Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Thực trạng và giải pháp quản lý, bảo vệ rừng trên địa bàn huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
–––––––––––––––––––––––

MA CÔNG CƯƠNG

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ,
BẢO VỆ RỪNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN YÊN MINH,
TỈNH HÀ GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
–––––––––––––––––––––––

MA CÔNG CƯƠNG

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ,
BẢO VỆ RỪNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN YÊN MINH,
TỈNH HÀ GIANG
Ngành: Phát triển nông thôn
Mã ngành: 8.62.01.16

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Đào Thanh Vân


THÁI NGUYÊN - 2018


i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm
ơn và thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được trích dẫn và ghi rõ nguồn gốc./.
Tác giả luận văn

Ma Công Cương


ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện làm luận văn tốt nghiệp theo chương
trình đào tạo Thạc sĩ của Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ nhiệt tình
của nhiều tập thể và cá nhân.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Đào Thanh Vân
giáo viên trực tiếp hướng dẫn khoa học và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
thực hiện đề tài.
Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nông
Lâm, Phòng Đào tạo, các thầy cô giáo đã bổ sung, cập nhật kiến thức khoa học bổ
ích cho tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể, cá nhân: Ban quản lý rừng phòng
hộ Yên Minh, nơi tôi đang công tác, Chi cục thống kê huyện Yên Minh, Hạt Kiểm
lâm huyện Yên Minh, UBND các xã: Ngọc Long, Mậu Long, Na Khê, và các hộ
gia đình thuộc 06 thôn: Tà Muồng, Bản Rắn, Nà Mòn, Tà Chủ, Phú Tỷ 2, Thèn
Phùng đã cùng làm việc, cung cấp thông tin, tải liệu quý giá trong quá trình xây

dựng luận văn.
Mặc dù đã hết sức cố gắng song do về điều kiện thời gian, nhân lực, trình
độ và điều kiện nghiên cứu nên luận văn không thể tránh những thiếu sót nhất
định. Tôi mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy,
cô giáo, các nhà khoa học và đồng nghiệp để bản luận văn tốt nghiệp của tôi
được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái nguyên, ngày

tháng

Tác giả

Ma Công Cương

năm 2018


iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ v
DANH MỤC CÁC BIỂU........................................................................................... vi
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục tiêu đề tài ......................................................................................................... 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ................................................................ 2

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...................................................................... 4
1.1. Cơ sở lí luận của đề tài ......................................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm rừng, Quản lý bảo vệ rừng, quản lý rừng bền vững ........................ 4
1.1.2. Nguyên tắc bảo vệ và phát triển rừng ............................................................... 5
1.1.3. Cơ sở pháp lý và nguyên lý quản lý rừng bền vững ......................................... 5
1.2. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................................... 7
1.2.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu trên thế giới....................................................... 7
1.2.2. Tổng quan quá trình nghiên cứu ở Việt Nam ................................................. 14
Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................... 28
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 28
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................... 28
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 28
2.2. Nội dung nghiên cứu .......................................................................................... 28
2.2.1. Thực trạng công tác quản lý, bảo vệ, sử dụng rừng tại huyện Yên Minh,
tỉnh Hà Giang ............................................................................................................ 28
2.2.2. Các yêu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý bảo vệ rừng ............................... 28
2.2.3. Những thuận lợi, khó khăn, kiến nghị trong công tác quản lý, bảo vệ rừng
tại huyện Yên Minh ................................................................................................... 28
2.2.4. Đề xuất các giải pháp tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng................... 29
2.3. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................... 29


iv
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu .......................................................................... 29
2.3.2. Phương pháp tổng hợp, xử lý và phân tích thông tin ...................................... 31
2.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 31
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .................................. 33
3.1. Thực trạng công tác quản lý, bảo vệ, sử dụng rừng tại huyện Yên Minh,
tỉnh Hà Giang ............................................................................................................ 33
3.1.1. Khái quát chung về địa bàn nghiên cứu .......................................................... 33

3.1.2. Thực trạng công tác quản lý, bảo vệ và sử dụng rừng .................................... 43
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, bảo vệ rừng ................................. 51
3.2.1. Mối quan tâm của các bên liên quan đến công tác quản lý, bảo vệ rừng ....... 52
3.2.2. Mức độ quan trọng của các bên liên quan đến công tác quản lý, bảo vệ rừng .......... 53
3.2.3. Mức độ ưu tiến của các giải pháp quản lý bảo vệ và phát triển rừng ............. 54
3.2.4. Tác động của quản lý, bảo vệ rừng ................................................................. 55
3.3. Những thuận lợi, khó khăn, kiến nghị trong công tác quản lý, bảo vệ rừng
tại huyện Yên Minh ................................................................................................... 59
3.3.1. Thuận lợi ......................................................................................................... 59
3.3.2. Khó khăn, kiến nghị ........................................................................................ 59
3.4. Đề xuất các giải pháp tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng...................... 62
3.4.1. Giải pháp về kinh tế ........................................................................................ 62
3.4.2. Giải pháp về chính sách .................................................................................. 62
3.4.3. Giải pháp về xã hội ......................................................................................... 63
3.4.4. Giải pháp về khoa học công nghệ ................................................................... 63
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ...................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 65
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 68


v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT

Từ viết tắt

Nguyên nghĩa

1


ĐDSH

Đa dạng sinh học

2

HĐND

Hội đồng nhân dân

3

ITTO

Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế

4

KHHGD

Kế hoạch hóa gia đình

5

QLBVR

Quản lý bảo vệ rừng

6


QLRBV

Quản lý rừng bền vững

7

SXLN

Sản xuất lâm nghiệp

8

THPT-THBT

Trung học phổ thông - trung học bổ túc

9

UBND

Ủy ban nhân dân


vi
DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu 3.1. Dân số, mật độ dân số, tỷ lệ tăng dân số tại huyện Yên Minh năm 2017....35
Biểu 3.2. Hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp giai đoạn 2013 - 2017 ........................43
Biểu 3.3. Diện tích rừng phân theo chủ quản lý giai đoạn 2013 - 2017 ...................45
Biểu 3.4. Biến động tài nguyên rừng tại địa bàn nghiên cứu ....................................47
Biểu 3.5. Phân tích SWOT cho công tác quản lý, bảo vệ rừng.................................50

Biểu 3.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý và bảo vệ rừng .......................51
Biểu 3.7. Mối quan tâm của các bên liên quan đến công tác quản lý, bảo vệ rừng ....52
Biểu 3.8. Mức độ quan trọng của các bên liên quan đến công tác quản lý bảo vệ rừng ..53
Biểu 3.9. Mức độ ưu tiên của các giải pháp quản lý, bảo vệ và phát triển rừng .......54
Biểu 3.10. Cơ cấu thu nhập bình quân của một hộ gia đình tại khu vực nghiên cứu ......55
Biểu 3.11. Nhận thức của người dân trong quản lý bảo vệ rừng ..................................56
Biểu 3.12. Nhu cầu gỗ bình quân một năm của cộng đồng tại khu vực nghiên cứu .....57
Biểu 3.13. Ảnh hưởng của rừng đến môi trường ......................................................58
Biểu 3.14. Tổng hợp khó khăn, kiến nghị trong công tác quản lý, bảo vệ rừng .........59


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Rừng là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối với chúng ta. Rừng là hệ
sinh thái có độ đa dạng sinh học cao nhất ở trên cạn, đặc biệt là rừng nhiệt đới ẩm.
Rừng đóng vai trò quan trọng trong việc tích trữ nước. Ngoài những ý nghĩa về tài
nguyên động thực vật, rừng còn là một yếu tố địa lý không thể thiếu được trong tự
nhiên, đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc tạo cảnh quan và tác động mạnh mẽ
đến các yếu tố đất đai, khí hậu. Chính vì vậy, rừng không chỉ có chức năng trong
phát triển kinh tế - xã hội mà còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng: rừng
tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển ôxy và các nguyên tố
cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và độ phì nhiêu của đất, hạn chế lũ
lụt, hạn hán, ngăn chặn rửa trôi, xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt
của các thiên tai, bảo tồn nguồn nước mặt và nước ngầm và làm giảm mức ô nhiễm
không khí và nước. Ở Việt Nam ngoài những chức năng trên rừng còn mang các ý
nghĩa lịch sử, văn hóa và tâm linh của nhiều cộng đồng dân tộc khác nhau.
Tuy nhiên có một số nguyên nhân làm cho tài nguyên rừng trên Trài đất ngày
càng suy giảm về diện tích và chất lượng, trong đó rừng nhiệt đới bị suy giảm với
tốc độ lớn nhất, đó là do áp lực về dân số của các vùng tăng nhanh, nghèo đói,

người dân sinh kế chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên rừng, trình độ dân trí vùng
sâu, vùng xa còn thấp kiến thức bản địa chưa được phát huy, hoạt động khuyến
nông khuyến lâm chưa phát triển, chính sách của Nhà nước về quản lý rừng còn
nhiều bất cập, cơ cấu xã hội truyền thống có nhiều sự thay đổi… Vì vậy vấn đề bảo
vệ và phát triển tài nguyên rừng hiện nay được coi là một trong những nhiệm vụ
quan trọng nhất trong sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Một trong những đòi
hỏi để thực hiện thành công nhiệm vụ này là phải có những cơ chế phù hợp thu hút
sự tham gia tích cực của người dân vào công tác quản lý bảo vệ phát triển rừng.
Yên Minh là một huyện miền núi cao của tỉnh Hà Giang, cách thị xã Hà
Giang 100 km về phía Đông Bắc. Theo kết quả theo dõi diễn biến rừng và đất lâm
nghiệp năm 2017 huyện Yên Minh. Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là: 77.658,8
ha, trong số đó có 54.051,7 ha đất quy hoạch lâm nghiệp - chiếm tỷ lệ 69,6% so với


2
tổng diện tích tự nhiên. Trong số diện tích đất lâm nghiệp có 27.697,8 ha là đất có
rừng, diện tích rừng quy hoạch rừng phòng hộ là 18.376,7 ha, diện tích rừng quy
hoạch rừng sản xuất là 6.681,1 ha, diện tích rừng quy hoạch rừng đặc dụng là
1.763,4 ha, diện tích ngoài 3 loại rừng là 876,2 ha.
Những năm qua, công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đã được các cấp
chính quyền quan tâm và chỉ đạo thực hiện. Do đó diện tích rừng được bảo vệ tốt
hơn, chất lượng rừng được tăng lên cả về số lượng và chất lương. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đã đạt được, hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế trong công
tác quản lý, bảo vệ rừng như: việc ngăn chặn tình trạng phá rừng, suy giảm rừng,
lẫn chiếm đất rừng của các đối tượng được giao trách nhiệm quản lý, bảo vệ, sử
dụng rừng còn kẽm; công tác bảo vệ và phát triển rừng còn nặng về lợi ích trước
mắt, cơ sở hạ tầng kỹ thuật của lâm nghiệp vẫn còn thấp kém, hiệu quả sản xuất lâm
nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng của huyện... Điều này khảng định việc tìm
hiểu vấn đề và nâng cao hiệu quả công tác quản lý bảo vệ rừng là điều quan trọng
và cấp bách hiện nay. Chính vì vậy đề tài: “Thực trạng và giải pháp quản lý, bảo

vệ rừng trên địa bàn huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang” vừa có cơ sở khoa học và ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2. Mục tiêu đề tài
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý, bảo vệ, sử dụng rừng tại huyện Yên
Minh, tỉnh Hà Giang.
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý bảo vệ rừng trên địa
bàn huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang.
- Phân tích những thuận lợi, khó khăn trong công tác quản lý và bảo vệ rừng
tại huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng tại
huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở cho việc để xuất các giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ rừng trên địa bàn huyện Yên Minh. Góp phần
vào công tác quản lý, bảo vệ bền vững tài nguyên rừng.


3
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu là cơ sở để giúp các cơ quan chính quyền địa phương
cũng như cán bộ quản lý, bảo vệ và phát triển rừng xây dựng kế hoạch quản lý bảo
vệ tài nguyên rừng có hiệu quả hơn.
- Là tài liệu tham khảo trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng cho các khu vực
có điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội tương đồng.


4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở lí luận của đề tài
1.1.1. Khái niệm rừng, Quản lý bảo vệ rừng, quản lý rừng bền vững
a. Khái niệm rừng: Là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật
rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre
nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ
0,1 trở lên (Quốc hội, năm 2004) [19].
b. Quản lý bảo vệ rừng: Quản lý bảo vệ rừng là tổng hợp các biện pháp tác động
tích cực vào rừng nhằm quản lý, bảo vệ và phát triển rừng theo hướng bền vững (Lê
Sỹ Trung và Đặng Kim Tuyến, năm 2003)[25].
c. Quản lý rừng bền vững (QLRBV): Trong những năm gần đây, quản lý rừng bền
vững đã trở thành một nguyên tắc đối với quản lý kinh doanh rừng, đồng thời cũng
là một trong những tiêu chuẩn mà quản lý kinh doanh rừng phải đạt tới. Hiện nay
QLRBV có hai định nghĩa đang được sử dụng ở Việt Nam:
Theo ITTO (Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế) cho rằng: QLRBV là quá trình
quản lý những lâm phận ổn định nhằm đạt được một hoặc nhiều hơn những mục
tiêu quản lý rừng đã đề ra một cách rõ ràng, như đảm bảo sản xuất liên tục những
sản phẩm và dịch vụ mong muốn mà không làm giảm đáng kể những giá trị di
truyền và năng suất tương lai của rừng và không gây ra những tác động không
mong muốn đối với môi trường tự nhiên và xã hội (Bộ NN&PTNT, 2006) [3].
Theo Tiến trình Hensinki cho rằng: QLRBV là sự quản lý rừng và đất rừng
theo cách thức và mức độ phù hợp để duy trì tính đa dạng sinh học, năng suất, khả
năng tái sinh, sức sống của rừng và duy trì tiềm năng của rừng trong quá trình thực
hiện và trong tương lai, các chức năng sinh thái, kinh tế và xã hội của rừng ở cấp
địa phương, cấp quốc gia và toàn cầu và không gây ra những tác hại đối với hệ sinh
thái khác (Bộ NN&PTNT, 2006) [3].
Theo hai định nghĩa trên, thì QLRBV có thể hiểu là: hoạt động nhằm ngăn
chặn được tình trạng mất rừng, mà trong đó việc khai thác, lợi dụng rừng không
mâu thuẫn với việc duy trì về diện tích và chức năng đầy đủ của rừng (sản xuất gỗ



5
nguyên liệu, gỗ gia dụng, lâm sản ngoài gỗ...; phòng hộ môi trường, bảo vệ đầu
nguồn, bảo vệ chống cát bay, chống sạt lở đất...; bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ di
tích lịch sử danh lam thắng cảnh...).
1.1.2. Nguyên tắc bảo vệ và phát triển rừng
1. Hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải bảo đảm phát triển bền vững về
kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển lâm nghiệp; đúng quy hoạch, kế hoạch bảo vệ
và phát triển rừng của cả nước và địa phương; tuân theo quy chế quản lý rừng do
Thủ tướng Chính phủ quy định [25].
2. Bảo vệ rừng là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân. Hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải bảo đảm nguyên tắc quản lý rừng
bền vững; kết hợp bảo vệ và phát triển rừng với khai thác hợp lý để phát huy hiệu
quả tài nguyên rừng; kết hợp chặt chẽ giữa trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh phục
hồi rừng, làm giàu rừng với bảo vệ diện tích rừng hiện có; kết hợp lâm nghiệp với
nông nghiệp và ngư nghiệp; đẩy mạnh trồng rừng kinh tế gắn với phát triển công
nghiệp chế biến lâm sản nhằm nâng cao giá trị sản phẩm rừng [25].
3. Việc bảo vệ và phát triển rừng phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất. Việc giao, cho thuê, thu hồi, chuyển mục đích sử dụng rừng và đất phải
tuân theo các quy định của Luật này, Luật đất đai và các quy định khác của pháp
luật có liên quan, bảo đảm ổn định lâu dài theo hướng xã hội hoá nghề rừng [25].
4. Bảo đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước với chủ rừng; giữa lợi ích kinh tế
của rừng với lợi ích phòng hộ, bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên nhiên; giữa lợi
ích trước mắt và lợi ích lâu dài; bảo đảm cho người làm nghề rừng sống chủ yếu
bằng nghề rừng [25].
5. Chủ rừng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn sử dụng
rừng theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật, không làm tổn
hại đến lợi ích chính đáng của chủ rừng khác [25].
1.1.3. Cơ sở pháp lý và nguyên lý quản lý rừng bền vững
Quản lý rừng bền vững bằng những biện pháp phù hợp nhằm đạt được các

mục tiêu đề ra (sản xuất gỗ nguyên liệu, gỗ gia dụng, lâm sản ngoài gỗ...; phòng hộ


6
môi trường, bảo vệ đầu nguồn, bảo vệ chống cát bay, chống sạt lở đất...; bảo tồn đa
dạng sinh học, bảo tồn loài, bảo tồn các hệ sinh thái...). Bảo đảm sự bền vững về
kinh tế, xã hội và môi trường, cụ thể:
Bền vững về kinh tế là: bảo đảm kinh doanh rừng lâu dài liên tục với năng
suất, hiệu quả ngày càng cao (không khai thác lạm vào vốn rừng; duy trì và phát
triển diện tích, trữ lượng rừng; áp dụng các biện pháp kỹ thuật làm tăng năng suất
rừng). (Bộ NN&PTNT, 2006) [3].
Bền vững về mặt xã hội là: bảo đảm kinh doanh rừng phải tuân thủ các luật
pháp, thực hiện tốt các nghĩa vụ đóng góp với xã hội, bảo đảm quyền hạn và quyền
lợi cũng như mối quan hệ tốt với nhân dân, với cộng đồng địa phương. (Bộ
NN&PTNT, 2006) [3].
Bền vững về môi trường là: bảo đảm kinh doanh rừng duy trì khả năng
phòng hộ môi trường và duy trì được tính đa dạng sinh học của rừng, đồng thời
không gây tác hại đối với các hệ sinh thái khác. (Bộ NN&PTNT, 2006) [3].
Ngoài ra hiệu quả về môi trường của rừng hoàn toàn có thể xác định được
bằng giá trị về kinh tế. Bởi vì, thực chất việc nâng cao giá trị về môi trường sinh
thái của rừng sẽ góp phần làm giảm những chi phí cần thiết để phục hồi và ổn định
môi trường sống. Như vậy, quản lý sử dụng rừng bền vững đã trở thành một nhiệm
vụ cấp bách, một giải pháp quan trọng cho sự tồn tại lâu dài của xã hội loài người
và thiên nhiên.
Các nguyên lý quản lý rừng bền vững:
Nguyên lý thứ nhất: Sự bình đẳng giữa các thế hệ trong sử dụng tài nguyên
rừng: Cuộc sống con người luôn gắn với sử dụng tài nguyên thiên nhiên và để sử
dụng nó, chúng ta cần phải bảo vệ nó vì tài nguyên thiên nhiên không phải là vô
tận.Theo định nghĩa Brundtland thì phát triển bền vững là “sự phát triển đáp ứng
được các nhu cầu của hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến các khả năng của các

thế hệ tương lai đáp ứng được các nhu cầu của họ”.
Vấn đề mấu chốt để bảo đảm nguyên lý bình đẳng giữa các thế hệ trong quản
lý tài nguyên rừng là bảo đảm năng suất và các điều kiện tái sinh của nguồn tài
nguyên có khả năng tái tạo này. Một trong những nguyên tắc cần tuân thủ là tỷ lệ sử
dụng lâm sản không được vượt quá khả năng tái sinh của rừng.


7
Nguyên lý thứ hai: Trong quản lý tài nguyên rừng bền vững, sự phòng ngừa, nó
được hiểu là: ở đâu có những nguy cơ suy thoái nguồn tài nguyên rừng và chưa có đủ
cơ sở khoa học thì chưa nên sử dụng biện pháp phòng ngừa suy thoái về môi trường.
Nguyên lý thứ ba: Sự bình đẳng và công bằng trong sử dụng tài nguyên rừng
ở cùng thế hệ : Đây là một vấn đề khó, bởi vì trong khi cố tạo ra sự công bằng cho
các thế hệ tương lai thì chúng ta vẫn chưa tạo được những cơ hội bình đẳng cho
những người sống ở thế hệ hiện tại. Rawls, (1971) cho rằng, sự bình đẳng trong
cùng thế hệ hàm chứa hai khía cạnh:
Tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng về sự tự do thích hợp trong việc
được cung cấp các tài nguyên từ rừng;
Sự bình đẳng trong xã hội và kinh tế chỉ có thể được tồn tại nếu: (a) sự bình
đẳng này là có lợi cho nhóm người nghèo trong xã hội và (b) tất cả mọi người đều
có cơ hội tiếp cận nguồn tài nguyên rừng như nhau.
Nguyên lý thứ tư: tính hiệu quả. Tài nguyên rừng phải được sử dụng hợp lý
và hiệu quả nhất về mặt kinh tế và sinh thái.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu trên thế giới
1.2.1.1. Những nghiên cứu về QLBVR trên thế giới
Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đã được các nước có nền kinh tế
phát triển như: Thụy Điển, Nhật Bản, Pháp,… quan tâm từ rất sớm. Chính phủ các
nước này đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm xây dựng và phát triển quỹ rừng của
quốc gia như: Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển lâm nghiệp, hỗ trợ các hoạt

động lâm sinh, cho vay vốn với lãi suất thấp,… Tuy nhiên, hiện nay tài nguyên rừng
trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, đang ngày càng suy giảm cả về số
lượng và chất lượng. Theo thống kê của tổ chức FAO, trong vài chục năm gần đây,
trên thế giới đã mất đi khoảng trên 200 triệu ha rừng tự nhiên, đồng thời nhiều diện
tích rừng còn lại trong tình trạng thoái hóa nghiêm trọng cả về đa dạng sinh học và
chức năng sinh thái (Võ Đại Hải, 2005)[30]. Việc quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
chính là bảo vệ những điều kiện sinh thái cần thiết để duy trì các hoạt động sản xuất
và đời sống của người dân. Nhưng việc cố gắng quản lý bảo vệ nghiêm ngặt các


8
khu rừng thường gây nên những thua thiệt trước mắt cho cá nhân, cộng đồng dân cư
ở địa phương với các nguy cơ như: thiếu đất canh tác, nhu cầu về lâm sản phục vụ
cuộc sống (thực phẩm, gỗ củi...) không được đáp ứng... Do đó, công tác quản lý
rừng bền vững (viết tắt là QLRBV) phải hướng đến phục vụ được các nhu cầu trong
xã hội nói chung và cộng đồng dân cư sống gần rừng nói riêng. Việc đáp ứng các
nhu cầu đó phải được thực hiện thường xuyên, liên tục và ổn định lâu dài. Theo
Brundtland, thì phát triển bền vững là “sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu của
hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến các khả năng của các thế hệ tương lai đáp
ứng được các nhu cầu của họ” (Bộ NN&PTNT, 2006) [3].
Trong giai đoạn đầu của thế kỷ 20, hệ thống quản lý tài nguyên rừng tập
trung đã thực hiện ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở những quốc gia phát triển (Lê
Thiên Vinh, 2007)[27]. Trong giai đoạn này, vai trò của cộng đồng trong quản lý
rừng ít được quan tâm. Vì vậy, họ chỉ biết khai thác tài nguyên rừng lấy lâm sản và
đất đai để canh tác nông nghiệp, nhu cầu lâm sản ngày càng tăng đã dẫn đến tình
trạng khai thác quá mức tài nguyên rừng và làm cho tài nguyên rừng ngày càng bị
suy thoái nghiêm trọng. Nhằm khắc phục tình trạng khai thác rừng quá mức, các
nhà lâm học Đức (Hartig - 1840; Heyer - 1883; Hundeshagen - 1926) cũng đã
nghiên cứu và đề xuất nguyên tắc lợi dụng lâu bền đối với rừng thuần loại đều tuổi;
các nhà lâm học Pháp (Gournand - 1922) và Thụy Sỹ (Biolley - 1922) đã nghiên

cứu và đề ra phương pháp kiểm tra điều chỉnh sản lượng với rừng khai thác chọn
khác tuổi (Lê Thiên Vinh, 2007)[27].
Hiện nay, theo ước tính của Tổ chức Nông lương Liên Hợp quốc (FAO) thì
mỗi năm 130.000 km² rừng trên thế giới bị biến mất do nạn phá rừng. Điều này
khiến cho môi trường sống của 2/3 loài trên trái đất bị thu hẹp, đa dạng sinh học bị
suy giảm, nếu không có giải pháp kịp thời và hữu hiệu, trong tương lai không xa,
mỗi ngày chúng ta sẽ phải nói lời chia tay với 100 loài.
Để ngăn chặn tình trạng mất rừng, bảo vệ và phát triển vốn rừng, bảo tồn
ĐDSH trên phạm vi toàn thế giới, cộng đồng quốc tế đã thành lập nhiều tổ chức,
tiến hành nhiều hội nghị, đề xuất và cam kết nhiều công ước về bảo vệ và phát triển
rừng trong đó có Chiến lược bảo tồn (năm 1980 và điều chỉnh năm 1991), Tổ chức


9
Gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO năm 1983), Chương trình hành động rừng nhiệt đới
(TFAP năm 1985), Hội nghị quốc tế về môi trường và phát triển (UNCED tại Rio
de Janeiro năm 1992), Công ước quốc tế về buôn bán các loài động thực vật quý
hiếm (CITES), Công ước về Đa dạng sinh học (CBD, 1992), Công ước về thay đổi
khí hậu toàn cầu (CGCC, 1994), Công ước về chống sa mạc hoá (CCD, 1996), Hiệp
định quốc tế về gỗ nhiệt đới (ITTA, 1997).
Nhằm bảo tồn và nâng cao nhận thức của cộng đồng cũng như tăng cường
quản lý và phát triển rừng bền vững vì lợi ích của cư dân trên toàn thế giới hiện tại
và tương lai, cùng với Diễn đàn về rừng được thành lập năm 2000, Liên Hợp quốc
đã quyết định chọn năm 2011 là “Năm quốc tế về rừng” với mục tiêu chính là thúc
đẩy việc quản lý, bảo tồn và phát triển bền vững tất cả các loại rừng; đồng thời, tăng
cường cam kết chính trị lâu dài giữa các quốc gia dựa trên “Tuyên bố Rio” (1992),
các nguyên tắc trong Chương trình nghị sự 21 về công tác chống phá rừng. Thông
qua các hoạt động trong “Năm quốc tế về rừng” tại các quốc gia và khu vực, Liên
Hợp quốc mong muốn độ che phủ rừng trên toàn thế giới sẽ gia tăng đáng kể thông
qua quản lý rừng bền vững, bao gồm bảo vệ, phục hồi trồng rừng và tái trồng rừng,

cùng những nỗ lực ngăn chặn suy thoái rừng. Đồng thời, giảm những tác động kinh
tế - xã hội và môi trường đến rừng bằng cách cải thiện sinh kế của người dân sống
phụ thuộc vào rừng.
Năm 2005 chức ITTO tổ chức đánh giá thực trạng quản lý rừng nhiệt đới, kết
quả kể từ năm 1988, công tác QLRBV đã đạt được tiến độ đáng kể, đặc biệt việc
quy hoạch lâm phận ổn định, ban hành chính sách QLRBV và xây dựng phương án
điều chế rừng. Tuy nhiên, tỷ lệ rừng sản xuất là rừng tự nhiên trong khuôn khổ
QLRBV hiện vẫn còn rất thấp và phân bố không đồng đều. Chẳng hạn tại Châu Á,
ước tính chỉ khoảng 12% lâm phần rừng tự nhiên quản lý bền vững và chỉ 5% lâm
phần rừng sản xuất là rừng tự nhiên được cấp chứng chỉ QLRBV1. Điều này gắn
với kết quả điều tra khảo sát tài nguyên rừng cho thấy việc quy hoạch diện tích rừng
- đặc biệt là rừng có chức năng bảo tồn và bảo vệ - đã góp phần đáng kể vào công
tác QLRBV.


10
Với mong muốn tái lập một lâm phận sản xuất ổn định của các nước sản xuất
các sản phẩm gỗ nhiệt đới, đồng thời các khách hàng tiêu thụ sản phẩm gỗ nhiệt đới
lại có mong muốn các nhà sản xuất phải điều tiết việc khai thác rừng sao cho đáp
ứng các chức năng sinh thái toàn cầu, từ đó đã thúc đẩy sự hình thành hệ thống
QLRBV. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng những tổ chức đánh giá QLRBV và Hội
đồng quản trị rừng thế giới đã được thành lập để xét công nhận tư cách của các tổ
chức xét và cấp chứng chỉ rừng.
Hiện nay trên thế giới có một số quy trình cấp chứng chỉ rừng đang hoạt
động như Hội đồng quản trị rừng quốc tế (FSC), Chương trình phê duyệt các quy
trình chứng chỉ rừng (PEFC) của Châu Âu, Sáng kiến lâm nghiệp bền vững (SFI)
của Bắc Mỹ, Hội tiêu chuẩn Canada (CSA), Quy trình chứng chỉ quốc gia
CertforChile của Chile, Viện nhãn sinh thái Indonesia (LEI), và Hội đồng chứng chỉ
gỗ Mã Lai (MTCC). Hai quy trình đang hoạt động ở cấp toàn cầu là FSC và PEFS,
trong khi đó các quy trình khác chỉ hoạt động ở cấp vùng hoặc quốc gia (Bộ

NN&PTNT, 2006) [2].
Hiện nay, ở các nước đang phát triển, khi sản xuất nông lâm nghiệp còn
chiếm vị trí quan trọng đối với người dân nông thôn, miền núi, thì quản lý rừng theo
hình thức phát triển lâm nghiệp xã hội đang là một trong những mô hình được đánh
giá cao trên các phương diện kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái.
Với mục đích quản lý bền vững, các khu bảo vệ (protected areas) được thành
lập ngày càng nhiều, nhiều quốc gia trên thế giới đã quan tâm đến việc quản lý bền
vững các khu bảo vệ. Nhiều chính sách và giải pháp được đưa ra để áp dụng quản lý
rừng bền vững. Năm 1996, tại Vườn quốc gia Bwindi Impenetrable và Mgahinga
Gorilla thuộc Uganda, Wild và Mutebi đã nghiên cứu giải pháp quản lý, khai thác
bền vững một số lâm sản và quản lý bảo vệ tài nguyên thiên nhiên giữa Ban quản lý
vườn và cộng đồng dân cư.
Trong báo cáo "Hợp tác quản lý với người dân ở Nam Phi - Phạm vi vận
động" của Moenieba Isaacs và Najma Mohamed (2000) đã nghiên cứu và đưa ra
giải pháp quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững tại Vườn quốc gia Richtersveld
chủ yếu dựa trên hương ước (Contractual Agreement) quản lý bảo vệ tài nguyên,


11
trong đó người dân cam kết bảo vệ đa dạng sinh học trên địa phận của mình còn
chính quyền và Ban quản lý hỗ trợ người dân xây dựng hạ tầng và cải thiện các điều
kiện kinh tế - xã hội khác.
Nhằm bảo vệ bền vững tài nguyên rừng tại Vườn Quốc gia Kruger của Nam
Phi (2000), Chính phủ đã trao quyền sử dụng đất đai, chia sẽ lợi ích từ du lịch cho
người dân và ngược lại người dân phải tham gia quản lý và bảo vệ tài nguyên tại
Vườn quốc gia.
Theo Shuchenmann (1999), tại Vườn quốc gia Andringitra của Madagascar,
để thực hiện quản lý rừng bền vững, Chính phủ đảm bảo cho người dân được quyền
chăn thả gia súc, khai thác tài nguyên từ rừng phục hồi để sử dụng tại chỗ, cho phép
giữ gìn những tập quán truyền thống khác như có thể giữ gìn các điểm thờ cúng

thần rừng. Ngược lại, người dân phải đảm bảo tham gia bảo vệ sự ổn định của các
hệ sinh thái trong khu vực.
Tại Khu bảo tồn Hoàng gia Chitwan ở Nepal, để quản lý rừng bền vững,
cộng đồng dân cư vùng đệm được tham gia hợp tác với một số bên liên quan trong
việc quản lý tài nguyên vùng đệm phục vụ cho du lịch. Lợi ích của cộng đồng khi
tham gia quản lý tài nguyên là khoảng 30 - 50% thu được từ du lịch hằng năm sẽ
được đầu tư trở lại cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng (Oli
Krishna Prasad (ed), 1999)[29].
Cuộc điều tra đánh giá tài nguyên rừng của FAO năm 2005 đã cho thấy một
nghịch lý, trong khi diện tích rừng được quy hoạch bảo tồn và bảo vệ tăng lần lượt
6,4 triệu và 3,4 triệu ha/năm, thì trên thế giới mỗi năm vẫn mất khoảng 5,8 triệu ha
rừng nguyên sinh - một diện tích tương đương với 1/3 quốc gia Campuchia. Việc
quy hoạch các diện tích rừng, mặc dù không theo tiêu chí QLRBV, là một bước tiến
đầu tiên quan trọng trong quá trình hướng tới tính bền vững.
Trong thời gian vừa qua, nhiều nước trên thế giới đã khá thành công trong
việc cấp chứng chỉ rừng nên đã góp phần đáng kể QLRBV. Tính đến đầu năm 2015,
toàn thế giới đã có 449,9 ha rừng đạt tiêu chuẩn Quản lý rừng bền vững và được cấp
chứng chỉ bởi mọi hệ thống. Chủ yếu là hệ thống chứng chỉ FSC và PEFC. Trong
đó riêng chứng chỉ FSC đã cấp cho 83 nước với 1,292 triệu chứng chỉ FM/CoC và


12
28.964 chứng chỉ CoC. Nước đứng đầu về diện tích rừng được cấp chứng chỉ Quản
lý rừng bền vững là Canada với 23 triệu ha và đứng thứ hai là Nga với diện tích
được cấp chứng chỉ là 21 triệu ha. Các quy trình Chứng chỉ rừng gồm quy trình
Quốc tế như: FSC, PEFC, SFI...và các quy trình Quốc gia như: MTCC (của
Malaysia), LEI (của Indonesia) [14].
Thực tế cho thấy, Chứng chỉ rừng đã được các nước trên thế giới biết đến và
sử dụng từ khoảng 20 năm trở lại đây; trong khi đó, ở Việt nam hiện nay khái niệm
Chứng chỉ rừng đang còn là rất mới mẻ với cán bộ, người dân hoạt động trong lĩnh

vực lâm nghiệp.
1.2.1.2. Các biện pháp quản lý rừng trên thế giới
Sự gia tăng dân số gây sức ép rất lớn đối với tài nguyên rừng, và phương
thức quản lý rừng theo hướng tiếp cận đơn mục đích (chỉ chú ý tới khai thác bền
vững tài nguyên gỗ) đã không còn phù hợp nữa, xã hội loài người bắt đầu hướng tới
một phương thức quản lý rừng mới mang tính bền vững hơn đó là phương thức
quản lý rừng đa mục đích.
Quản lý rừng theo hướng tiếp cận mới - quản lý đa mục đích là một đóng
góp rất đáng kể cùng với sự phát triển của ngành Lâm nghiệp, sự phát triển đó phải
mang lại lợi ích kinh tế, môi trường và xã hội, có thể cân bằng giữa nhu cầu hiện tại
và tương lai (Trần Văn Mùi, năm 2005) [16]. Giai đoạn đầu thế kỷ XX, vai trò của
người dân trong công tác quản lý rừng chưa được chú ý tới. Do vậy, người dân chỉ
biết khai thác lâm sản và phá rừng lấy đất canh tác nương rẫy mà không hề quan
tâm tới việc xây dựng và phát triển vốn rừng dẫn tới tài nguyên rừng trong giai đoạn
này bị suy thoái nghiêm trọng (Nguyễn Tiến Thành, năm 2007) [24].
Việc quản lý rừng theo phương thức tập trung đã không mang lại kết quả
trong quản lý tài nguyên rừng như mong muốn của các nhà quản lý, người ta bắt
đầu nhận thấy tầm quan trọng của người dân, cộng đồng địa phương trong việc
tham gia quản lý tài nguyên rừng đó là cơ sở của sự ra đời phương thức quản lý
rừng dựa vào cộng đồng và khái niệm đồng quản lý trong tài nguyên rừng cũng
được ra đời từ đó. Phương thức quản lý rừng cộng đồng xuất hiện đầu tiên ở ấn Độ
và dần dần biến thái thành các hình thức quản lý khác nhau như lâm nghiệp trang


13
trại, lâm nghiệp xã hội (Nêpan, Thái Lan, Philippines,...) (Vũ Nhâm, năm
2005)[17]. Trong việc xây dựng mối quan hệ đồng quản lý tài nguyên rừng thì vai
trò của người dân được nhắc tới nhiều hơn, việc đồng quản lý nhằm gắn chặt quyền
lợi với nghĩa vụ của người dân khi tham gia quản lý rừng, để người dân thực sự cảm
nhận được vai trò làm chủ của mình đối với tài nguyên rừng khi tham gia vào công

tác quản lý rừng. Nhờ việc thực hiện theo phương thức quản lý rừng dựa vào cộng
đồng, thực hiện đồng quản lý trong việc chia sẻ lợi ích mà tại Ấn Độ đã có hơn
63.000 nhóm - tổ tham gia vào các chương trình trồng mới 14 triệu ha rừng, mang
lại hiệu quả tích cực trong việc phục hồi và phát triển rừng của đất nước, góp phần
giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn về lợi ích giữa nhà nước và người dân địa phương.
Ở Nam Phi tại vườn quốc gia Richtersveld việc nghiên cứu tìm ra phương
thức hợp tác quản lý với cộng đồng dân cư dựa trên hương ước quản lý bảo vệ rừng,
trong đó người dân cam kết bảo vệ đa dạng sinh học trên địa phận của mình còn
chính quyền và ban quản lý hỗ trợ người dân xây dựng cơ sở hạ tầng và cải thiện
các điều kiện kinh tế xã hội khác đã đóng góp rất tích cực cho việc thực hiện quản
lý rừng tại Vườn quốc gia (Quỹ HEINRICH, năm 2002) [22]. Chính sách của nhà
nước về các giải pháp kinh tế, xã hội có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý
rừng. Một trong những yếu tố quan trọng quyết định tới hiệu quả của công tác quản
lý rừng đó là sự rõ ràng trong quyền sử dụng/sở hữu rừng và đất rừng.
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy những nơi mà quyền sở hữu/sử dụng về
rừng và đất rừng không được xác định rõ thì tài nguyên rừng nhanh chóng bị khai
thác cạn kiệt và chuyển sang các mục đích sử dụng khác, không khuyến khích được
việc bảo vệ đất, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức vì lợi ích kinh tế trước
mắt. Vì vậy, sự tham gia của các cộng đồng trong quản lý và sử dụng đất được xem
là một trong những chìa khoá để nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Một số nghiên cứu
cho thấy các mối quan hệ truyền thống trong xã hội có vai trò quan trọng trong việc
giải quyết những vấn đề về sở hữu/sử dụng tài nguyên (Laslo Pancel, 1993) (Fao,
năm 1990) [28]. Thông qua các nghiên cứu và thực tiễn sản xuất, chính phủ các
nước đã đưa ra các chương trình quan trọng như “Lâm nghiệp cộng đồng”, các
chính sách quản lý tài nguyên thiên nhiên và đều chú trọng đến sự tham gia của


14
người dân, sự phân cấp và chuyển giao trách nhiệm quản lý tài nguyên sang các
cộng đồng địa phương và các nhóm sử dụng. Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy,

mâu thuẫn giữa việc muốn bảo vệ rừng và đất rừng của nhà nước và lợi ích của
cộng đồng địa phương có thể gây nên những xung đột về sử dụng tài nguyên ở vùng
rừng và đất rừng phòng hộ đầu nguồn cho các hồ thủy điện. Kết quả của sự canh tác
nông nghiệp không hợp lý dẫn đến xói mòn và rửa trôi đất xuống lòng hồ làm suy
giảm tuổi thọ của hồ thuỷ điện. Từ thực tế trên, một số quốc gia đã đưa ra các biện
pháp chống xói mòn như: Biện pháp sử dụng đất tổng hợp để kiểm soát xói mòn
xuống lòng hồ, đồng thời nâng cao năng suất cây trồng và vật nuôi cho người dân,
biện pháp đắp bờ, trồng cây theo đường đồng mức, trồng băng cây phân xanh hay
cỏ lâu năm (Indonesia), canh tác trên đất dốc với 4 mô hình SALT (Philippines).
Như vậy, có thể thấy rằng người dân đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong sử dụng đất bền vững và là nhân tố quyết định tới việc quản lý bảo vệ, phục
hồi rừng phòng hộ. Ở Trung Quốc, Chính phủ khuyến khích sự tham gia của người
dân thông qua hệ thống hợp đồng quản lý đất (Vương Văn Quỳnh và cộng sự, năm
2000) [23] . Ngoài ra, thông qua các chính sách đất đai cũng đã giải quyết được vấn
đề như th c đẩy kinh tế, bình đẳng và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và sử dụng
đất bền vững (Nguyễn Ngọc Hùng, năm 2002) [13]. Như vậy, sự hỗ trợ của nhà nước
và các tổ chức, các chính sách về đất đai, dựa trên những mục tiêu củng cố vai trò của
người dân địa phương, trong đó việc xác định rõ quyền sở hữu/sử dụng đất đai được
coi như là cơ bản cho việc sử dụng đất hiệu quả, bền vững và bảo vệ tài nguyên.
1.2.2. Tổng quan quá trình nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.2.1. Những nghiên cứu về QLBVR ở Việt Nam
Là một quốc gia đang phát triển, có diện tích đất lâm nghiệp chiếm khoảng
50% tổng diện tích tự nhiên toàn quốc (Bộ NN&PTNT, 2006) [4],[6]. Nên tài
nguyên rừng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, rừng ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập
và đời sống kinh tế của một bộ phận dân số của cả nước.
Trong thời kỳ trước năm 1945 tài nguyên rừng Việt Nam khá phong phú,
nhu cầu lâm sản của con người còn thấp, mức độ tác động của con người vào tài
nguyên rừng chưa cao, vấn đề QLRBV chưa được đặt ra. Trong thời kỳ này, toàn



15
bộ rừng nước ta là rừng tự nhiên đã được chia theo các chức năng để quản lý, sử
dụng như sau:
+ Rừng chưa quản lý: Là những diện tích rừng ở những vùng núi hiểm trở,
dân cư thưa thớt, nhà nước thực dân chưa có khả năng quản lý, người dân được tự
do sử dụng lâm sản, đốt nương làm rẫy. Việc khai thác sử dụng lâm sản đang ở mức
tự cung tự cấp, lâm sản chưa trở thành hàng hoá.
+ Rừng mở để kinh doanh: Là những diện tích rừng ở những vùng có dân cư
và đường giao thông thuận lợi cho việc vận chuyển lâm sản. Những diện tích rừng
này được chia thành các đơn vị như khu, từ khu được chia thành các lô khai thác và
theo chu kỳ, sản lượng do hạt trưởng lâm nghiệp quản lý, đấu thầu khai thác.
+ Rừng cấm: Là những diện tích rừng sau khai thác, cần được bảo vệ để tái
sinh trong cả chu kỳ theo vòng quay điều chế, cũng có thể là khu rừng có tác dụng
đặc biệt cần được bảo vệ.
Trong giai đoạn nửa sau của thế kỷ XX, Việt Nam đã mất đi hàng triệu hecta
rừng, đó là nguyên nhân chủ yếu gây ra những biến đổi khí hậu, gia tăng tần suất và
mức độ thiệt hại của hạn hán, lũ lụt. Dẫn đến hằng năm nhà nước phải đầu tư nhiều
tỉ đồng để củng cố đê điều và chống lũ. Đồng thời, mất rừng đã gây nên sự xói mòn
mạnh và sự thoái hóa một số diện tích đất đồi núi.
Ngoài các nguyên nhân mất rừng do sự gia tăng dân số, thiếu thốn về lương
thực, phá rừng lấy đất canh tác, khai thác lâm sản quá mức, rừng Việt Nam còn bị
ảnh hưởng bởi sự huỷ diệt trầm trọng của 2 cuộc chiến tranh kéo dài đã làm cho tài
nguyên rừng bị giảm sút vì bom đạn, chất độc hoá học tàn phá nặng nề. Nếu như
diện tích rừng của nước ta năm 1945 là 14,3 triệu ha, tỷ lệ che phủ rừng là 43% thì
đến năm 1976 chỉ còn 11,2 triệu ha, tỷ lệ che phủ rừng còn 33,8%.
Từ sau hoà bình lập lại rừng được chia thành 3 chức năng để quản lý sử dụng
đó là rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Tổ chức quản lý sử dụng 3
loại rừng được hình thành và phát triển từ năm 1986. Trong thời kỳ này, hoạt động
của ngành lâm nghiệp đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Ngay sau khi hoà bình
lập lại, toàn bộ diện tích rừng và đất rừng ở miền Bắc được quy hoạch vào các lâm

trường quốc doanh. Nhiệm vụ chủ yếu là khai thác lâm sản để phục vụ cho nhu cầu


16
phát triển của các ngành kinh tế và của nhân dân, việc xây dựng và phát triển vốn
rừng tuy có đặt ra nhưng chưa được các đơn vị sản xuất kinh doanh lâm nghiệp
quan tâm đúng mức. Cùng với mức độ tăng nhanh về dân số, tình trạng chặt phá
rừng tự nhiên lấy đất sử dụng canh tác nông nghiệp, lấy các sản phẩm gỗ, củi và các
lâm sản khác càng diễn ra nghiêm trọng hơn. Những hình thức quản lý và sử dụng
tài nguyên rừng như trên đã làm cho tài nguyên rừng nước ta bị tàn phá một cách
nặng nề (diện tích rừng đã bị giảm 5,0 triệu ha từ năm 1945 đến 1995), trung bình
mỗi năm giảm 0,1 triệu ha. Giai đoạn từ năm 1946 - 1960, công tác bảo vệ và phát
triển rừng chủ yếu là khoanh nuôi bảo vệ, hướng dẫn nông dân miền núi sản xuất
trên nương rẫy, ổn định công tác định canh, định cư, khôi phục kinh tế sau chiến
tranh. Giai đoạn 1961 - 1975 QLBVR được đẩy mạnh, khoanh nuôi tái sinh rừng
gắn chặt với định canh, định cư. Công tác khai thác rừng đã chú ý đến thực hiện
theo các quy trình, quy phạm, đảm bảo xúc tiến tái sinh tự nhiên. Nhìn chung, công
tác QLBVR được thống nhất quản lý từ trung ương đến địa phương. Sau ngày thống
nhất đất nước, Nhà nước quản lý toàn bộ tài nguyên rừng thông qua các lâm trường
quốc doanh, người dân và cộng đồng đã bị tách rời khỏi các hoạt động quản lý, sử
dụng tài nguyên rừng. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên tình
trạng suy thoái tài nguyên rừng một cách nhanh chóng ở nước ta. Vào khoảng năm
1990 - 1995, rừng Việt Nam ở mức thấp nhất, diện tích rừng chỉ còn 9,3 ha, tỷ lệ
che phủ rừng 28,2%.
Theo tài liệu trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn
2006-2020, hoạt động sản xuất của ngành lâm nghiệp giai đoạn 1996 - 2005, đang
chuyển đổi mạnh mẽ từ nền lâm nghiệp quốc doanh, theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang nền lâm nghiệp xã hội hoá với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và hoạt
động theo cơ chế của nền kinh tế sản xuất hàng hoá, do đó ngành lâm nghiệp đã
tham gia tích cực tạo việc làm, cải thiện đời sống cho gần 25% dân số của Việt Nam

sống trên địa bàn rừng núi, góp phần bảo đảm an ninh chính trị xã hội, tạo đà phát
triển chung cho đất nước trong các năm qua. Công tác bảo vệ và phát triển rừng trên
phạm vi toàn quốc đã từng bước đạt được những tiến bộ, tình trạng suy thoái về
diện tích và chất lượng rừng được ngăn chặn, diện tích rừng tăng từ 9,30 triệu ha


17
năm 1995 lên 12,61 triệu ha năm 2005 và 13,2 triệu ha năm 2009. Hiện nay bình
quân mỗi năm trồng mới được 200.000 ha rừng. Sản lượng khai thác gỗ rừng trồng
đạt 2.000.000 m3/năm để cung cấp nguyên liệu cho chế biến hàng lâm sản xuất khẩu
và tiêu dùng trong nước (Chính phủ, năm 2007)[12] và đến cuối năm 2016 tỷ lệ che
phủ rừng của nước ta đạt 41,19%.
Tuy nhiên, thực tế vẫn còn những tồn tại hạn chế như: diện tích rừng tuy có
tăng nhưng chất lượng và tính đa dạng sinh học của rừng tự nhiên vẫn tiếp tục bị
suy giảm, ở một số nơi diện tích rừng tiếp tục bị tàn phá.
Do yêu cầu về chức năng bảo tồn và phòng hộ của rừng ngày càng trở nên
quan trọng, để bảo vệ môi trường bền vững phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội
nên các hoạt động lâm nghiệp đặc biệt quan tâm đến 2 loại rừng đặc dụng và phòng
hộ. Quốc hội Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã thông qua Dự án
trồng mới 5 triệu ha rừng giai đoạn 1998-2010 tại Kỳ họp thứ Hai, Quốc Hội Khóa
X bằng Nghị quyết số 08 ngày 5/2/1997, với mục tiêu trồng 2 triệu ha rừng phòng
hộ, đặc dụng và 3 triệu ha rừng sản xuất. Kết quả, sau 12 năm triển khai dự án, nhờ
có sự quan tâm chỉ đạo và có nhiều chủ trương, giải pháp cụ thể của Chính phủ, đến
nay công tác bảo vệ rừng và trồng rừng mới đã đạt được nhiều kết quả. Số vụ vi
phạm pháp luật liên quan đến rừng có xu hướng giảm, năm 2010 giảm 46 % so với
năm 1998. Tổng diện tích đã trồng và khoanh nuôi tái sinh rừng trong thời gian thực
hiện dự án là 4.675.006 ha, đạt 93,5 % kế hoạch. Trong đó, trồng rừng đạt
2.450.010 ha, khoanh nuôi tái sinh rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đạt 1.283.350 ha,
diện tích trồng cây công nghiệp và cây ăn quả là 941.464 ha, đạt 94% kế hoạch. Độ
che phủ rừng đã tăng từ 32% năm 1998 lên 39,5 % diện tích cả nước năm 2010 (Uỷ

Ban Thường Vụ Quốc Hội cho ý kiến về kết quả thực hiện dự án trồng mới 5 triệu
ha rừng, ngày 11/10/2011) [32], khi kết thúc dự án 661.
Trong tiến trình phát triển lâm nghiệp, quan niệm “Quản lý rừng bền vững” ở
Việt nam mới được hình thành từ những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ 20. Từ
đó cho tới nay, vấn đề quản lý rừng bền vững luôn là một yếu tố chủ chốt trong các
chính sách, chiến lược và kế hoạch hành động của Việt nam. Điều đó được thể hiện
trong các văn bản pháp luật, các chỉ thị nghị quyết của Chính phủ cũng như trong
các quy chế, quy trình, quy phạm của ngành. Cụ thể:


×