Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên: QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.57 KB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

QUẢNG CÁO
NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
Chuyên ngành: Luật Kinh tế

Hà Nội, 5/2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

QUẢNG CÁO
NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
Chuyên ngành: Luật Kinh tế

Sinh viên thực hiện : Thạch Thị Hưởng
Tào Thị Quý
Đặng Thị Ngọc Anh
Phạm Thị Linh
Lớp, khoa
: LKT11-03
Năm thứ
: 3 /Số năm đào tạo: 4


Ngành học
: Luật Kinh tế

Người hướng dẫn: GVC. HOÀNG MINH CHIẾN

Hà Nội, 5/2014


MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
CHƯƠNG I...........................................................................................................2
NHẬN THỨC CHUNG VỀ CẠNH TRANH, CẠNH TRANH...........................2
KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH.......................................................................................................2
1.1.Khái quát về cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh...............................2
1.1.1. Khái quát về cạnh tranh.......................................................................2
1.1.2. Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh..........................................7
1.2. Những vấn đề chung về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.. 14
1.2.1. Khái niệm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh............14
1.2.2. Đặc điểm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.............15
1.2.3. Phân loại về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh..............18
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG......................................21
2.1. Thực trạng pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh................................................................................................................21
2.1.1. Điều chỉnh pháp luật đối với các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh tại Việt Nam....................................................................21
2.1.2. Thiết chế thi hành pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về kiểm soát
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh...............................25

2.2 Thực tiễn hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh lành mạnh ở Việt Nam hiện
nay....................................................................................................................28
2.2.1. Tình hình chung.................................................................................28
2.2.2. số liệu cụ thể......................................................................................33
2.3. Phân tích một số vụ việc thực tiễn về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh.............................................................................................35
2.3.1. Quảng cáo gian dối hoặc gây nhầm lẫn.............................................35
2.3.2. quảng cáo so sánh..............................................................................38
2.3.3. Quảng cáo bắt chước.........................................................................40
CHƯƠNG 3.........................................................................................................42
NHẬN XÉT VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT................42


3.1. Nhận xét các quy định pháp luật quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh................................................................................................................42
3.1.1. Những điểm đã đạt được...................................................................42
3.1.2. Những điểm còn bất cập....................................................................43
3.1.3. Nguyên nhân của tình trạng quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh............................................................................................................49
3.2. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quảng
cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh...........................................................58


DANH MỤC BẢNG
MỤC LỤC.............................................................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
CHƯƠNG I...........................................................................................................2
NHẬN THỨC CHUNG VỀ CẠNH TRANH, CẠNH TRANH...........................2
KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH.......................................................................................................2

1.1.Khái quát về cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh...............................2
1.1.1. Khái quát về cạnh tranh.......................................................................2
1.1.2. Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh..........................................7
d. Phân loại..........................................................................................12
1.2. Những vấn đề chung về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.. 14
1.2.1. Khái niệm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh............14
1.2.2. Đặc điểm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.............15
1.2.3. Phân loại về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh..............18
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG......................................21
2.1. Thực trạng pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh................................................................................................................21
2.1.1. Điều chỉnh pháp luật đối với các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh tại Việt Nam....................................................................21
2.1.2. Thiết chế thi hành pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về kiểm soát
hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh...............................25
2.2 Thực tiễn hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh lành mạnh ở Việt Nam hiện
nay....................................................................................................................28
2.2.1. Tình hình chung.................................................................................28
2.2.2. số liệu cụ thể......................................................................................33
2.3. Phân tích một số vụ việc thực tiễn về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh.............................................................................................35
2.3.1. Quảng cáo gian dối hoặc gây nhầm lẫn.............................................35
2.3.2. quảng cáo so sánh..............................................................................38
2.3.3. Quảng cáo bắt chước.........................................................................40


CHƯƠNG 3.........................................................................................................42
NHẬN XÉT VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT................42
3.1. Nhận xét các quy định pháp luật quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành

mạnh................................................................................................................42
3.1.1. Những điểm đã đạt được...................................................................42
3.1.2. Những điểm còn bất cập....................................................................43
3.1.3. Nguyên nhân của tình trạng quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh............................................................................................................49
3.2. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quảng
cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh...........................................................58


LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, với mỗi nền kinh tế khác nhau thì thị trường phải tuân theo
các quy luật nhất định của nền kinh tế đó. Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật đó
là quy luật cung- cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh… Trong đó, nếu quan hệ
cung- cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường.
Thật vậy, cạnh tranh có vai trò rất to lớn trong nền kinh tế thị trường. Nó có
vai trò điều phối các hoạt động kinh doanh trên thị trường, đảm bảo cho việc sử
dụng các nguồn lực kinh tế một cách hiệu quả nhất, đáp ứng nhu cầu của người tiêu
dùng…Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực đối với
nền kinh tế, thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh. Các hành vi này sẽ khiến các
doanh nghiệp tẩy chay nhau, làm mất uy tín của thương hiệu, giảm lòng tin của
người tiêu dùng và gây các thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần khác cho các chủ thể
kinh doanh và người tiêu dùng. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra trên
nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế như trong hoạt động khuyến mại, bán
hàng đa cấp, trong các hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp… và ngày
càng xuất hiện nhiều trong lĩnh vực quảng cáo.
Quảng cáo là một trong những hoạt động xúc tiến thương mại được các doanh
nghiệp sử dụng nhiều nhất hiện nay. Đặc biệt, trong thời đại công nghệ số, quảng cáo
đóng vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Việc hàng hóa, dịch vụ có được
người tiêu dùng biết đến và sử dụng hay không phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược
quảng cáo của doanh nghiệp. Xét dưới góc độ người tiêu dùng, trong thời gian qua, vì

nhiều mục đích lợi nhuận khác nhau mà một số doanh nghiệp đã sử dụng các hình thức
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại về cả vật chất lẫn tinh thần
cho người tiêu dùng. Trong đó, chúng ta không thể không kể đến những quảng cáo gây
nhầm lẫn liên quan đến các loại hàng hóa, dịch vụ trong lĩnh vực y tế như thuốc, vắcxin, thực phẩm chức năng, thiết bị y tế… Do vậy, trong khuôn khổ bài nghiên cứu của
nhóm, chúng em xin được trao đổi một số vấn đề pháp lý, thực tiễn áp dụng pháp luật
liên quan đến vấn đề quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

1


CHƯƠNG I
NHẬN THỨC CHUNG VỀ CẠNH TRANH, CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ QUẢNG CÁO NHẰM CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH MẠNH
1.1.Khái quát về cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh.
1.1.1. Khái quát về cạnh tranh
a. Khái niệm
Với tư cách là động lực nội tại thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế chỉ tồn tại
trong điều kiện kinh tế thị trường, cạnh tranh được xem xét dưới nhiều góc độ khác
nhau. Do vậy, hiện tại không có một khái niệm nhất quán nào về cạnh tranh mà có
nhiều quan điểm khác nhau như sau:
Theo C. Mac: “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản
nhằm giành giật nhưng điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu
được lợi nhuận siêu ngạch”.
Theo hai nhà kinh tế học Mỹ là P.A Samuelson và W.D Nordhaus trong cuốn
Kinh tế học (xuất bản lần thứ 12) thì: “Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh
nghiệp cạnh tranh với nhau để dành khách hàng hoặc thị trường. Hai tác giả này cho
cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo”.
Theo các tác giả trong cuốn “Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách cạnh
tranh, kiểm soát độc quyền kinh doanh” thì: “Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh

đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng
nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường để đạt được một mục tiêu kinh doanh
cụ thể, ví dụ như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần”.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam (tập một) thì: “Cạnh tranh trong kinh doanh là
hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các
nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung-cầu nhằm giành
các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất”.
Theo Từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì: “Cạnh tranh trong cơ
chế thị trường là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm giành tài
nguyên sản xuất cùng một loại hàng hóa về phía mình”.
Theo Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống Mỹ thì: “Cạnh tranh đối

2


với một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng,
có thể sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường quốc
tế, đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của người dân nước đó”.
Theo báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm 2003 tại diễn đàn Liên hợp quốc thì
định nghĩa: “Cạnh tranh đối với một quốc gia là khả năng của nước đó đạt được những
thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế cao được xác định bằng các thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GĐP) tính
trên đầu người theo thời gian”.
b. Đặc điểm
Như đã nói ở trên, chúng ta có nhiều định nghĩa không giống nhau về cạnh tranh. Tuy
nhiên, hầu hết các định nghĩa đều mô tả cạnh tranh có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cạnh tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường.
Với tư cách là một hiện tượng xã hội, cạnh tranh chỉ xuất hiện khi tồn tại những
tiền đề nhất định sau đây:

+ Có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp khác nhau trong nền kinh tế thị trường.
Sở dĩ như vậy vì nếu trong một thị trường nhất định nào đó chỉ có một doanh nghiệp
tồn tại thì chắc chắn sẽ không có một doanh nghiệp nào mua hay bán các sản phẩm
như họ, do đó sẽ không có cạnh tranh. Ngược lại, nếu trong một thị trường nhất định
nào đó tồn tại nhiều doanh nghiệp khác nhau thì với những mục tiêu lợi ích, những
tính toán khác nhau chắc chắn sẽ xuất hiện cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp kinh
doanh tốt hơn. Như vậy, cạnh tranh chỉ thực sự trở thành động lực thúc đẩy thị trường
khi có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp khác nhau.
+ Cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu như các chủ thể kinh doanh có quyền tự do
hành xử trên thị trường. Tự do thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm sẽ đảm bảo cho các
doanh nghiệp có thể chủ động tiến hành các cuộc tranh giành để tìm cơ hội phát triển,
tìm cơ hội khẳng định mình trên thị trường. Tuy nhiên, sự tự do này phải diễn ra trong
khuôn khổ pháp luật.
Thứ hai, về mặt hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các
doanh nghiệp. Nói cách khác, cạnh tranh suy cho cùng là phương thức giải quyết mâu
thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định của người
tiêu dùng.

3


Trong kinh doanh, lợi nhuận là động lực cho sự gia nhập thị trường, là thước đo
sự thành đạt và là mục đích hướng đến của doanh nghiệp. Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mac-Lênin đã chỉ ra nguồn gốc của lợi nhuận là giá trị thặng dư mà nhà tư
bản tìm kiếm được trong các chu trình sản xuất, chuyển hóa giữa tiền- hàng.
Trong chu trình đó, khách hàng và người tiêu dùng có vai trò là đại diện cho thị
trường, quyết định giá trị thặng dư của xã hội sẽ thuộc về ai. Ở đó, mức thụ hưởng về
lợi nhuận của mỗi nhà kinh doanh sẽ tỷ lệ thuận với năng lực của bản thân họ trong
việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, người tiêu dùng trong xã hội.
Hình ảnh của cạnh tranh sẽ được minh họa bằng quan hệ tay ba giữa các doanh

nghiệp với nhau và với khách hàng. Các doanh nghiệp đua nhau lấy lòng khách hàng.
Khách hàng là người có quyền lựa chọn người sẽ cung ứng sản phẩm cho mình. Quan
hệ này sẽ được mô tả tương tự khi các doanh nghiệp cùng nhau tranh giành một nguồn
nguyên liệu.
Hiện tượng tranh đua như vậy được kinh tế học gọi là cạnh tranh trong thị
trường. Từng cách thức được sử dụng để ganh đua được gọi là hành vi cạnh tranh của
doanh nghiệp. Kết quả của cuộc cạnh tranh trên thị trường làm cho người chiến thắng
mở rộng được thị phần và tăng lợi nhuận, làm cho kẻ thua cuộc chịu mất khách hàng
và phải rời khỏi thị trường.
Thứ ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng tranh giành
thị trường mua hoặc thị trường bán sản phẩm.
Mỗi doanh nghiệp tham gia thị trường đều hướng tới các mục tiêu lợi nhuận nhất
định. Ở đó, họ luôn mong muốn có thể mua được nguồn nguyên liệu rẻ và bán sản
phẩm ra thị trường với giá cao nhưng phải giành được đông đảo sự lựa chọn của khách
hàng và người tiêu dùng. Lúc này, cạnh tranh sẽ xảy ra giữa các doanh nghiệp có
chung lợi ích tiềm năng về nguồn nguyên liệu đầu vào (cạnh tranh mua) hoặc về thị
trường đầu ra của sản phẩm (cạnh tranh bán) trong quá trình sản xuất. Lý thuyết cạnh
tranh xác định sự tồn tại của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp theo hướng xác định sự
tồn tại của thị trường liên quan đối với các doanh nghiệp. Việc họ có cùng một thị
trường liên quan làm cho họ có cùng mục đích và trở thành đối thủ cạnh tranh của
nhau. Theo kinh nghiệm pháp lý của một số nước và theo Luật cạnh tranh Việt Nam,
thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên
quan. Việc xác định xác định thị trường liên quan suy cho cùng là xác định khả năng

4


thay thế cho nhau giữa sản phẩm của các doanh nghiệp trên một khu vực địa lý cụ thể.
Trong đó, khả năng thay thế của các sản phẩm thường được mô tả bằng tính năng sử
dụng, tính chất lý hóa và giá cả tương tự nhau. Mọi sự khác biệt của một trong ba dấu

hiệu đó sẽ làm phân hóa nhóm khác hàng tiêu thụ và làm cho các sản phẩm không thể
thay thế cho nhau.
Nói tóm lại, chúng ta chỉ có thể xác định các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh
của nhau khi xác định được các doanh nghiệp đó cùng trên một thị trường liên quan,
cùng có chung khách hàng hoặc đối tác để tranh giành, cùng có chung một mục tiêu
lợi ích để hướng đến.
c. Phân loại cạnh tranh
Vì chúng ta có rất nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh nên cũng có nhiều
cách phân loại khác nhau về cạnh tranh. Theo đó:
- Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia làm hai loại là cạnh
tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa hoặc dịch vụ.
+ Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các
ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất.
- Căn cứ vào tính chất cạnh tranh, cạnh tranh được chia làm ba loại là cạnh tranh
hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và cạnh tranh độc quyền. Theo đó:
+ Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà ở đó người mua và người bán
đều không có khả năng tác động đến giá cả của sản phẩm trên thị trường. Trong hình
thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả của sản phẩm hoàn toàn do quan hệ cungcầu, quy luật giá trị quyết định; không có sự tồn tại của bất kỳ khả năng hay quyền lực
nào có thể chi phối các quan hệ trên thị trường. Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh,
các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành hoặc làm khác biệt
hóa sản phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các
ngành sản xuất mà ở đó các doanh nghiệp phân phối hoặc sản xuất có sức mạnh và thế
lực để có thể chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường.
+ Cạnh tranh độc quyền là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường chỉ có một
hoặc một số ít người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó, giá cả của sản phẩm hoặc

5



dịch vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định, không phụ thuộc vào quan hệ cung-cầu.
- Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh, cạnh tranh được chia làm hai
loại là cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Theo đó:
+ Cạnh tranh lành mạnh là cạnh tranh đúng pháp luật, phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức và xã hội và được xã hội thừa nhận; nó thường diễn ra sòng phằng, công
bằng và công khai.
+ Cạnh tranh không lành mạnh là cạnh tranh trái với quy định của pháp luật, trái
với các chuẩn mực đạo đức, xã hội và bị xã hội lên án.
d. Vai trò của cạnh tranh
Như đã nói ở phần mở đầu, trong nền kinh tế thị trường, nếu quan hệ cung-cầu là
cốt vật chất, giá cả là diện mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường. Cạnh tranh đã
đem lại những bước phát triển nhảy vọt của loài người trong nền kinh tế thị trường mà
các hình thái kinh tế trước đó chưa từng có. Theo đó, cạnh tranh có những vai trò cơ
bản như sau:
Thứ nhất, cạnh tranh đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Trong môi trường cạnh tranh, khi mà các doanh nghiệp ganh đua với nhau vì
mục đích lợi nhuận thì hàng hóa sẽ có chất lượng ngày càng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn,
các chủng loại đa dạng hơn và giá cả ngày càng hợp lý hơn. Vì vậy, người tiêu dùng có
thể thoải mái, dễ dàng trong việc lựa chọn các sản phẩm phù hợp với sở thích và túi
tiền của mình. Những lợi ích mà họ thu được từ hàng hóa và dịch vụ họ sử dụng ngày
càng được nâng cao, thỏa mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của họ nhờ các chương
trình khuyến mại, các dịch vụ kèm theo các sản phẩm mà họ đã và đang tiêu dùng.
Thứ hai, cạnh tranh có vai trò điều phối các hoạt động kinh doanh trên thị trường.
Với tư cách là một quy luật trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh đảm bảo,
phân phối thu nhập và các nguồn lực kinh tế tập trung vào tay những doanh nghiệp
giỏi, có khả năng và bản lĩnh kinh doanh. Sự tồn tại của cạnh tranh sẽ loại bỏ những
khả năng lạm dụng quyền lực thị trường để bóc lột đối thủ cạnh tranh, bóc lột khách
hàng. Kết quả của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thương trường là lấy lại phần

thị trường, lấy lại các yếu tố thị trường như vốn, nguyên vật liệu, lao động… của bên
yếu thế và kinh doanh kém hiệu quả hơn để trao cho bên thắng cuộc, bên có khả năng
sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế hơn. Và kết quả này lại được sử dụng
làm khởi đầu cho giai đoạn cạnh tranh tiếp theo. Cứ như vậy, cạnh tranh buộc các

6


doanh nghiệp thua cuộc phải thu hẹp hoạt động kinh doanh, thậm chí phải rời bỏ thị
trường. Có thể nói, cạnh tranh lúc này được mô tả như quy luật đào thải tự nhiên diễn
ra trên thị trường mà không có ngoại lệ.
Thứ ba, cạnh tranh đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn lực kinh tế một cách
hiệu quả nhất.
Để sản phẩm của mình có thể cạnh tranh được trên thị trường, các doanh nghiệp
đã nỗ lực để giảm chi phí, từ đó giảm giá thành sản phẩm. Họ buộc phải tiết kiệm và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực mà họ có. Ngược lại, nếu doanh nghiệp sử dụng
một cách lãng phí các nguồn lực mà họ có thì chắc chắn chi phí sản xuất sẽ tăng cao,
giá trị hàng hóa tăng lên không cần thiết cho nên không thể cạnh tranh được với các
doanh nghiệp khác trên thị trường liên quan, dù cho doanh nghiệp đó lớn thế nào thì
đến một khoảng thời gian nhất định sẽ không thể bù đắp được chi phí bỏ ra và tất yếu
sẽ bị đào thải ra khỏi thị trường. Do đó, cạnh tranh chính là động lực cơ bản giảm sự
lãng phí trong kinh doanh, giúp cho mọi nguồn nguyên, nhiên, vật liệu được sử dụng
tối ưu.
Thứ tư, cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ
thuật trong kinh doanh.
Trong thị trường, khi cung một hàng hóa nào đó lớn hơn cầu thì làm cho giá cả
của hàng hóa đó giảm xuống, lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp sẽ giảm dần.
Điều này buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại thì phải giảm chi phí sản xuất, nâng cao
năng xuất lao động bằng cách tích cực ứng dụng đưa khoa học, công nghệ tiên tiến vào
trong quá trình sản xuất. Ngược lại, khi cung một loại hàng hóa nào đó nhỏ hơn cầu

hàng hóa sẽ dẫn đến sự khan hiếm về hàng hóa, làm cho giá cả hàng hóa tăng cao, lợi
nhuận của các doanh nghiệp cũng tăng lên. Điều này kích thích các doanh nghiệp nâng
cao năng xuất lao động bằng cách ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến hoặc mở
rộng quy mô sản xuất để có được nhiều hàng hóa tung ra thị trường. Cứ như vậy, cuộc
chạy đua giữa các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sự phát triển không ngừng của khoa học,
công nghệ trong đời sống kinh tế và xã hội.
1.1.2. Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh.
a. Khái niệm
Trong quá trình hội nhập kinh tế, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra
ngày một phổ biến và đang trở thành vấn đề đáng quan tâm của tất cả các quốc gia trên

7


thế giới. Để những hành vi cạnh tranh không lành mạnh này được hiểu một cách rõ
ràng, chính xác và có những quy chế điều chỉnh thích hợp, nhiều quốc gia trên thế giới
đã đưa ra khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, theo đó:
Điều 10 Bis Công ước Pari về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp quy định: “Bất
cứ hành vi cạnh tranh nào trái với họat động thực tiễn, không trung thực trong lĩnh vực
công nghiệp và thương mại đều bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh”.
Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Đức (1909), một trong những đạo
luật ra đời sớm nhất điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tại Điều 1 đã
khẳng định: “người nào trong các giao dịch kinh doanh mà thực hiện các hành vi trái
với thuần phong mỹ tục, thì có thể bị yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm và bồi thường
thiệt hại”. Luật cũng đã liệt kê những hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: Quảng
cáo so sánh, quảng cáo trái với thuần phong mỹ tục, hành vi làm hàng nhái…
Luật chống cạnh tranh của cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: “Cạnh tranh
không lành mạnh là hoạt động của doanh nghiệp trái với quy định của luật này, gây
thiệt hại cho quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp khác, làm rối loạn trật tự
kinh tế- xã hội…”

Ở Việt Nam, trước khi Luật Cạnh tranh 2004 ra đời đã có một số văn bản quy
định về vấn đề cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên chưa có văn bản nào đưa ra
được khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh
tranh đưa ra khái niệm “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức
kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”.
Có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về cạnh tranh nhưng nhìn
chung có thể hiểu cạnh tranh không lành mạnh là đi ngược lại với nguyên tắc xã
hội, truyền thống kinh doanh. Vai trò của cạnh tranh trong việc cân bằng cung cầu
trên thị trường, tạo động lực đổi mới và phát triển cũng như bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng được thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên để đạt được những lợi ích như
vậy thì cạnh tranh phải đi theo một khuôn khổ và tuân theo những nguyên tắc nhất
định. Và cạnh tranh không lành mạnh chính là thứ cạnh tranh quá mức và vì thế gây
tác dụng ngược.

8


b. Đặc điểm.
Thứ nhất, Là hành vi của doanh nghiệp nhằm mục đích cạnh tranh.
Đặc điểm này thể hiện đối tượng áp dụng của Luật Cạnh tranh. Điều 2, Luật
Cạnh tranh quy định những đối tượng này bao gồm: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh bao
gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp
hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp nước
ngoài hoạt động ở Việt Nam; các Hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam. Những
đối tượng còn lại như các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức của người tiêu dùng, các đơn
vị truyền thông, các tổ chức phi kinh tế,… không là đối tượng áp dụng các quy định
của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh. Điều đó có nghĩa nếu họ vi phạm pháp
luật về cạnh tranh thì cũng không phải chịu những chế tài xử phạt của Luật Cạnh

tranh. Mặt khác đặc điểm này cũng khẳng định hành vi cạnh tranh không lành mạnh
xảy ra trong kinh doanh ở mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, mọi công
đoạn của quá trình kinh doanh. Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh được
áp dụng cho mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực kinh tế.
Thứ hai, hành vi đó có những biểu hiện trái với các chuẩn mực đạo đức kinh
doanh hoặc trái với xã hội.
Đặc điểm này là căn cứ lí luận để xác định bản chất không lành mạnh của hành
vi. Nếu như dựa vào đặc điểm này thì không thể quy kết một hành vi cụ thể của doanh
nghiệp là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Như vậy chỉ có thể xác định các chuẩn
mực thông thường về đạo đức kinh doanh dựa vào các căn cứ:
+ Căn cứ luật định là những tiêu chuẩn đã được định lượng hóa bằng pháp luật,
một khi hành vi đi trái với các quy định pháp luật sẽ được xem là không lành mạnh.
Trong trường hợp này hành vi cạnh tranh không lành mạnh đồng nghĩa với cạnh tranh
bất hợp pháp. Theo đó hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm điều cấm của
pháp luật được xem như trái với chuẩn mực đạo đức kinh doanh.
+ Các tập quán kinh doanh thông thường đã được thừa nhận rộng rãi được áp
dụng đối với những hành vi chưa được pháp luật dự liệu. Các tập quán kinh doanh
xuất hiện lâu đời và được nhiều chủ thể kinh doanh thừa nhận và áp dụng nhiều lần thì
chắc chắn không đi ngược lại với các chuẩn mực kinh doanh vốn có. Đây được xem
như một biện pháp dự phòng để áp dụng cho những trường hợp pháp luật chưa quy
định về một hành vi cụ thể nhưng hành vi này đã xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi

9


ích của doanh nghiệp khác, của người tiêu dùng và trái với tập quán kinh doanh. Căn
cứ này đã mở rộng khả năng điều chỉnh pháp luật đối với những hành vi cạnh tranh
không lành mạnh.
Thứ ba, hành vi đó gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc của người tiêu dùng.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có đối tượng xâm hại cụ thể là lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc của người tiêu
dùng. Thiệt hại ở đây có thể là thiệt hại đã xảy ra trên thực tế hay cũng có thể là thiệt
hại có thể chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai nếu không ngăn chặn hành vi. Việc xác
định thiệt hại xảy ra giúp phân biệt được hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành
vi hạn chế cạnh tranh. Nếu như hành vi hạn chế cạnh tranh chỉ làm thay đổi một cách
tiêu cực tình trạng cạnh tranh hoặc làm giảm tác dụng của cạnh tranh thì hành vi cạnh
tranh không lành mạnh lại bắt buộc phải có hậu quả xảy ra. Nó xâm hại đến trật tự
quản lý cạnh tranh của Nhà nước mà không cản trở, làm sai lệch hay làm giảm tình
trạng cạnh tranh của thị trường.
c. Tác động của cạnh tranh không lành mạnh tới xã hội.
- Cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm đến các chính sách quản lý cạnh tranh
của nhà nước.
Việc ban hành Luật Cạnh tranh 2004 cùng với các văn bản pháp luật hướng dẫn
thi hành như Nghị định 116/2005 NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh , Nghị
định 120/2005 NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh cho thấy
Nhà nước ta đang cố gắng đưa cạnh tranh phát triển theo một hệ thống, một nguyên tắc
chung. Cạnh tranh không lành mạnh là hành vi đi ngược lại hay làm không đúng theo
các quy định của pháp luật về cạnh tranh và gây khó khăn cho nhà nước trong việc
quản ký cũng như kiểm soát các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
- Cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm đến quyền và lợi ích của đối thủ cạnh
tranh.
+ Ngăn cản các đối thủ cạnh tranh được thực hiện chủ yếu thông qua thủ thuật
bán phá giá. Ngoài ra còn có những hành vi tẩy chay, thâu tóm khách hàng của đối thủ.
Các hành vi này nhằm mục đích lôi kéo khách hàng về phía mình tuy nhiên sự lôi kéo
đó là do thực hiện các hành vi xâm hại đến lợi ích của các doanh nghiệp khác mà ở
đây là các đối thủ cạnh tranh trực tiếp.

10



+ Dèm pha hoặc bôi nhọ đối thủ: Trong cuộc sống đời thường, việc đưa tin thất
thiệt về người khác là điều không thể loại bỏ triệt để. Để vị thế của doanh nghiệp lên
một tầm cao vì thế mà các sản phẩm hàng hóa cũng được biết đến một cách rộng rãi
trên thị trường thì việc mà các doanh nghiệp hướng tới là hạ thấp đối thủ cạnh tranh.
Họ có thể đưa ra những thông tin không đúng sự thật về đối thủ cạnh tranh nhằm làm
cho người tiêu dùng, các doanh nghiệp khác hợp tác với doanh nghiệp đó mất đi niềm
tin và sự tín nhiệm với doanh nghiệp “bị chơi xấu”.
+ Bội tín: Trong môi trường cạnh tranh, mọi doanh nghiệp đều có những bí mật
kinh doanh của mình. Đây cũng là một trong những phương tiện, công cụ bảo vệ lợi
ích và sự thành đạt của doanh nghiệp. nhưng vì mục tiêu cạnh tranh, đây cũng là đối
tượng mà các đối thủ cạnh tranh luôn “tò mò” và muốn chiếm đoạt. Vì đây được coi là
một bộ phận thuộc lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp nên được pháp luật bảo vệ.
- Cạnh tranh không lành mạnh xâm hại đến lợi ích của người tiêu dùng.
+ Can thiệp vào quyền tự do quyết định của khách hàng .
Trong cơ chế thị trường , tự do kinh doanh ắt sẽ kéo theo tự do lựa chọn của
khách hàng. Tuy nhiên sự tự do lựa chọn đó luôn có sự can thiệp của các doanh nghiệp
có hàng hóa, sản phẩm người tiêu dùng đang hướng tới. Trong số những hành vi nhằm
tác động vào sự tự do định đoạt của khách hàng trước hết phải kể đến hành vi lừa dối
khách hàng, gây cho khách hàng không hoàn toàn tự chủ trong khi quyết định tham gia
quan hệ mua bán. Họ đưa ra những lừa dối đặc biệt về quyền của khách hàng mà các
doanh nghiệp khác không có để người tiêu dùng đứng về phía mình.
Ngoài ra còn có những hành vi nhằm mục đích cưỡng ép khách hàng, là một
hành vi nhà bán hàng xử sự không lành mạnh , họ dồn khách hàng vào thế bí mà
không còn cách nào khác là phải chấp nhận quan hệ mua bán.
+ Khuyến mại.
Khuyến mại được coi là những biện pháp nhằm thực hiện những sản phẩm hoặc
dịch vụ phụ, không mất tiền trên cơ sở có việc mua bán những sản phẩm, dịch vụ
chính. Thực ra đây chỉ là sự ngụy trang cho việc giảm giá. Giá thành mà khách hàng
trả cho sản phẩm, dịch vụ chính đã bao gồm cả sản phẩm phụ.

+ Quảng cáo sai lệch.
Quảng cáo, đưa ra thông tin sai lệch liên quan đến hàng hóa, phương thức và điều
kiện thương mại là hành vi cạnh tranh không lành mạnh phổ biến hiện nay. Là một

11


hình thức quảng bá sản phẩm của mình tới người tiêu dùng bằng cách đưa ra thông tin
sản phẩm thật hấp dẫn và sinh động. Nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao, cuộc
sống ngày càng bận rộn khiến họ chỉ quan tâm đến những lời mời gọi từ quảng cáo mà
quên đi những thông tin mà họ đưa ra là những thông tin gian dối nhằm mục đích lừa
dối khách hàng.
d. Phân loại.
Nhằm ngăn chặn những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh đang có trên thị
trường xâm phạm đến trật tự kinh doanh và có khả năng gây ra những xáo trộn xã hội
nhất định, Luật cạnh tranh quy định những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bao
gồm những hành vi sau đây:
- Chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Là hành vi sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại,
khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khác
theo quy định của Chính phủ để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa,
dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh. Cấm kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ
dẫn gây nhầm lẫn đó.
- Xâm phạm bí mật kinh doanh.
Theo khoản 10 Điều 3 Luật Cạnh tranh, bí mật kinh doanh là thông tin có đủ các
điều kiện sau đây: Không phải là hiểu biết thông thường; Có khả năng áp dụng trong
kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn
so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng thông tin đó; Được chủ sở hữu bảo
mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp
cận được.

Doanh nghiệp bị cấm thực hiện các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh sau:
+ Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các
biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó;
+ Tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của
chủ sở hữu bí mật kinh doanh;
+ Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa
vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của
chủ sỡ hữu bí mật kinh doanh đó;
+ Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người

12


này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu
hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước
hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp phép liêm quan
đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.
- Ép buộc trong kinh doanh.
Các hành vi ép buộc khách hàng, các đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác
bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch
với doanh nghiệp đó được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh và bị pháp luật
nghiêm cấm.
- Gièm pha doanh nghiệp khác.
Cấm doanh nghiệp gièm pha doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián
tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài
chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.
- Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.
Cấm doanh nghiệp gây rối hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp
khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp đó.

- Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Để đạt được mục tiêu xúc tiến thương mại ở mức tối ưu, doanh nghệp dễ có thể
thực hiện quảng cáo không trung thực về giá trị và chất lượng thật của hàng hóa, sản
phẩm với tính chất cạnh tranh không lành mạnh. Theo Điều 45 Luật Cạnh tranh, các
doanh nghiệp bị cấm thực hiện các hoạt động quảng cáo sau đây:
+ So sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại
của doanh nghiệp khác;
+ Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác gây nhầm lẫn cho khách hàng;
+ Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong số các
nội dung sau đây: Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì,
ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hóa, nơi sản xuất, người gia công, nơi
gia công; Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành; Các thông tin
gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.
+ Các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm.
- Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

13


Các doanh nghiệp bị cấm thực hiện các hoạt động khuyến mại sau đây:
+ Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng;
+ Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa
dối khách hàng;
+ Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức
khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;
+ Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi
hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để
dùng hàng hóa của mình;
+ Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm.
- Phân biết đối xử của hiệp hội.

Cấm hiệp hội ngành nghề thực hiện các hành vi sau đây:
+ Từ chối doanh nghiệp có đủ đều kiện gia nhật hoặc rút khỏi hiệp hội nếu việc
từ chối đó mang tính phân biệt đối xử và làm cho doanh nghiệp đó bị bất lợi trong
cạnh tranh;
+ Hạn chế bất hợp lý hoạt độn kinh doanh hoặc các hoạt động khác có liên quan
tới mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên.
- Bán hàng đa cấp bất chính.
Các doanh nghiệp bị cấm thực hiện các hành vi sau đây nhằm thu lợi bất chính từ
việc tuyển dụng người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp:
+ Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hóa ban
đầu hoặc phải trả một khoản tiền để được tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp;
+ Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho
người tham gia để bán lại;
+ Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ
yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
+ Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp,
thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia.
1.2. Những vấn đề chung về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
1.2.1. Khái niệm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Quảng cáo trong cạnh tranh không lành mạnh là một vấn đề cần quan tâm trong
nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, hành vi quảng cáo không chỉ đơn giản là

14


hành vi quảng cáo cho sản phẩm mà còn là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tổ
chức cá nhân tổ chức hoạt động kinh doanh.
Theo quan niệm của 1 số nước trên thế giới như:
+ Hiệp hội Hoa Kỳ (AMA) đưa ra khái niệm quảng cáo: “Quảng cáo là bất cứ
loại hình nào của sự hiện diện không trực tiếp của hàng hóa, dịch vụ hay tư tưởng hành

động mà người ta phải trả tiền để nhận biết người quảng cáo”;
+Hiệp hội quảng cáo Mỹ định nghĩa: “Quảng cáo là hoạt động truyền bá thông
tin trong đó nói rõ ý đồ của quảng cáo, tuyên truyền hàng hóa, dịch vụ của quảng cáo
trên cơ sở thu phí quảng cáo, không trực tiếp nhằm công kích người khác”.
Các khái niệm này được đưa ra dựa trên sự phát triển thực tại của nền kinh tế và
hoạt động quảng cáo tại nơi đó.
Ở Việt Nam:
+ Khái niệm quảng cáo được đưa ra tại khoản 1, điều 2 của Luật Quảng cáo năm
2012 :” Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục
đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới
thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân”.
+ Trong quy định luật cạnh tranh 2004 không có quy định nào định nghĩa cụ thể
quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh nhưng tại Điều 45 có liệt kê những hành vi bị
cấm nhằm hạn chế hành vi quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh: So sánh trực tiếp
hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hàng hóa, dịch vụ doanh nghiệp khác; Bắt chước
một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng; Đưa thông tin gian
dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng.
Việc đưa ra nhưng hành vi bị coi là quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh tạo
cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện và kiểm tra hoạt động quảng cáo của
doanh nghiệp.
1.2.2. Đặc điểm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là một dạng của quảng cáo vì vậy
nó có các đặc điểm chung của quảng cáo thương mại:
- Chủ thể quảng cáo thương mại.
Có nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động quảng cáo thương mại với mục đích,
cách thức và mức độ khác nhau. Đó có thể là:
+ Thương nhân tự thực hiện quảng cáo về hoạt động kinh doanh của mình;
+ Thương nhân thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thực hiện việc


15


quảng cáo thương mại cho mình;
+ Chi nhánh của thương nhân Việt Nam hoặc của thương nhân nước ngoài tại
Việt Nam cũng được quyền như thương nhân;
+ Văn phòng đại diện của thương nhân không được trực tiếp thực hiện hoat động
quảng cáo thương mại. Trong trường hợp được thương nhân ủy quyền, Văn phòng đại
diện có quyền ký kết hợp đồng với thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương
mại để thực hiện quảng cáo cho thương nhân mà mình đại diện;
+ Thương nhân nước ngoài muốn quảng cáo thương mại về hoạt động kinh
doanh của mình tại Việt Nam phải thuê thương nhân thực hiện dịch vụ quảng cáo tại
Việt Nam thực hiện.
- Hàng hóa, dịch vụ quảng cáo thương mại.
Đối tượng của quảng cáo thương mại là những hàng hóa, dịch vụ đang hoặc sẽ
được thương nhân cung ứng trên thị trường. Về nguyên tắc, thương nhân được quyền
quảng cáo đối với mọi hàng hóa, dịch vụ mà mình được quyền kinh doanh tuy nhiên
nhằm thực hiện chính sách xã hội, pháp luật có quy định cấm hoặc hạn chế đối với
hàng hóa, dịch vụ. Do đó hàng hóa, dịch vụ quảng cáo thương mại không thuộc hàng
hóa,, dịch vụ cấm hoặc hạn chế hinh doanh.
Một số hàng hóa, dịch vụ bị cấm quảng cáo : Thuốc lá; Rượu có nồng độ cồn
từ 15 độ trở lên; Sản phẩm sữa thay thế sữa mẹ dùng cho trẻ dưới 24 tháng tuổi, sản
phẩm dinh dưỡng bổ sung dùng cho trẻ dưới 6 tháng tuổi, bình bú và vú ngậm nhân
tạo; Thuốc kê đơn, thuốc không kê đơn nhưng được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khuyến cáo hạn chế sử dụng hoặc sử dụng có sự giám sát của Nhà nước;
Súng săn và đạn súng săn, vũ khí thể thao hoặc các sản phẩm, hàng hóa có tính chất
kích động bạo lực;…
- Sản phẩm và phương tiện quảng cáo thương mại.
+ Sản phẩm quảng cáo thương mại: sản phẩm quảng cáo thương mại gồm những
thông tin bằng hình ảnh, hành động, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu

sắc, ánh sáng chứa đựng nội dung quảng cáo thương mại. Tất cả những yếu tố này làm
nên sản phẩm quảng cáo nhằm truyền tải đến người tiêu dùng thông tin về hàng hóa,
hoạt động kinh doanh của họ. Những thông tin này phải đảm bảo tính chính xác, trung
thực, rõ rang, không gây thiệt hại cho người sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng.
+ Phương tiện quảng cáo : Phương tiện quảng cáo là công cụ được sử dụng để

16


giới thiệu sản phẩm quảng cáo thương mại. Nó quyết định đến sự thành công về chiến
lược kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Phương tiên quảng cáo bao gồm tất cả các
phương tiện có khả năng truyền tải thông tin đến công chúng bao gồm: Các phương
tiện thông tin đại chúng; các phương tiện truyền tin, pa-nô, áp phích, vật thể cố định,
các phương tiên giao thông hoặc các vật thể di động khác; các phương tiện quảng cáo
thương mại khác.
Ngoài những đặc điểm của quảng cáo nói chung thì quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh còn có những đặc điểm đặc thù sau đây:
+ Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là một hành vi cạnh tranh do các
doanh nghiệp trên thị trường thực hiện nhằm mục đích cạnh tranh.
Trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của một doanh nghiệp cũng
chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan với doanh nghiệp khác. Để đạt được mục
tiêu lợi nhuận, doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác nhằm
thu hút khách hàng về phía mình. Chủ thể thực hiện hành vi quảng cáo cạnh tranh
không lành mạnh là các doanh nghiệp thực hiện hoặc tham gia hoạt động kinh doanh
trên thị trường là mọi tổ chức, cá nhân tham gia kinh doanh (sau đây gọi chung là
doanh nghiệp) bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công
ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và
doanh nghiệp nước ngoại hoạt động ở Việt Nam.
+ Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi bất hợp pháp, trái với
chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh.

Hành vi bất hợp pháp là các hành vi vi phạm pháp luật. Theo đó, doanh nghiệp
nào vi phạm sẽ phải chịu các chế tài nhất định do pháp luật cạnh tranh và các pháp luật
chuyên ngành khác quy định.
Hành vi trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh có thể được
hiểu là những hành vi trái với các tập quán kinh doanh được các doanh nghiệp thừa
nhận và áp dụng nhiều lần trong hoạt động kinh doanh.
+ Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại hoặc có khả năng
gây thiệt hại cho đối tượng khác.
Với vai trò là một hoạt động xúc tiến thương mại được các doanh nghiệp sử dụng
ngày một rộng rãi để giới thiệu sản phẩm của mình tới mọi đối tượng trong xã hội,
quảng cáo sẽ có tác động rất lớn đến nền kinh tế. Do đó, quảng cáo nhằm cạnh tranh

17


không lành mạnh sẽ gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
Ví dụ như ảnh hưởng đến các chính sách kinh tế-xã hội của Nhà nước, làm giảm uy
tín, thương hiệu của một số doanh nghiệp khác, gây nhầm lẫn cho khách hàng về
chất lượng, công dụng của sản phẩm, ảnh hưởng đến chính sức khỏe, tính mạng của
người tiêu dùng. Như vậy, quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là hành vi
gây thiệt hại nhất định dù thiệt hại này xảy ra hay chưa xảy ra và hành vi này cần được
ngăn chặn.
1.2.3. Phân loại về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Theo Luật cạnh tranh năm 2004, hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh bao gồm:
- Quảng cáo so sánh
Quảng cáo so sánh là hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được
quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật cạnh tranh năm 2004: so sánh trực tiếp hàng hóa,
dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác.

Về nội dung, quảng cáo so sánh bao gồm nhiều nội dung nhưng chủ yếu so sánh
về giá và đặc điểm của hàng hóa, dịch vụ như tính năng, công dụng, chất lượng… đây
là những nội dung mà khách hàng quan tâm khi lựa chọn hàng hóa, dịch vụ. Thông tin
so sánh có thể đúng hoặc không đúng. Khi xác định một hành vi quảng cáo so sánh
cần xác định hai vấn đề sau:
Thứ nhất, sản phẩm được quảng cáo và sản phẩm bị so sánh phải là những sản
phẩm cùng loại. Các sản phẩm chỉ có thể được coi là cạnh tranh với nhau khi chúng
cùng loại và các thông tin trong quảng cáo khi nói đến hai sản phẩm cùng loại của hai
doanh nghiệp khác nhau thì mới là so sánh. Ngược lại, một sản phẩm quảng cáo đưa ra
những thông tin nói về hai loại hàng hoá, dịch vụ không cùng loại thì hành vi ấy được
kinh tế học coi là quảng cáo liên kết chứ không phải là so sánh. Ví dụ, quảng cáo về
sản phẩm bột giặt ô mô có sử dụng nước xả vải hương Downy…. Các sản phẩm cùng
loại với nhau khi chúng phục vụ cho cùng một nhu cầu sử dụng. Tiếp theo, sản phẩm
bị so sánh phải là sản phẩm do doanh nghiệp khác sản xuất hoặc kinh doanh. Nếu nội
dung quảng cáo so sánh các sản phẩm cùng lọai do doanh nghiệp thực hiện việc quảng
cáo kinh doanh như : so sánh sản phẩm mới và sản phẩm trước đây để cho khách hàng
thấy được tính năng của sản phẩm mới thì việc quảng cáo đó không coi là quảng cáo
so sánh.

18


Thứ hai, hành vi quảng cáo so sánh phải là so sánh trực tiếp với sản phẩm cùng
loại của doanh nghiệp khác. Các thông tin quảng cáo sẽ là so sánh trực tiếp nếu những
hình ảnh, màu sắc, tiếng nói, chữ viết… được sử dụng trong sản phẩm quảng cáo đủ để
người tiếp nhận thông tin xác định được sản phẩm bị so sánh. Với dấu hiệu này, có
nhiều khả năng sau đây sẽ xảy ra trong việc so sánh:
+ So sánh trực tiếp có thể là việc doanh nghiệp vi phạm điểm mặt, chỉ tên sản
phẩm và doanh nghiệp cụ thể mà nó muốn so sánh đến.
+ Sự so sánh sẽ là trực tiếp nếu như những thông tin đưa ra làm khách hàng có

khả năng xác định được loại sản phẩm, nhóm doanh nghiệp bị so sánh mà không cần
phải gọi tên các doanh nghiệp cụ thể nào.
Lý luận cạnh tranh phân chia hành vi quảng cáo so sánh thành nhiều mức độ
khác nhau như sau:
+ Quảng cáo so sánh bằng: là hình thức quảng cáo cho rằng sản phẩm của doanh
nghiệp mình có chất lượng, có cung cách phục vụ hoặc tính năng giống như sản phẩm
cùng loại của doanh nghiệp khác.
+ Quảng cáo so sánh hơn: là hình thức quảng cáo cho rằng sản phẩm của doanh
nghiệp mình có chất lượng tốt hơn, có cung cách phục vụ hoặc tính năng tốt hơn sản
phẩm của doanh nghiệp khác.
+ Quảng cáo so sánh hơn nhất: là hình thức quảng cáo nhằm khẳng định vị trí số
một của sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường bằng cách cho rằng chất lượng,
mẫu mã, phương thức cung ứng… của mình là tốt nhất hoặc khẳng định rằng không có
bất kỳ sản phẩm cùng loại nào trên thị trường có được những tiêu chuẩn nói trên như
sản phẩm của mình.
- Quảng cáo bắt trước:
Quảng cáo bắt trước là hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
được quy định tại khoản 2 Điều 45 Luật cạnh tranh năm 2004: “Bắt chước một sản
phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng”.
Lợi ích mà quảng cáo mang lại là rất lớn, vì vậy một số doanh nghiệp có thể bắt
chước quảng cáo với nội dung, cách thức thể hiện giống hệt hoặc tương tự để nhằm tạo
hiệu quả như sản phẩm, dịch vụ trước đó được quảng cáo. Tính chất không lành mạnh
của quảng cáo bắt chước thể hiện ở việc lợi dụng thành quả đầu tư của người khác để
tạo sự nhầm lẫn không đáng có cho khách hàng. Các loại nhầm lẫn mà khách hàng
thường gặp là: nhầm lẫn về nguồn gốc, nhầm lẫn về liên hệ,…
- Quảng cáo gian dối hoặc gây nhầm lẫn:

19



×