Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Phát triển vốn từ biểu cảm cho trẻ 5 6 tuổi thông qua tập thơ “góc sân và khoảng trời” của trần đăng khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.02 KB, 86 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
======

ĐỖ THỊ THU HIỀN

PHÁT TRIỂN VỐN TỪ BIỂU CẢM
CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI THÔNG QUA TẬP THƠ
“GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI”
CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành:Phương pháp phát triển ngôn ngữ

Hà Nội, 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
======

ĐỖ THỊ THU HIỀN

PHÁT TRIỂN VỐN TỪ BIỂU CẢM
CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI THÔNG QUA TẬP THƠ
“GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI”
CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp phát triển ngôn ngữ

Người hướng dẫn khoa học



PGS.TS NGUYỄN THU HƯƠNG

Hà Nội, 2019


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo Trường Đại học sư
phạm Hà Nội 2, các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Mầm non đã tạo điều
kiện, chỉ bảo em trong quá trình học tập tại trường và giúp đỡ cho em thực
hiện khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới cô giáo PGS.TS Nguyễn Thu Hương, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong
quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn tập thể các cô giáo trường mầm non Tích
Sơn đã giúp đỡ để em có được những kiến thức thực tế tốt nhất.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới người thân, bạn bè đã luôn động
viên, ủng hộ và tạo mọi điều kiện cho em trong quá trình học tập và thực hiện
khóa luận.
Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô là cán bộ quản lí thư
viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện và giúp đỡ cho em
hoàn thành khóa luận của mình.
Quá trình nghiên cứu và xử lý đề tài, em không thể tránh khỏi những
hạn chế. Vì vậy, em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các
bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2019
Sinh viên

Đỗ Thị Thu Hiền



DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

GDMN : Giáo dục mầm non
VD

: Ví dụ

LQVVH : Làm quen với văn học
GDTM : Giáo dục thẩm mĩ
GV

: Giáo viên



: Hoạt động

KPKH : Khám phá khoa học
KQ

: Kết quả

MN

: Mầm non

MTXQ : Môi trường xung quanh
MGL


: Mẫu giáo lớn

ND

: Nội dung

TC

: Tiêu chí


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1.Lí do chọn đề tài............................................................................................. 1
2.Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 3
3.Mục đích nghiên cứu...................................................................................... 5
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................. 5
6.Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 6
7.Cấu trúc đề tài ................................................................................................ 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN.............................. 7
1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................... 7
1.1.1. Vấn đề từ tiếng Việt ................................................................................ 7
1.1.1.1. Từ ......................................................................................................... 7
1.1.1.2 Từ vựng ................................................................................................. 8
1.1.1.3. Phân loại từ tiếng Việt.......................................................................... 8
1.1.1.3.1. Phân loại dựa vào cấu tạo.................................................................. 8
1.1.1.3.2. Phân loại dựa vào đặc điểm ngữ pháp ............................................ 10
1.1.1.3.3. Một số cách phân loại khác............................................................. 13
1.1.1.4.Từ biểu cảm......................................................................................... 13

1.1.2. Đặc điểm phát triển vốn từ biểu cảm của trẻ 5 - 6 tuổi......................... 17
1.1.2.1.Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển vốn từ biểu cảm của trẻ....... 17
1.1.2.2.Khái quát vốn từ biểu cảm của trẻ mẫu giáo ...................................... 22
1.1.2.3.Nhiệm vụ phát triển vốn từ cho trẻ ..................................................... 26
1.1.2.4.Biện pháp phát triển vốn từ biểu cảm ................................................. 27


1.1.3. Về tập thơ “Góc sân và khoảng trời” của nhà thơ Trần Đăng Khoa .... 31
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 33
1.2.1. Chương trình GDMN và việc phát triển vốn từ cho trẻ........................ 33
1.2.2. Thực trạng phát triển vốn từ cho trẻ ở trường mầm non....................... 34
1.2.2.1. Mục đích điều tra ............................................................................... 34
1.2.2.2. Đối tượng, phạm vi, thời gian điều tra............................................... 34
1.2.2.3. Nội dung điều tra................................................................................ 34
1.2.2.4. Phương pháp điều tra ......................................................................... 34
1.2.2.5. Phân tích kết quả điều tra................................................................... 36
Kết luận chương 1 ........................................................................................... 41
CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ BIỂU CẢM
CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI THÔNG QUA TẬP THƠ “GÓC SÂN VÀ
KHOẢNG TRỜI” ........................................................................................... 42
2.1. Hệ thống từ biểu cảm trong tập thơ “Góc sân và khoảng trời” ............... 42
2.2. Biện pháp phát triển vốn từ biểu cảm cho trẻ 5-6 tuổi thông qua tập
thơ “Góc sân và khoảng trời”.......................................................................... 43
2.2.1. Cơ sở đề xuất biện pháp ........................................................................ 43
2.2.1.1. Căn cứ vào đặc điểm phát triển của trẻ 5 - 6 tuổi .............................. 43
2.2.1.2. Căn cứ vào nội dung giáo dục ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi................ 44
2.2.1.3.Căn cứ vào mục đích của việc sử dụng tập thơ “Góc sân và
khoảng trời” để phát triển vốn từ biểu cảm cho trẻ 5 - 6 tuổi......................... 44
2.2.2. Tiêu chí lựa chọn các bài thơ trong tập thơ “Góc sân và khoảng
trời”.................................................................................................................. 44

2.2.3. Đề xuất biện pháp.................................................................................. 45
2.2.3.1.Biện pháp 1: Đọc thơ cho trẻ nghe...................................................... 45


2.2.3.2.Biện pháp 2: Dạy trẻ đọc bài thơ diễn cảm......................................... 46
2.2.3.3.Biện pháp 3: Giải nghĩa từ .................................................................. 46
2.2.3.5.Biện pháp 5 : Sử dụng trò chơi ngôn ngữ ........................................... 48
2.2.3.6.Biện pháp 6: Sử dụng tranh................................................................. 48
2.2.3.7.Biện pháp 7: Tổ chức hoạt động góc sách, truyện .............................. 49
Kết luận chương 2 ........................................................................................... 51
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ................................................... 52
3.1. Mục đích thực nghiệm ............................................................................. 52
3.2. Đối tượng thực nghiệm ............................................................................ 52
3.3. Nội dung thực nghiệm.............................................................................. 52
3.4. Phương pháp thực nghiệm ....................................................................... 52
3.5. Giáo án thực nghiệm ................................................................................ 52
3.6. Tiêu chí đánh giá ...................................................................................... 60
3.7. Kết quả thực nghiệm ................................................................................ 61
Kết luận chương 3 ........................................................................................... 66
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 69
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bác Hồ kính yêu lúc sinh thời luôn dành cho các cháu trẻ em sự quan
tâm và tình thương yêu đặc biệt. Với Người, trẻ em là những chủ nhân tương
lai của đất nước , những mầm non cần được giáo dục và bảo vệ. Bác cho rằng:
“Cái mầm có xanh thì cây mới vững, cái búp có xanh thì lá mới tươi quả mới

tốt, con trẻ có được nuôi dưỡng giáo dục hẳn hoi thì dân tộc mới tự cường tự
lập”. Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Người
luôn nhắc nhở, quan tâm và giao nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em cho các
ngành, đoàn thể. Trong Di chúc trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết” [13].
Nhận thức được điều này, ngành giáo dục nói riêng và toàn xã hội nói chung
luôn thực hiện tốt vai trò, sứ mệnh và trách nhiệm của mình trong nuôi dưỡng
- chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ ở tất cả các cấp học từ mầm non đến đại
học.
Đặc biệt, bậc học mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục
quốc dân, đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Hiểu
được vai trò, tầm quan trọng của giáo dục mầm non, Đảng, nhà nước luôn
dành cho bậc học mầm non những gì tốt nhất, thể hiện trước hết ở việc xác
định rõ ràng mục tiêu giáo dục mầm non “ Giúp trẻ em phát triển về thể chất,
tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách,
chuẩn bị cho trẻ em vào lớp Một; hình thành và phát triển ở trẻ em những
chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ
năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những
khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho
việc học tập suốt đời”[22]. Để đảm bảo các mục tiêu đã đặt ra, phải kể đến vai
trò của ngôn ngữ bên cạnh các mặt như: trí tuệ, thể chất, tình cảm, thẩm mĩ…

1


Với xã hội loài người nói chung và với trẻ em nói riêng, ngôn ngữ đóng
vai trò vô cùng quan trọng. Ngôn ngữ được coi là một hệ thống tín hiệu ,
mang ý nghĩa cá nhân và xã hội, xác lập và vận hành các mối quan hệ giữa
người với người, từ đó thúc đẩy xã hội loài người phát triển theo hướng văn
minh, hiện đại. Ngôn ngữ cũng là điểm đặc biệt phân biệt loài người với tất cả

các loài khác trên trái đất. Đồng thời, với trẻ em, ngôn ngữ giúp trẻ gia nhập
vào xã hội người lớn và sống đúng với ý nghĩa con người. Có rất nhiều câu
chuyện về những đứa trẻ không may bị lạc vào những khu rừng, sống với
những con vật hoang dã ở thiên nhiên và hoàn toàn không có bất cứ giao tiếp
bằng ngôn ngữ nào với thế giới loài người. Sau một thời gian, chúng không
nói, không giao tiếp và làm theo những gì bản năng như loài vật. Như vậy, ta
thấy được tầm quan trọng của ngôn ngữ và giao tiếp bằng ngôn ngữ với trẻ
mầm non nói riêng và với con người nói chung.
Với ý nghĩa kể trên, phát triển ngôn ngữ được coi là nhiệm vụ hàng
đầu, mà mở rộng vốn từ là biện pháp tối ưu nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Đặc biệt, chương trình GDMN đã đưa ra 5 mặt phát triển của trẻ : tình
cảm - quan hệ xã hội, nhận thức, ngôn ngữ, thể chất, thẩm mỹ; trong đó phát
triển tình cảm - quan hệ xã hội là một lĩnh vực mới, rất cần thiết trong chương
trình GDMN và cần giáo dục cho trẻ ngay từ lúc nhỏ. Trong đó có nội dung
phát triển kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc Để thực hiện nội dung này,
phải kể đến bộ phận từ biểu cảm thường xuyên xuất hiện trong các tác phẩm
thơ văn viết cho thiếu nhi; có tác dụng hình thành và phát triển cho trẻ tình
yêu cuộc sống, con người, yêu quê hương đất nước, tình yêu gia đình, thầy cô,
bè bạn…
Có nhiều nhà thơ dành cả cuộc đời mình để sáng tác cho thiếu nhi phải
kể đến như: Xuân Quỳnh, Phạm Hổ, Phan Thị Vàng Anh, Định Hải…Trong
đó có một em nhỏ làm thơ, một hiện tượng lạ xưa nay chưa từng có - Trần


Đăng Khoa - một thời làm rung động cả trẻ em lẫn người lớn. Trần Đăng
Khoa đã góp mặt xuất sắc vào phong trào thơ viết cho thiếu nhi từ những năm
68 với tập thơ để đời “Từ góc sân nhà em” sau được đổi tên thành “Góc sân
và khoảng trời” . Cho đến tận bây giờ “Góc sân và khoảng trời” vẫn được coi
là sách gối đầu giường của mỗi em nhỏ. Như tác giả Trần Thanh Vân cho
rằng : “Thơ Khoa gợi rõ và làm cho ta yêu mến biết bao quê hương bình dị,

thân thuộc và đang đổi mới, những con người lao động cần cù, vất vả, một
quê hương gắn bó biết bao với sự nghiệp chiến đấu và xây dựng” . Quê
hương, những con người lao động, cảnh sắc làng quê chính là sợi dây nối tâm
hồn trẻ thơ với nhà thơ Trần Đăng Khoa dù có khác nhau về khoảng cách về
thời gian, về không gian địa lí và về thế hệ thông qua những từ ngữ mang đậm
ý nghĩa biểu cảm. Bởi hẳn trong mỗi chúng ta đều quen thuộc và văng vẳng
đâu đó tiếng gà ò…ó…o, tiếng ếch nhái, tiếng chim; mùi bùi, mùi đất; hình
ảnh mưa qua bốn mùa xuân, hạ, thu đông… Nói như Nguyễn Đăng Mạnh :
“Làng quê đã tạo nên thơ Khoa từ màu sắc đến linh hồn” . Để qua tập thơ này,
chúng ta hoàn toàn tin tưởng có thể phát triển vốn từ biểu cảm cho trẻ mầm
non.
Từ những lí do kể trên, chúng tôi chọn đề tài: “Phát triển vốn từ biểu
cảm cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua tập thơ “Góc sân và khoảng trời” của Trần
Đăng Khoa”. Cũng nhờ đó, tôi tích lũy được cho bản thân thêm nhiều kinh
nghiệm hữu ích cho việc chăm sóc - giáo dục trẻ sau này.
2. Lịch sử vấn đề
Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm
non, có rất nhiều công trình mang tâm huyết, sự hiểu biết và đóng góp của các
tác giả, các nhà nghiên cứu đã ra đời và được xã hội ghi nhận
Tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong cuốn “Phương pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mẫu giáo” [8] đã đề cập một cách “toàn diện, có hệ thống các vấn


đề khoa học và thực tiễn của tiếng mẹ đẻ đang được thực hiện trong các lớp
nhà trẻ, mẫu giáo ở nước ta bằng phương pháp tiếp cận hoạt động – nhân
cách, tích hợp”… Bằng sự nghiên cứu dày công các tư liệu khoa học trong và
ngoài nước, tác giả đã đưa ra các biện pháp dạy trẻ nghe và phát âm đúng, ,
phương pháp dạy trẻ đặt câu câu, phương pháp phát triển từ ngữ, cho trẻ làm
quen với các tác phẩm văn chương, phương pháp phát triển lời nói mạch lạc,
chuẩn bị cho trẻ học đọc, học viết.

Tiếp theo cuốn “Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6
tuổi”[15] nhóm tác giả Hoàng Thị Oanh - Nguyễn Kim Đức - Phạm Thị Việt
đã nói lên tầm quan trọng của ngôn ngữ trong việc giáo dục toàn diện cho trẻ
đồng thời nêu nội dung, biện pháp, phương pháp phát triển vốn từ, để luyện
âm, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn ngữ mạch lạc.
Trong cuốn “Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non”[19] tác giả Nguyễn
Ánh Tuyết đã đưa ra những quy luật chung về sự phát triển của tâm lí trẻ em
qua các mốc từ lọt lòng đến 6 tuổi, trong đó có sự ảnh hưởng cũng như vai trò
quan trọng của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển tâm lí trẻ. Từ đó
tác giả đưa ra các hoạt động chủ đạo ở mỗi giai đoạn để nhà giáo dục có
phương hướng đúng đắn về mặt phương pháp, con đường giáo dục phù hợp
nhằm tạo ra hiệu quả tốt nhất. Đây cũng là cơ sở quan trọng ảnh hưởng đến
phát triển, mở rộng vốn từ cho trẻ.
Trong cuốn “ Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non” của
tác giả Đinh Hồng Thái [17], ngoài các nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ như:
“giáo dục chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt ; dạy trẻ sử dụng mẫu câu tiếng Việt;
phát triển lời nói mạch lạc; chuẩn bị cho trẻ đọc, viết ở trường phổ thông” ;
tác giả đề cập đến hai nội dung quan trọng có liên quan mật thiết đến đề tài đó
là : “hình thành và phát triển vốn từ cho trẻ; phát triển lời nói nghệ thuật
thông qua việc cho trẻ tiếp xúc với thơ, truyện” .


Trong cuốn “Tiếng Việt và Tiếng Việt thực hành” [11] đã đưa ra đại
cương về Tiếng Việt, ngữ âm học Tiếng Việt, từ vựng Tiếng Việt, ngữ pháp
Tiếng Việt…làm cơ sở để dạy tiếng mẹ đẻ trong nhà trường mầm non
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục “Phát triển vốn từ vựng tiếng Việt
cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’Mông tỉnh Lào Cai thông qua tập thơ Góc sân và
khoảng trời của nhà thơ Trần Đăng Khoa” [12] Đinh Thị Mận nêu ra các biện
pháp phát triển vốn từ.
Như vậy, đã có nhiều tác giả, các bài nghiên cứu sâu về vốn từ vựng

của trẻ mầm non, về những phương pháp phát triển vốn từ cho trẻ. Tuy nhiên,
phát triển vốn từ biểu cảm là một vấn đề mới và chưa có nhiều sự quan tâm.
Cho nên, tôi chọn đề tài “Phát triển vốn từ biểu cảm cho trẻ 5 - 6 tuổi thông
qua tập thơ “Góc sân và khoảng trời” của Trần Đăng Khoa”. Với đề tài này
chúng tôi đã tìm được hướng đi riêng, dựa trên sự hiểu biết của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đề tài này để đưa ra biện pháp phát triển vốn từ
biểu cảm cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua tập thơ “Góc sân và khoảng trời” của
Trần Đăng Khoa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Các biện pháp phát triển vốn từ biểu
cảm cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua tập thơ “Góc sân và khoảng trời” của Trần
Đăng Khoa.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Những bài thơ Trần Đăng Khoa viết
cho trẻ em in trong tập “Góc sân và khoảng trời”
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
chúng tôi đề ra các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài


- Đề xuất một số biện pháp phát triển vốn từ biểu cảm cho trẻ 5 - 6 tuổi
thông qua tập thơ “Góc sân và khoảng trời” của Trần Đăng Khoa.
- Thực nghiệm sư phạm phát triển vốn từ biểu cảm cho trẻ 5 - 6 tuổi
thông qua tập thơ “Góc sân và khoảng trời” của Trần Đăng Khoa
Trên cơ sở của ba nhiệm vụ trên, chúng tôi đưa ra kết luận
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp thống kê

- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp điều tra
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, nội dung khóa luận bao gồm BA
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Biện pháp phát triển vốn từ biểu cảm cho trẻ 5 - 6 tuổi thông
qua tập thơ “Góc sân và khoảng trời” của Trần Đăng Khoa
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Vấn đề từ tiếng Việt
1.1.1.1. Từ
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về từ. Qua tìm hiểu, chúng tôi xin
tổng hợp một số định nghĩa về từ như sau:
Trong từ điển Wikipedia: “ Từ là đơn vị sẵn có trong ngôn ngữ. Từ là
đơn vị nhỏ nhất, cấu tạo ổn định, mang nghĩa hoàn chỉnh, được dùng để cấu
thành nên câu. Từ có thể làm tên gọi của sự vật (danh từ), chỉ các hoạt động
(động từ), trạng thái, tính chất (tính từ)... Từ là công cụ biểu thị khái niệm của
con người đối với hiện thực.Trong ngôn ngữ học, từ là đối tượng nghiên cứu
của nhiều cấp độ khác nhau như: cấu tạo từ, hình thái học, ngữ âm học, phong
cách học, cú pháp học...”
Trong Ngonngu.net định nghĩa: “Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết
cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng
độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo câu.”
Trong cuốn Cơ sở Tiếng Việt [3], Hữu Đạt đã đưa ra định nghĩa về từ
như sau: “ Từ chính là hệ thống vốn từ của một ngôn ngữ. Nói cách khác, từ

vựng là tập hợp tất cả các từ ngữ cố định trong một ngôn ngữ theo một hệ
thống nhất định.”
Hay trong cuốn “Tiếng Việt và Tiếng Việt thực hành” [11], tác giả Lã
Thị Bắc Lý cũng đưa ra định nghĩa ngắn gọn về từ như sau: “ Từ là đơn vị
nhỏ nhất của ngôn ngữ có ý nghĩa và chức năng độc lập tạo câu”
Cho đến nay, các định nghĩa về từ đã được đưa ra không ít, song định
nghĩa về từ của tác giả Đỗ Hữu Châu được sử dụng phổ biến nhất:


“Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những
đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả
ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để
tạo câu”[1].
Với đề tài này, nghiên cứu của chúng tôi đồng ý với nhận định của tác
giả Đỗ Hữu Châu khi tìm hiểu và định nghĩa về từ.
1.1.1.2 Từ vựng
“Từ vựng là tập hợp các từ của một ngôn ngữ.” Như đã biết, trong
ngôn ngữ, bên cạnh các từ còn có các ngữ cố định. Ngữ cố định là những tập
hợp từ có sẵn cố định, bắt buộc và nhỏ nhất để tạo câu như: mắt bồ câu, lá
lành đùm lá rách, nói trộm vía… Ngữ cố định còn gọi là cụm từ cố định, là
những đơn vị tương đương với từ về kết cấu, về ý nghĩa, về mặt sử dụng, có
thể kết hợp hoặc thay thế cho từ để tạo thành câu. Giống như từ, ngữ cố định
cũng là một đơn vị từ vựng. Từ đó, có thể hiểu khái niệm từ vựng như sau:
“ Từ vựng của một ngôn ngữ là tập hợp các từ và các ngữ cố định của
ngôn ngữ đó”
1.1.1.3. Phân loại từ tiếng Việt
Có rất nhiều cách phân loại từ tiếng Việt. Ở nghiên cứu này, chúng tôi
đưa ra các cách phân loại như sau:
- Phân loại dựa vào cấu tạo
- Phân loại dựa vào đặc điểm ngữ pháp

- Các cách phân loại khác: Theo nghĩa, theo nguồn gốc, theo phạm vi sử
dụng.
1.1.1.3.1. Phân loại dựa vào cấu tạo
Theo cấu tạo, từ tiếng Việt bao gồm: Từ đơn và từ phức
a. Từ đơn
a.1.Khái niệm: Từ đơn là những được cấu tạo bởi một âm tiết


a.2.Phân loại:
+ Từ đơn đơn âm: nhà, đường, người, đẹp,….
+ Từ đơn đa âm: .) Thuần Việt: ễnh ương, tắc kè, bồ kết…
.) Vay mượn: xà phòng, ri đô,gác đờ bu, gác đờ xen, ti vi,
ra-đi-ô, ăng ten…
b.Từ phức:
b.1.Khái niệm: Từ phức là từ được cấu tạo từ hai âm tiết trở lên. Từ phức
gồm: từ ghép và từ láy
b.2.Phân loại:
b.2.1. Từ ghép:
- Khái niệm: Từ ghép là từ được cấu tạo theo phương thức ghép hai tiếng có
nghĩa trở lên lại với nhau để tạo ra từ mới
- Phân loại: Căn cứ vào mối quan hệ giữa các tiếng với nhau, người ta chia từ
ghép thành 2 loại:
+ Ghép chính phụ: Là từ ghép gồm 2 tiếng, trong đó tiếng chỉ loại lớn là tiếng
chính, đứng trước; tiếng phụ đứng sau, bổ sung ý nghĩa cho tiếng chính
VD: Cá rô, cá trê, cá trắm, cá chép…; ông nội, ông ngoại, bác trai, bác gái, bà
nội, bà ngoại…
+ Ghép đẳng lập: Là ghép 2 tiếng có quan hệ ngang hàng, đẳng lập với nhau,
không phân biệt chính, phụ
VD: ông bà, nhà cửa, mua bán, chăn gối, lau chùi…
b.2.2. Từ láy:

- Khái niệm: Từ láy là từ được cấu tạo theo phương thức láy toàn bộ (âm đầu
và phần vần) và láy bộ phận âm đầu hoặc phần vần
- Phân loại: Căn cứ vào số lần láy, người ta chia thành láy đôi, láy ba và láy tư
+ Láy đôi:


.) Láy toàn bộ (láy hoàn toàn): xanh xanh,xinh xinh, thanh thanh, đa đa, xa
xa, chang chang...
Láy toàn bộ có 2 biến thể :
Láy toàn bộ có biến thanh VD: đu đủ, nhè nhẹ, khe khẽ…
Láy toàn bộ có biến thanh, vần VD: thiêm thiếp, rừng rực, đèm đẹp…
.) Láy bộ phận: dễ dãi, lanh chanh, mập mạp, lùm xùm, lò dò,liêu xiêu, lênh
khênh…
+ Láy ba: Trong tiếng Việt, loại này xuất hiện không nhiều
VD: sạch sành sanh, tuốt tuồn tuột, tất tần tật…
+ Láy tư:
VD: khấp kha khấp khểnh, lênh kha lênh khênh, khúc kha khúc khích, tích tịch
tình tang…
1.1.1.3.2. Phân loại dựa vào đặc điểm ngữ pháp
Chia từ thành 3 nhóm:
a. Nhóm 1: Thực từ
Thực từ là những từ có ý nghĩa từ vựng chân thực và có thể làm thành
phần câu. Nhóm từ này gồm: danh từ, động từ, tính từ, số từ
a.1 Danh từ:
Danh từ là những từ chỉ sự vật theo nghĩa khái quát (sự vật được hiểu
theo nghĩa khái quát nhất: đồ vật, con vật, cây cối, người, khái niệm…) . Cụm
danh từ được hình thành bởi từ chỉ số lượng ở trước danh từ và từ chỉ định ở
sau danh từ , danh từ là thành tố trung tâm. Danh từ bao gồm:
- Danh từ riêng: Là tên gọi riêng của một người, một địa danh hay một vật.
VD: Thái Bình, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp,Gia Lai…

- Danh từ chung: Là tên gọi của một loại sự vật (gọi chung cho một loại sự
vật)
VD: bàn ghế, giường tủ, bát đĩa, quần áo…


a.2. Động từ:
Động từ là những từ có ý nghĩa khái quát chỉ hoạt động, trạng thái
(trạng thái vật lí, sinh lí, tâm lí).
Động từ gồm: Động từ độc lập và động từ không độc lập
- Động từ độc lập là động từ có thể đứng một mình trong một cú pháp câu.
VD: Nhảy, múa, hát, chạy, đi, đá…
- Động từ không độc lập là động từ không thể đứng một mình trong một cú
pháp câu mà phải có một từ hay một cụm từ đi kèm. Động từ không độc lập
gồm:
+ Động từ tình thái: nên, cần, phải, có thể, không thể, bị, được…
+ Động từ quan hệ: là, làm…
+ Động từ biểu thị sự tồn tại: còn, có…
a.3 Tính từ:
Tính từ là những từ có nghĩa khái quát chỉ đặc điểm, tính chất của sự
vật, trạng thái, hoạt động. Tính từ có khả năng kết hợp với phụ từ (trừ phụ từ
chỉ mệnh lệnh). Tính từ bao gồm:
- Tính từ tự thân: Là những tính từ chỉ có chức năng biểu thị phẩm chất, , hình
dáng, kích thước, màu sắc, mức độ… của hiện tượng, sự vật
- Tính từ không tự thân: Là những từ vốn không phải là tính từ mà là những
từ thuộc các nhóm từ loại khác (ví dụ: danh từ, động từ) nhưng được sử dụng
như là tính từ. Tính từ loại này chỉ có thể xác định được trên cơ sở quan hệ
của chúng với các từ khác trong câu hay cụm từ. Bình thường, nếu không có
quan hệ với các từ khác, chúng không được coi là tính từ. Như vậy, đây là loại
tính từ lâm thời.
b.Nhóm 2: Hư từ

Hư từ “ là những từ rỗng nghĩa, tức không có ý nghĩa chân thực, không
nhằm chỉ các sự vật, hiện tượng nhưng có giá trị ngữ pháp, ngữ cảnh ”


Gồm: phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ
b.1. Phụ từ
Phụ từ là những từ không thực hiện chức năng định danh, nó chỉ có
chức năng bổ sung một loại ý nghĩa nào đó cho các từ định danh. Phụ từ
chuyên đi kèm với một từ loại nào đó nhằm xác định từ loại cho một từ.
Bao gồm:
- Phụ từ đi kèm danh từ. Là các từ: những, các, mỗi, mọi, một, từng,
- Phụ từ đi kèm động từ. Là các từ : đã, sẽ, đang, sắp, vừa…
- Phụ từ đi kèm tính từ. Là các từ : rất, lắm, quá, hơi…
b.2.Quan hệ từ
Quan hệ từ “ là những từ dùng để biểu thị mối quan hệ bộ phận trong
một câu hoặc trong một đoạn ”
- Phân loại:
+ Cặp quan hệ từ điều kiện - kết quả, giả thiết - kết quả: Hễ... thì, Nếu... thì…
+ Cặp quan hệ nhân - quả: Do... nên, Vì... nên
+ Cặp quan hệ từ biểu thị quan hệ tăng tiến là: Không chỉ…mà còn, Không
những... mà còn…
+ Cặp quan hệ từ tương phản: Mặc dù...nhưng, Tuy... nhưng,…
b.3.Tình thái từ
Tình thái từ “ là một số từ được thêm vào câu nhằm mục đích tạo ra sắc
thái biểu cảm và tình cảm cho câu nói đó. Việc thêm từ ngữ ngắn gọn vào sẽ
tạo ra thành câu cầu khiến, câu cảm thán.”
- Phân loại: Tình thái từ bao gồm:
+ Tiểu từ tình thái: ạ, nhé…
+ Trợ từ nhấn mạnh: những, chính, cả, chỉ, đến, tận, ngay, đích…
+ Từ cảm thán: ơi, vâng, dạ, ôi, trời ơi, ô, ơ kìa…

c.Nhóm 3: Từ trung gian: Đại từ


Đại từ: Là những từ ngữ có chức năng để xưng hô hoặc để thay thế
(cho danh từ, tính từ , động từ).
- Dựa vào chức năng thay thế có thể chia đại từ thành ba nhóm :
+ Đại từ thay thế cho danh từ : Tôi, chúng tôi, tao, mày, chúng, nó, họ....
+ Đại từ thay thế cho động từ, tính từ: Thế, vậy, như thế, như vậy
+ Các đại từ thay thế cho số từ : Bao, bao nhiêu, bấy, bấy nhiêu
- Dựa vào mục đích sử dụng, có thể chia đại từ thành các nhóm :
+ Đại từ xưng hô: Tôi, chúng tôi, ta, chúng ta, mình, chúng mình, tớ, chúng
tớ, mi, mày, chúng mày, ngươi...; Nó, chúng nó, hắn, thị, y, chúng, họ...
+ Các đại từ để hỏi : Ai, Đâu, Bao giờ, Nào, cái gì, Bao, bao nhiêu, Sao,...
+ Các đại từ chỉ định: Ấy, đó, kia, nọ, này, đấy, bây, đây, này, bấy...
1.1.1.3.3.Một số cách phân loại khác :
- Phân loại theo nguồn gốc: Gồm từ từ Hán - Việt, từ thuần Việt, từ mượn
tiếng Pháp…
- Phân loại theo nghĩa: Gồm từ trái nghĩa và đồng nghĩa
- Phân loại theo phạm vi sử dụng: Gồm từ địa phương và từ toàn dân
1.1.1.4.Từ biểu cảm
- Khái niệm: Biểu cảm là “ biểu hiện tình cảm, cảm xúc ”
Từ đó ta hiểu: Từ biểu cảm là những từ chỉ tình cảm, cảm xúc của ,
người viết, người nói đối với một hiện tượng, một đối tượng, một sự vật nào
đó trong cuộc sống.
- Nói về tính biểu cảm của ngôn ngữ thơ, có thể tìm thấy một số định nghĩa
như sau:
+ Hocvanvanhoc.vn cho rằng: “Biểu cảm là một thuộc tính quan trọng
của ngôn ngữ văn chương, bên cạnh tính chính xác, điêu luyện và tính hình
tượng. Thơ trực tiếp bộc lộ cảm xúc của nhà thơ qua ngôn ngữ thơ. Nhà nghệ
sĩ giàu cảm xúc nên ngôn ngữ thơ giàu tính biểu cảm. Biểu cảm có thể bộc lộ



dưới nhiều dạng thức: trực tiếp, gián tiếp, có hình ảnh hoặc là ngôn từ thuần
túy”
+ Một định nghĩa khác cho rằng: “Tính biểu cảm trong ngôn ngữ văn
chương, xét từ phía người sáng tác là đặc tính thể hiện những cảm xúc thông
qua những hình tượng nghệ thuật được tạo ra bằng chuỗi ngôn từ của tác
phẩm văn chương; và xét từ phía người thưởng thức là đặc tính gây kích thích
của chuỗi ngôn từ có khả năng khắc hoạ những hình tượng nghệ thuật, làm
dấy lên những cảm xúc ở người thưởng thức, giúp họ có được những tri nhận,
cảm nhận và thức nhận văn chương”
Nói một cách khái quát, trong các bài thơ nói chung và các bài thơ viết
cho trẻ nhỏ nói riêng, nhà thơ luôn đặt tình cảm, cảm xúc của mình vào ngôn
từ, đó có thể là tình cảm gia đình: “Con yêu mẹ bằng ông trời/Rộng lắm
không bao giờ hết” [16]; đó cũng có thể là tình cảm yêu mến cô giáo: “Cần
như hạt muối/Đẹp như hoa rừng/Cô giáo của con/Ai mà chẳng quý” [6]; hay
đó là tình yêu quê hương , bản quán, yêu đất nước đến từ những điều bình dị :
“Ấm nước chè tỏa nóng/Thơm như hương lúa đồng” [9]… Chính những cảm
xúc ấy truyền đến tâm hồn trẻ thơ một cách tự nhiên, gần gũi và hình thành ở
trẻ những cảm xúc, tình cảm đẹp đẽ.
- Các loại cảm xúc được thể hiện qua từ biểu cảm:
+ Định nghĩa cảm xúc :
Ngô Minh Duy cho rằng :
“ Cảm xúc là những thái độ rung cảm của con người với sự vật hiện
tượng có liên quan đến việc thoả mãn hay không thoả mãn những nhu cầu cá
nhân. Hay nói một cách khác, cảm xúc là những rung động của con người đối
với hiện thực, trong quá trình tác động tương hỗ với môi trường xung quanh
và trong quá trình thoả mãn nhu cầu” [2]



+ Phân loại cảm xúc : Cảm xúc rất phong phú và đa dạng. Dưới những tác
động khác nhau của điều kiện môi trường, hoàn cảnh đã tạo ra ở con người
những cảm xúc khác nhau. Có rất nhiều nhà tâm lý học quan tâm nghiên cứu
về cảm xúc và chia cảm xúc thành 6 loại cơ bản: vui, buồn, sợ hãi, giận dữ,
ngạc nhiên và ghê tởm [2]. Với trẻ em, những cảm xúc này cũng có phần
tương tự như người lớn. Tuy nhiên, trẻ thường thể hiện cảm xúc một cách
trực tiếp, bộc lộ ngay ra bên ngoài, ít thể hiện cảm xúc nội tâm hoặc có nhưng
đơn giản hơn so với người lớn.
+ Vai trò của từ biểu cảm trong thể hiện cảm xúc con người
Từ biểu cảm là một dạng trình bày cảm xúc của con người đối với
những sự vật, hiện tượng, con người… trong đời sống. Từ biểu cảm có thể
được phát ra trực tiếp khi con người nói chuyện, trao đổi (ngôn ngữ nói) ;
cũng có thể được ghi lại gián tiếp thông qua ngôn ngữ trên sách, vở, thơ,
truyện (ngôn ngữ viết).
- Phân loại từ biểu cảm : Qua tìm hiểu, tôi nhận thấy, có thể có 2 loại từ biểu
cảm đó là : Từ trực tiếp biểu cảm và từ gián tiếp biểu cảm.
+ Từ trực tiếp chỉ tình cảm, cảm xúc con người : Với những từ ngữ này ta có
thể dễ dàng nghe và hiểu được thái độ, tình cảm của con người cũng như mức
độ, sắc thái tình cảm mà người nói, người viết muốn đề cập. Khi vui ta nói là
vui, vui vẻ ; khi buồn ta có thể than thở rằng buồn, buồn rầu hay ngạc nhiên ta
có thể thốt lên rằng ôi, chao ôi… Những từ này khi đến với trẻ, với tâm hồn
non nớt, ngây thơ và tư duy tưởng tượng chưa mấy phát triển thì trẻ hoàn toàn
có thể hiểu và nắm bắt được.
+ Từ gián tiếp chỉ tình cảm, cảm xúc con người
Tại sao có từ gián tiếp chỉ tình cảm, cảm xúc ? Có lẽ chúng ta không
còn quá xa lạ với bộ phận từ tượng thanh, tượng hình - một gia tài từ ngữ đặc
sắc của tiếng Việt. Trước hết để hiểu tại sao từ tượng thanh và từ tượng hình


có khả năng chỉ tình cảm, cảm xúc ; ta cần nắm được khái niệm của 2 loại từ

này. Từ tượng thanh tượng thanh gồm các từ ngữ dùng để mô phỏng theo âm
thanh phát ra trong tự nhiên hoặc âm thanh của con người. Từ tượng hình
gồm các từ gợi tả, mô phỏng theo hình dáng, trạng thái của sự vật [24]. Cả từ
tượng thanh từ tượng hình đều có tác dụng mang lại sự biểu cảm, phong phú,
sinh động cho sự diễn đạt. Đặc biệt trong văn miêu tả từ tượng thanh và từ
tượng hình giúp mọi thứ hiện ra thật tự nhiên, sống động, nhiều sắc thái.Vì
vậy có thể khẳng định các loại từ này tạo nên sự đặc sắc, giá trị nghệ thuật
cho các tác phẩm. Nói về tính biểu cảm mà từ tượng thanh và từ tượng hình
mang lại, có thể kể đến ví dụ sau : Trong bài “Qua đèo ngang”, Bà huyện
Thanh Quan đã miêu tả nỗi nhớ nước thương nhà giữa cảnh đèo cô đơn tĩnh
lặng qua câu thơ: “Lom khom dưới núi tiều vài chú/ Lác đác bên sông chợ
mấy nhà/ Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc/ Thương nhà, mỏi miệng cái da
da”. Ở đây tác giả sử dụng từ tượng hình “ lom khom ” để gợi ra sự vất vả,
gian nan của người tiều phu lên núi đốn củi giữa không gian hoang vu chỉ lẻ
tẻ vài căn nhà “ lác đác ”. Đồng thời nhà thơ lại gợi nên sự nhớ nước thương
nhà khắc khoải, da diết qua tiếng chim kêu “ quốc quốc, da da ” - cặp từ
tượng thanh mà chỉ nghe thoáng qua cũng gợi cho con người ta khôn nguôi
lòng nhớ thương tổ quốc, đất nước, quê hương. Tất cả gợi nên nét buồn man
mác trong tâm hồn người thi sĩ.
Vậy mới nói, bộ phận từ tượng hình, tượng thanh đã ẩn ý thể hiện cảm
xúc, tình cảm của nhân vật trữ tình. Đây cũng là một điểm tôi dành nhiều tâm
huyết khi tìm hiểu về tập thơ “Góc sân và khoảng trời ” nhằm phát triển vốn
từ biểu cảm cho trẻ. Tuy vậy, để hiểu tính hình tượng, biểu cảm ẩn sâu sau
lớp ngôn từ đơn thuần, cũng là một vấn đề khá khó đối với trẻ. Xuất phát từ
nhận thức cũng như lứa tuổi của trẻ, tôi nhận thấy trẻ mầm non, nhất là với độ
tuổi lớn nhất là trẻ 5 - 6 tuổi, trẻ tư duy trực quan là chủ yếu ; tưởng tượng và


logic mới đang dần hình thành và phát triển. Nên, trẻ khó hình dung các từ
tượng hình, tượng thanh. Điều này cũng đặt ra thách thức, yêu cầu lớn đối với

giáo viên khi phát triển vốn từ biểu cảm cho trẻ bằng các từ tượng hình, tượng
thanh.
1.1.2. Đặc điểm phát triển vốn từ biểu cảm của trẻ 5-6 tuổi
1.1.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển vốn từ biểu cảm của trẻ
a.Cơ sở sinh lí học
Cho đến lúc chào đời, não bộ của trẻ vẫn chưa được phát triển, hoàn
thiện đầy đủ, dù cấu tạo giải phẫu và hình thái không khác với não người lớn.
Trẻ sơ sinh, não bộ có kích thước bé, trọng lượng bằng1/8 - 1/9 trọng lượng
cơ thể (khoảng 370 - 392g) . Trong 9 năm đầu, đa số các tế bào thần kinh đã
được biệt hóa và trọng lượng não của trẻ tăng lên gấp đôi lúc sơ sinh .
Nghiên cứu về đặc điểm hoạt động thần kinh cao cấp ở người đã chỉ ra
rằng: Ở con người có hai hệ thống tín hiệu, đó là : Tín hiệu cụ thể (hệ thống
tín hiệu thứ nhất) là những sự vật, hiện tượng cụ thể, trực tiếp như ánh sáng,
nhiệt độ, màu sắc… và tín hiệu ngôn ngữ (hệ thống tín hiệu thứ hai) là những
vật kích thích có tính chất khái quát, gián tiếp như chữ viết, lời nói. Trong đó
đặc trưng cho con người là ngôn ngữ, tiếng nói là giá trị tín hiệu mà con vật
khác không thu nhận được; ngôn ngữ là âm thanh (nếu là ngôn ngữ nói) và là
hình ảnh (nếu là ngôn ngữ viết). Giữa hai hệ thống tín hiệu kể trên, hệ thống
tín hiệu ngôn ngữ (thứ hai) nổi bật hơn ở khả năng khái quát hóa và trừu
tượng hóa các hiện tượng, sự vật xảy ra bên trong cơ thể con người và ở thế
giới bên ngoài. Vì vậy, cơ sở của tư duy ở người là hệ thống tín hiệu thứ hai.
Ở người, hai hệ thống tín hiệu có liên hệ mật thiết với nhau, trong đó chiếm
ưu thế là hệ thống tín hiệu thứ hai. Hệ thống tín hiệu này được xây dựng trên
cơ sở hệ thống tín hiệu thứ nhất và nó ảnh hưởng trở lại đối với hệ thống tín
hiệu thứ nhất. Vậy nên, muốn nhận thức đầy đủ hiện thực khách quan chỉ


bằng cách tác động qua lại chặt chẽ hai hệ thống tín hiệu Nhận thức được
điều này, trong giáo dục, chăm sóc trẻ cần kết hợp giữa lời nói với các biểu
tượng trực quan để có hiệu quả cao nhất.

Ở trẻ, hệ thống tín hiệu thứ hai được hình thành như sau: từ tháng thứ
6, ở trẻ đã xuất hiện phản xạ có điều kiện với kích thích ngôn ngữ, nhưng
thường kết hợp với những kích thích khác như nụ cười, nét mặt …Do đó, kích
thích này chỉ được gọi là kích thích ngôn ngữ có điều kiện bởi trẻ chưa phân
biệt được từ ngữ với nghĩa tư duy của từ ngữ, mà chỉ phân biệt được âm sắc
với cao độ của giọng nói, tiếng nói. Lúc này, nếu thay đổi hoàn cảnh và hình
dáng của người nói sẽ gây ức chế phản ứng. Ngôn ngữ trực tiếp bắt đầu xuất
hiện khi trẻ 7,8 tháng và mối liên hệ “trực tiếp - ngôn ngữ”. Trẻ nhờ sự giúp
đỡ của người lớn mà có thể giao tiếp với những người xung quanh bằng ngôn
ngữ khi trẻ bước vào 1,5 tuổi. Từ đó vốn từ của trẻ được tăng lên đáng kể.
Trẻ 4 tuổi ngôn ngữ của chúng có thêm các từ mới vì vậy rất phong phú. Do
vậy, trẻ nói đúng ngữ pháp hơn và số lượng các khái niệm được chúng lĩnh
hội cũng tăng hơn. Trẻ có thể dùng ngôn ngữ để đáp lại ngôn ngữ từ khi 5 - 7
tuổi do vốn từ khá nhiều. Lúc này, mối liên hệ “ngôn ngữ - ngôn ngữ” ở trẻ
xuất hiện.
Bộ máy phát âm không thể không nhắc đến khi tạo ra giao tiếp hiệu
quả. Bộ máy phát âm đã có sẵn khi con người sinh ra - đó là một trong những
tiền đề quan trọng nhất ; nếu không có nó sẽ không có ngôn ngữ; nếu nó có
một khiếm khuyết nào đó về mặt cấu tạo (như hở hàm ếch, sứt môi, ngắn lưỡi
…) thì lời nói hình thành hết sức khó khăn. Bộ máy phát âm của con người
khi sinh ra chưa hoàn chỉnh. Giai đoạn mầm non chính là lứa tuổi để hoàn
thiện dần dần bộ máy đó với sự hình thành của răng, sự vận động của môi,
lưỡi, hàm dưới… Cùng với sự lớn lên của trẻ, quá trình đó diễn ra tự nhiên
theo các quy luật sinh học. Mỗi trẻ có sự phát triển ngôn ngữ khác nhau do bộ


×