nhẹ cân,
khi E2 > 3500 pg/ ml và buồng trứng có 35 nang thì có nhiều nguy cơ quá
kích buồng trứng khi cho hCG [18].
Đây là biến chứng thường gặp khi sử dụng thuốc kích thích buồng trứng,
là tình trạng đáp ứng quá mức của buồng trứng với thuốc kích thích, biểu hiện
là hiện tượng thoát dịch cấp tính ra khỏi lòng mạch vào các khoang thứ 3 của
cơ thể, kèm theo là sự to lên của buồng trứng với tần suất khoảng 25% các

trường hợp kích thích buồng trứng trong TTON [19].
Phần lớn bệnh nhân quá kích buồng trứng thể nhẹ và vừa điều trị khỏi,
không để lại di chứng. Với các trường hợp nặng nếu được điều trị thích hợp
thì thường khỏi bệnh sau 10 – 14 ngày. Những bệnh nhân có thai thời gian
khỏi bệnh thường kéo dài hơn [28].


19

Biện pháp điều trị chính là thăng bằng nước và điện giải. Các tác giả đều
thống nhất là khuyến khích bệnh nhân uống nhiều nước, nên sử dụng nước
uống có điện giải, truyền dung dịch Natri Clorua 0,9% và truyền dung dịch
cao phân tử [28].
1.4.5.4. Hoàng thể hóa sớm
Hoàng thể hóa sớm là hậu quả của việc tăng progesterone sớm trong pha
nang noãn, trước khi tiêm hCG để gây trưởng thành noãn. Tỷ lệ hoàng thể
hóa sớm xảy ra khoảng 5 – 30% chu kỳ TTON. Hoàng thể hóa sớm được
đánh giá bằng cách theo dõi nồng độ progesterone trong quá trình kích
thích buồng trứng [20].
Hoàng thể hóa sớm xảy ra khi có đỉnh LH sớm, hoàng thể hóa sớm
không gây ra phóng noãn sớm nhưng ức chế sự phát triển tế bào hạt, sự phát
triển của noãn và sản xuất progesterone không phù hợp. Các noãn chọc hút
được thường có chất lượng kém, tỷ lệ thụ tinh thấp và chất lượng phôi kém.
Ngoài ra progesterone được chế tiết không đúng thời điểm làm ảnh hưởng đến
nội mạc tử cung thì tỷ lệ làm tổ thấp.
1.4.6. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả kích thích buồng trứng
Kết quả cuối cùng của kích thích buồng trứng là thu được nhiều noãn
chất lượng tốt, điều này phụ thuộc vào một số yếu tố sau:
1.4.6.1. Tuổi
Tuổi là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến cơ hội có thai của người

phụ nữ, khoảng 11% phụ nữ không có thai sau 34 tuổi, 33% không có con sau 40
tuổi, 87% sẽ không có con sau 45 tuổi . Tuổi cũng là một trong những yếu tố
quan trọng để đánh giá và tiên lượng đáp ứng buồng trứng. Tuổi càng cao thì dự
trữ của buồng trứng càng giảm, do đó đáp ứng với các thuốc KTBT giảm.


20

Khi tuổi tăng số lượng nang noãn giảm thể hiện qua hai buồng trứng nhỏ
hơn, số lượng nang noãn ít hơn, nồng độ FSH tăng và pha nang noãn ngắn lại
sẽ ảnh hưởng đến kết quả KTBT, chất lượng noãn kém làm ảnh hưởng đến
chất lượng phôi nên khả năng có thai giảm.
Tỷ lệ vô sinh ở những phụ nữ trên 35 tuổi có thể tăng lên 30 – 50% càng
tăng thêm nếu thời gian vô sinh kéo dài. Những phụ nữ trên 40 tỷ lệ thành
công thấp ngay cả khi số lượng nang noãn nhiều, ở lứa tuổi này số lượng nang
noãn không bù đắp được cho chất lượng noãn. Ngược lại ở những phụ nữ trẻ
tuy số lượng nang noãn thấp hơn nhưng tỷ lệ có thai cao hơn vì chất lượng
noãn tốt hơn [21]
1.4.6.2. Chỉ số khối cơ thể (BMI)
BMI là một trong những yếu tố quan trọng để đánh giá đáp ứng buồng
trứng khi KTBT, được tính theo công thức: BMI = Cân nặng (kg)/ chiều cao x
chiều cao (cm2). Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng BMI tăng sẽ làm tăng liều
FSH, tăng số ngày KTBT, thu được ít nang noãn lớn. Những phụ nữ có chỉ số
khối cơ thể < 18,5 kg/ m2 và tỷ mỡ trong cơ thể < 22% có nguy cơ rối loạn
chức năng vùng dưới đồi [29], [30].
Tuy nhiên khi chỉ số khối cơ thể > 30 kg/ m2 thì khả năng có thai giảm đi
so với BMI trong giới hạn bình thường. Khi BMI tăng dễ có hiện tượng đề
kháng insulin, tăng androgen máu ảnh hưởng đến sự phát triển noãn, trưởng
thành noãn, phát triển niêm mạc tử cung. Có mối liên quan giữa hấp thu và
phân phối thuốc KTBT ở người có chỉ số khối cơ thể tăng. Phụ nữ béo phì

thường cần dùng nhiều gonadotropin nhưng số nang noãn phát triển ít, số
noãn thu được ít hơn, chất lượng phôi kém hơn, tỷ lệ làm tổ thấp, tỷ lệ sẩy
thai cao nên tỷ lệ sinh sống thấp hơn [30], tỷ lệ thành công trong TTON chỉ
bằng một nửa so với phụ nữ có BMI bình thường [31]. Béo phì và tăng insulin
máu có mối liên quan với nhau khoảng 40 – 50% phụ nữ bị hội chứng buồng


21

trứng đa nang có quá cân . Ian D.Cook ở Anh (2006) khuyên để TTON đạt kết
quả tốt thì 19 < BMI < 30 trước khi KTBT.
1.4.6.3. Thời gian vô sinh
Thời gian vô sinh càng dài thì tỷ lệ có thai càng giảm. Khi thời gian vô
sinh từ 3 - 5 năm thì tỷ lệ sinh sống là 19,5% trên mỗi chu kỳ chuyển phôi.
Mặt khác thời gian vô sinh càng tăng thì càng làm ảnh hưởng đến tâm lý, có
thể gây trầm cảm làm rối loan trục dưới đồi - tuyến yên - buồng trứng do đó
ảnh hưởng đến kết quả KTBT [32], [33].
1.4.6.5. Nồng độ FSH cơ bản
FSH cơ bản được xét nghiệm vào ngày 2 - 3 của vòng kinh là yếu tố tiên
lượng hữu ích và quan trọng. Khi nồng độ FSH cơ bản của vòng kinh > 10
IU/ L là có hiện tượng giảm nang noãn còn lại của hai buồng trứng (dự trữ
buồng trứng), nồng độ FSH cơ bản càng tăng thì đáp ứng với KTBT càng
giảm, tỷ lệ có thai giảm khi nồng độ FSH > 20 IU/ L và không thể có thai khi
FSH > 25 IU/ L [34], nồng độ FSH cơ bản không đánh giá trực tiếp được dự
trữ buồng trứng vì còn liên quan đến nồng độ inhibin- B huyết thanh [35].
Nồng độ FSH cơ bản có thể bị sai lệch nên có thể kết hợp nồng độ E2 với nồng
độ FSH do mức biến thiên nồng độ FSH trong chu kỳ là rất lớn, để phân biệt
đáp ứng bình thường hay đáp ứng kém. Bình thường nồng độ E2 ở mức cơ bản
từ 60 - 80 pg/ ml [36]. Khi nồng độ E2 cơ bản tăng có thể tiên lượng buồng
trứng đáp ứng kém mặc dù FSH cơ bản bình thường. Những trường hợp nồng

độ FSH > 40 IU/ L là giai đoạn mãn kinh.
1.4.6.6. Nồng độ estradiol cơ bản
Nồng độ estradiol cơ bản được xét nghiệm vào ngày 2 - 3 của vòng kinh
cũng là một yếu tố có thể dự đoán được kết quả KTBT và ảnh hưởng đến kết
quả KTBT. Tỷ lệ hủy bỏ chu kỳ trong TTON tăng khi nồng độ estradiol > 80 pg/
ml hay thấp < 20 pg/ ml [36], tỷ lệ có thai giảm khi nồng độ estradiol > 80pg/ml


22

và tỷ lệ hủy chu kỳ tăng lên 56%. Nồng độ estradiol cơ bản cao có thể do giảm
dự trữ buồng trứng, nang cơ năng tồn tại từ chu kỳ trước, những trường hợp
buồng trứng đa nang.
+ Sự hình thành các nang cơ năng có thể gây ảnh hưởng đến quá trình
tuyển mộ noãn trong chu kỳ điều trị dẫn đến đáp ứng kém với thuốc KTBT.
+ Khi người phụ nữ giảm dự trữ buồng trứng có thể biểu hiện bằng pha
nang noãn ngắn lại nên sẽ tăng chiêu mộ nang noãn và nồng độ estradiol tăng.
Khi dự trữ buồng trứng giảm sẽ ảnh hưởng đến kết quả KTBT.
Nồng độ estradiol cơ bản thường được kết hợp với nồng độ FSH cơ bản
để đánh giá dự trữ buồng trứng như sau:
Bảng 1.1: Nồng độ nội tiết cơ bản của vòng kinh [37]
Nồng độ FSH cơ bản

Nồng độ E2 cơ bản

Dự trữ buồng

(IU/L)
>10
>10

2-10
2-10

(pg/ml)
< 70
>70
>70
<70

trứng
Giảm
Giảm
Giảm
Bình thường

1.4.6.7. Số lượng nang noãn thứ cấp (AFC)
Siêu âm đầu dò âm đạo vào ngày 3 vòng kinh để xác định số lượng nang
noãn thứ cấp nhằm xác định số lượng nang noãn ở cả hai buồng trứng ở một
độ tuổi bất kỳ. Số lượng nang noãn thứ cấp là dấu hiệu tiên đoán tốt nhất kết
quả KTBT trong TTON, bởi vì các nang nhỏ có kích thước từ 2 - 6 mm sẽ
giảm theo tuổi. Giảm thể tích buồng trứng biểu hiện ban đầu là các nang noãn
thứ cấp giảm. Theo Candido Tomas và cộng sự khi số lượng nang noãn thứ
cấp < 5 nang thì đáp ứng kém, 5 - 10 nang đáp ứng với KTBT bình thường, >
15 nang giống như buồng trứng đa nang [38].
1.4.6.8. Anti – Mullerian hormone (AMH)


23

AMH là một glycoprotein và được tiết trực tiếp bởi các tế bào hạt của nang

noãn. Nồng độ AMH cho biết số lượng và chất lượng nang noãn hiện có trong
buồng trứng, hay còn gọi là dự trữ buồng trứng. Mức dự trữ buồng trứng càng tốt
thì khả năng sinh noãn của buồng trứng càng cao và ngược lại [39], [40].
AMH là xét nghiệm có thể làm vào bất kỳ ngày nào của chu kỳ kinh.
Dựa vào biểu đồ về mối tương quan giữa nồng độ AMH và tuổi sẽ cho biết
giá trị AMH của bệnh nhân ở mức bình thường hay không. Nồng độ AMH ở
các lứa tuổi khác nhau có ý nghĩa khác nhau [41].
Giá trị của AMH bình thường:
-

AMH bình thường: 5 - 15 pmol/l

-

AMH cao > 15 pmol/l

-

AM H thấp < 5 pmol/l

Seifer và cộng sự (2002) là người đầu tiên báo cáo có mối liên quan
giữa nồng độ AMH và đáp ứng buồng trứng với gonadotropin. Phụ nữ có
nồng độ AMH ở đầu chu kỳ cao hơn thì có số lượng noãn thu được sau chọc
hút nhiều hơn từ đó tăng tỷ lệ thành công trong TTON.
AMH có thể giúp đánh giá khả năng sinh sản của buồng trứng qua đó
giúp tiên lượng được khả năng có con của phụ nữ [39]. Trong tương lai, các
nghiên cứu về AMH và đáp ứng buồng trứng sẽ giúp các bác sỹ lâm sàng xác
định liều thuốc kích thích buồng trứng phù hợp cho từng bệnh nhân để mang
lại hiệu quả điều trị cao nhất.



24

1.4.6.9. Liều FSH ban đầu
Liều FSH ban đầu là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến kết quả KTBT. Với liều FSH ban đầu phù hợp buồng trứng sẽ có được kết
quả đáp ứng tối ưu. Liều FSH ban đầu thông thường từ 150 – 250 IU/ ngày
tùy theo từng phác đồ đã được chứng minh qua rất nhiều nghiên cứu. Liều
FSH ban đầu dựa vào tuổi, cân nặng, xét nghiêm nội tiết, AFC và tiền sử đáp
ứng của buồng trứng đối với những lần KTBT trước [42].


Đánh giá chất lượng phôi: Tiêu chuẩn Ariff Bongso [43]
Dựa vào tỷ lệ các mảnh vỡ bào tương (fragment), tốc độ phân chia của
phôi và độ đồng đều của các tế bào:



Phôi độ 3: có 4-5 tế bào vào ngày thứ 2 hoặc có 7-8 tế bào vào ngày thứ 3, các
tế bào đồng đều, không có mảnh vỡ (fragment) hoặc tỷ lệ mảnh vỡ (fragment)
< 10%.



Phôi độ 2: có 3- 4 tế bào vào ngày thứ 2 hoặc có 6-8 tế bào vào ngày thứ 3,
các tế bào không đồng đều hoặc tỷ lệ mảnh vỡ (fragment) lớn hơn 10% và ít
hơn 25%.




Phôi độ 1: có 2 tế bào vào ngày thứ 2 hoặc có < 5 tế bào vào ngày thứ 3 hoặc
tỷ lệ mảnh vỡ trên 25%.
1.5. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ SỬ DỤNG ANTAGONIST TRONG THỤ
TINH ỐNG NGHIỆM
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu sử dụng GnRH đối vận để kích
thích buồng trứng trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Nghiên cứu so sánh sử
dụng phác đồ Antagonist và phác đồ dài của Yufeng Li và cộng sự năm 2008
tại Trung Quốc trên 88 bệnh nhân IVF, 105 chu kỳ sử dụng GnRH đồng vận
và 88 chu kỳ sử dụng GnRH đối vận, kết quả cho thấy không có sự khác biệt
về thời gian, số lượng thuốc, số noãn, tuy nhiên tỷ lệ làm tổ và thai lâm sàng


25

cao hơn ở nhóm dùng phác đồ Antagonist. Nghiên cứu cũng cho thấy sử dụng
phác đồ Antagonist làm cải thiện tỷ lệ có thai trên bệnh nhân lớn tuổi đã thất
bại ở những lần IVF trước khi kích thích buồng trứng bằng phác đồ dài [44].
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh khi kích thích buồng trứng sử dụng GnRH
đối vận giống với chu kỳ sinh lý hơn. Không có hiện tượng hình thành nang
chức năng. Rút ngắn thời gian kích thích buồng trứng. Lượng thuốc ít hơn
cũng như thời gian tiêm thuốc ít hơn so với phác đồ dài. Có thể tránh gần như
hoàn toàn quá kích buồng trứng.
Tại Việt Nam cũng đã có những nghiên cứu đánh giá hiệu quả của phác đồ
Antagonist trong thụ tinh ống nghiệm tại bệnh viện Phụ Sản TW 2012 của tác giả
Phạm Thúy Nga cho thấy tỷ lệ có thai là 37,1% [22], tỷ lệ này được đánh giá là
tương đối cao so với thành công của thụ tinh ống nghiệm.


×