Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

bài giảng Dịch tễ học mô tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.79 KB, 15 trang )

thanh hương lê <>

bài nghiên cứu mô tả gửi lớp 14yb
Phi Nga Cao <>
Tới:

16:22 22 tháng 3, 2018

BÀI 5: DỊCH TỄ HỌC MÔ TẢ
Mục tiêu học tập
1. Trình bày được mục tiêu, những nội dung chính của nghiên cứu mô tả;
2. Trình bày được phương pháp mô tả các hiện tượng sức khỏe và các yếu tố
nguy cơ;
3. Diễn giải được các loại nghiên cứu mô tả;
4. Nêu ra được các thành phần cơ bản của một giả thuyết Dịch tễ học về mối
quan hệ nhân quả.
Phương pháp nghiên cứu mô tả là một phương pháp nghiên cứu quan trọng
của dịch tễ
học. Mô tả các hiện tượng sức khỏe đầy
đủ, chính xác mới có thể hình thành được giả thuyết
dịch tễ học về mối quan
hệ nhân quả, mới có thể đề xuất được các biện pháp can thiệp hữu hiệu.
1. MỤC TIÊU CỦA CÁC NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ HỌC MÔ TẢ
Các nghiên cứu mô tả là dựa trên phương
pháp quan sát dịch tễ học các hiện tượng
sức
khỏe và các yếu tố liên quan quy định các hiện tượng sức khỏe đó, để có thể hình
thànhnên giả thuyết nhân quả.
Nếu như các yếu tố này
đã được biết, thì công
việc mô tả không


nhằm tìm ra những yếu tố mới lạ, mà chính là để làm sáng tỏ tình trạng ảnh hưởng
của yếu tố đó lên hiện tượng sức khỏe đang nghiên cứu.
Nếu như các yếu tố quy
định hiện tượng sức khỏe đang nghiên cứu chưa được biết, và
lúc bắt đầu nghiên cứu còn chưa đủ điều kiện để hình thành giả thuyết nhân quả, t
hì việcmô
tả đầy đủ và chính xác sẽ có thể gợi ý nên mối tương quan nào đó giữa các yếu t


ố và hiện
tượng sức khỏe nghiên cứu, để có thể hình thành giả thuyết nhân quả.
Như vậy, các nghiên cứu mô tả có hai mục tiêu :
(1).Xác định tỷ
lệ mắc một bệnh nào đó trong một quần thể nhất định và tỷ lệ những cá
thể phơi
nhiễm với các yếu tố liên quan, để có thể gợi ý nên những vấn đề nghiên cứu khác.
(2). Phác thảo ra được một giả thuyết nhân quả về mối quan hệ giữa các yếu tố
nguy cơ
nghi ngờ với bệnh, làm tiền đề cho những nghiên cứu phân tích tiếp theo.
2. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA NGHIÊN CỨU MÔ TẢ
Để tiến hành một nghiên cứu mô tả, người ta phải xác định trước mục
tiêu: Hiện tượng
sức khỏe đó xảy ra trong quần thể nào; bệnh nghiên cứu phải được định nghĩa chín
h xác, cụ thể; chọn các biến nghiên cứu cụ thể, sau đó mới tiến hành quan sát và
mô tả.
2.1. Xác định quần thể nghiên cứu
Tùy theo mỗi bệnh và các yếu tố quy định, mà chọn quần thể nghiên cứu, gọi
chung là quần thể có nguy cơ nhưng được biểu hiện dưới nhiều mức độ khác nhau.
Chọn quần thể nào để tiến hành nghiên cứu là tùy
thuộc vào mục đích và khả năng

nghiên cứu, nhưng ở tất cả các trường hợp,
việc xác định quần thể là tiền đề rất quan trọng, nó làmẫu số quyết định các tỷ
lệ quan sát. Người ta thường chọn quần thể dựa trên các nghiên cứu cơ
bản có
sẵn về tỷ lệ chết, tỷ lệ mắc chung hoặc riêng cho từng bệnh, và dựa trên mức độ
phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ, vào tỷ lệ bị đe dọa và các yếu tố liên quan khác.
2.2. Định nghĩa bệnh nghiên cứu
Một bệnh, hay nói chung, một hiện tượng sức khỏe nào đó sẽ mô tả, đều phải
được định
nghĩa rõ ràng, chính xác, cụ thể. Tốt nhất là, định nghĩa đó phải sát hợp để có th
ể sosánh được với những định nghĩa chuẩn quốc gia, quốc tế.
2.3. Mô tả yếu tố nguy cơ


Nếu chỉ mô tả về bệnh hoặc một hiện tượng sức khỏe nhất định nào đó, có thể
có tác
dụng nhiều cho y học, nhưng ít giúp ích cho cộng đồng. Cho nên, muốn giúp ích nh
iều chocộng đồng, và nhất là trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe ban đầu, những ngư
ời làm công
tác
dịch tễ bao giờ cũng
mô tả một hiện tượng sức khỏe nhất định với một (hoặc nhiều) yếu tố
nguy cơ (hoặc yếu tố dự phòng) của hiện tượng sức khỏe đó, mới có thể đạt được
mục tiêu của dịch tễ học mô tả là hình thành được giả thuyết nhân quả.
3. PHƯƠNG PHÁP MÔ TẢ CÁC HIỆN TƯỢNG SỨC KHỎE VÀ CÁC YẾ
U TỐ NGUY CƠ
Trong
dịch tễ học mô tả, chỉ đếm các trường
hợp mắc, trường hợp chết là chưa đủ, điều
quan

trọng là phải mô tả theo
mức độ nặng
nhẹ của bệnh, các giai đoạn phát triển
tự
nhiêncủa
bệnh, ngoài việc xác định số người mắc, không mắc, còn phải chia số đó ra theo
những đặc trưng liên quan tới con người, thời gian, không gian.
Việc mô tả nhằm trả lời 3 câu
hỏi
sau đây:
(1) Hiện tượng sức khỏe hàng lọat đó xảy ra ở
những ai? (2) Hiện tượng sức khỏe đó xảy ra ở
đâu?
(3) Hiện
tượng sức khỏe đó xảy ra khi nào?
3.1. Hiện tượng sức khỏe xảy ra ở những ai
Để trả lời
câu hỏi này,
thể con người.

phải mô tả theo các đặc trưng về chủ

Các đặc trưng về chủ thể con người bao gồm một tập hợp đa dạng về các tính
chất giải
phẩu, sinh lý, xã hội, văn hóa... dựa trên những yếu tố nội sinh và ngoại sinh k
hác nhau.
Nhiệm
vụ của người
làm công
tác dịch tễ không chỉ


sắp xếp các cá thể vào
trong những lọat
đặc tính khác nhau đó một cách chính xác, mà còn phải giải thích các cơ chế tươ
ng ứngvề sinh học, về xã hội học có liên quan tới bệnh nghiên cứu một cách logic.
3.1.1. Các đặc trưng về dân số học
3.1.1.1. Tuổi đời


Tuổi đời là đặc trưng
quan trọng
của một cá thể. Có rất nhiều chỉ số sinh học liên quan chặt chẽ với tuổi, biến thiên
theo
tuổi
như chiều cao, cân
nặng,
huyết
áp... Tuổi
cũng biểu
hiện các giai đọan khác nhau của sự phơi nhiễm đương
nhiên của các cá thể với
những yếu tố nguy cơ mang tính xã hội (như tuổi mẫu giáo, tuổi đi học, tuổi đi là
m, tuổi nghĩa vụquân sự...) hoặc với những nguy cơ sinh học.
Ví dụ: Higgiuson và Muir đã nêu lên 6 mô hình mới mắc ung thư
như sau: (Hình
4.1): (1) Do một yếu tố căn nguyên tác động dần dần trong quá trình sống: K
phổi, K thực quản. (2)Các yếu tố căn nguyên tác động ngay từ lúc ban
đầu của cuộc đời: K cổ tử cung.
(3) Hai nhóm khác nhau, một nhóm bắt đầu từ tuổi nhỏ, một nhóm ở tuổi lớn
hơn: K vú.

(4) Tác động của yếu tố ở tuổi nhỏ: K gan
tiên phát.
(5) Yếu tố tác động lên trẻ suy giảm miễn dịch, và cả ở người lớn suy giảm
miễn dịch:
một số Leucémie.
(6) Một số
K
không thấy liên
với tuổi: Các Leucémie Lymphoides.
3.1.1.2. Giới tính

quan

Với nhiều bệnh, tỷ lệ mắc không khác nhau nhiều lắm giữa nam và nữ, nhưng
các tỷ lệ
đó không luôn luôn bằng nhau trong một quần thể, nhất là ở lứa tuổi thấp và lứa tu
ổi cao,vì số nam sinh ra nhiều nhưng số nữ lại có tuổi thọ cao hơn.
Một số bệnh, tỷ lệ mắc có khác nhau giữa nam và nữ, nói chung là có
liên quan đến:
+ Di truyền (Hémophilie).
+ Do tính chất sinh học của giới tính ( K vú, K cổ tử cung).
+ Do hoạt động nghề nghiệp (Tai nạn, ngộ độc, nghiện).


+ Do cấu trúc hình thái, sinh lý và sự điều chỉnh của cơ thể khác nhau trướ
c các tác
động của các yếu tố bên ngoài.
3.1.1.3. Chủng tộc
Chủng tộc biểu thị cho một tập hợp các tính chất di truyền sinh học chung về h
ình thái, tâm thần, bệnh lý... Nhưng rất khó khai thác một bệnh nào đó là có

liên quan chặt chẽ vớichủng tộc (da trắng, da đen, da đỏ, da vàng) khi các điều kiện
ngoại cảnh còn rất khác nhau (trình độ văn hóa giáo dục, mức kinh tế xã hội, vệ sinh
cá nhân...).
3.1.1.4. Dân tộc
Một nhóm dân tộc là một nhóm cá thể cùng chung những liên hệ về tiếng
nói, phong tục tập quán, văn hóa, chính trị... cũng khó có thể gán ghép một bệnh nào
đó cho một dân tộcnhất định khi các điều kiện môi trường bên ngoài rất khác nhau.
3.1.1.5. Nơi sinh
Nơi sinh là một chỉ điểm quan trọng
trong các nghiên cứu đối với các quần thể di cư, họ
thường bảo tồn trong một thời gian nhất định về lối sống, phong tục tập quán của n
ơi sinhra họ ở nước mà họ đến sinh sống.
3.1.1.6. Tôn giáo
Tôn giáo có thể ảnh hưởng lớn do những quy định cho tín đồ của mình những
quy tắc
sống nhất định như vệ sinh cá nhân, loại thực phẩm, hôn nhân, gia đình... Ở đây
cũng rất khóchỉ ra đâu là ảnh hưởng của tôn giáo, đâu là những quy định của tình tr
ạng di truyền, dân tộc, chủng tộc...
3.1.1.7. Mức kinh tế xã hội
Tình trạng kinh tế xã hội có liên quan mật thiết với tình trạng sức khỏe và bệ
nh tật, vì
nó liên quan đến các yếu tố nguy cơ trong
lao động, các tác nhân nhiễm trùng, các yếu tốkích chấn,
sự
tiếp xúc mật thiết giữa người và người.
Tình trạng


kinh tế xã hội được xác định bằng nhiều chỉ số của một tầng lớp xã hội nhất
định, các tầng lớp đó liên quan tới nghề nghiệp, thu nhập, nhà ở, trình độ văn hóa gi

áo dục,
những hiểu biết về y tế, vệ sinh, kiến thức giáo dục của người mẹ, thu nhập của ng
ười cha
trong gia đình, sự cung cấp của xã hội về thực phẩm, rượu, thuốc lá .. Và một vấn đ
ề có tầm
quan trọng
không
nhỏ là các sinh hoạt tinh thần của xã hội, có hoặc không đem lại kích chấn tâm thần
đối với từng nhóm tuổi, nhóm nghề nghiệp, nhóm tầng lớp người nhất định.
Trong các nghiên cứu dịch tễ học, các chỉ số tổng
hợp đó phải được mô tả và phân tích
riêng rẽ từng yếu tố một mới có thể đánh giá đúng vai trò của mỗi yếu tố đối với
tìnhtrạng sức khỏe nghiên cứu.
3.1.2. Các đặc trưng về gia đình
Gia đình là một tập hợp các cá thể có một di sản di truyền chung, cùng
sinh sống trong một môi trường, một hoàn cảnh, tiếp xúc mật thiết với nhau. Các
thói quen về
văn hóa, các
truyền thống, các
thói quen ăn uống, vệ
sinh, giải trí, nghề nghiệp... phần lớn đều chịu ảnh hưởng của gia đình.
3.1.2.1. Tình trạng hôn nhân
Sức khỏe của một cá thể, một quần thể có liên quan đến tình trạng
hôn nhân. Theo tình
trạng hôn nhân, quần thể có thể chia ra
thành nhiều nhóm: Không vợ không chồng, có vợ cóchồng, ly thân, ly dị, đa phu đ
a thê, góa bụa, ở vậy... Tỷ lệ chết chung ở đàn ông và đàn bà
đều cao ở những người ly dị, rồi đến những người góa bụa, những người không vợ
khôngchồng, và thấp nhất ở những người có vợ có chồng. Người ta cũng nhận thấy
có một số bệnh thường gặp nhiều ở những người không vợ không chồng như giang

mai, các khối u, bệnhtim mạch, xơ gan..vv..
3.1.2.2. Số người trong gia đình
Số người trong một gia đình càng đông càng dễ lây truyền các bệnh truyền n
hiễm, và ảnh hưởng
đến mức kinh tế xã hội, sự tăng
trưỏng
và phát triển của con cái, ảnh hưởng đến
tình trạng dinh dưỡng của cả gia đình cũng như tỷ lệ bị bệnh. Người mẹ đẻ nhiều s
ẽ có nguy cơ với các bệnh sản khoa.
3.1.2.3.Thứ hạng sinh trong gia đình


Mỗi đứa con sinh ra trong cùng một gia đình, nhưng ở các thời điểm khác nha
u nên có một hoàn cảnh gia đình khác nhau, còn khác nhau về tuổi của
bố mẹ, sự chăm sóc
của
bố
mẹ...vv... trừ bệnh di truyền không
phụ thuộc vào thứ lần sinh (Hémophilie) còn lại các bệnh
khác đều
bị ảnh hưởng (Kwashiorkor được gọi là bệnh của đứa con thứ ba).
3.1.2.4. Tuổi của cha mẹ
Tuổi của cha mẹ càng tăng thì tình trạng sức khỏe và thể lực càng giảm và nh
ư vậy sẽ ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của đứa con.
Cũng cần phải nghiên cứu riêng rẽ thứ hạng sinh của con cái và tuổi của c
ha mẹ, vì phần lớn những đứa con đầu đều được sinh ra khi cha mẹ còn trẻ, cũng
như đẻ nhiều lần thìở các bà mẹ trẻ sẽ có sức khỏe và các vấn đề y tế vệ sinh
khác với các bà mẹ nhiều tuổi hơn.
3.1.2.5. Các điều kiện khi còn là bào thai
Người ta thấy rằng trọng lượng lúc sinh ra, sự hoàn thiện của cơ thể, sự phát

triển của
thể chất, khả năng mắc bệnh hoặc chết.. lúc sinh ở những
trẻ sinh đôi hoặc sinh ba đều khác
hẳn những trẻ sinh một do các điều kiện chuyển hóa khi còn trong bụng mẹ và cả
sau khi đẻ ra; người ta thấy rằng càng đẻ liên tiếp thì trọng lượng của thai
nhi lúc đẻ càng thấp.
3.1.3. Các đặc tính nội sinh, di truyền
3.1.3.1. Cấu trúc cơ thể
Cơ thể con người hoàn thiện về cấu trúc vào tuổi 20 -25. Cho nên, các nghiên
cứu dịch
tễ học về hiện tượng sức khỏe có liên quan đến cấu trúc thể chất ổn định của cơ thể
thì phải tiến hành trên các đối tượng sau tuổi 25.
3.1.3.2. Sức chịu đựng của cá thể
Ngoài sức đề kháng
đặc hiệu đối với các bệnh gia truyền hoặc mắc phải mà mỗi cá thể
thu được khác nhau, sức đề kháng
không đặc hiệu tự nhiên có một vai trò quan trọng trong
việc đề kháng
đối với một số bệnh; Những
cố gắng
về thể lực và tâm thần có thể làm giảm


nguy cơ mắc các tai biến mạch máu, tai nạn lao động..
3.1.3.3. Tình trạng dinh dưỡng
Tình trạng dinh dưỡng liên quan mật thiết đến tình trạng sức khỏe, tình trạng
bệnh tật, cả những bệnh nhiễm và không
nhiễm trùng, ảnh hưởng đến sự phát triển vận động
và tâm
thần, cả trong hiện tại và tương lai...

3.1.3.4. Các bệnh tương hỗ
Có nhiều bệnh bị nặng
thêm vì có kèm bệnh tương
hỗ, như sởi có thể làm dễ nhiễm lao, trẻ bị leucémie có tỷ lệ viêm phổi rất
cao, người bị silicose có tỷ lệ mắc lao cao hơn hẳn.
3.1.4. Các thói quen trong đời sống
Có những
thói quen không có lợi cho sức khỏe như uống rượu , hút thuốc, thói quen ăn uống
không hợp lý; cũng có những
thói quen có lợi cho sức khỏe như tập thể dục, nghỉ ngơigiải trí. Dịch tễ hoc cũng p
hải tiếp cận đến các thói quen đó trong các nghiên cứu đối với các bệnh liên quan.
3.1.5. Nhóm máu
Người ta thấy một số bệnh có liên quan đến nhóm máu: nhóm A có nguy cơ c
ao với K dạ dày, trong khi đó, nhóm O với loét tá tràng...
3.1.6. Các chỉ số khác
Người ta còn quan tâm đến những đặc trưng cá thể khác, cũng có ảnh hưởng
nhất định
đối với một số bệnh. Các kiểu ứng xử, các kinh nghiệm trong cuộc sống, cách phản
ứng và
thích ứng, điều chỉnh của cơ thể trước những kích chấn của cuộc sống... cũng đều
có những tác động nhất định đối với sức khỏe.
3.2. Hiện tượng sức khỏe đó xảy ra khi nào
Những nghiên cứu về các hiện tượng sức khỏe theo thời gian đã có rất nhiều đ
óng góp cho y học. Có nhiều hiện tượng sức khỏe liên quan tới thời gian mà các
nghiên cứu dịch tễ học cần phải chú ý.


3.2.1. Thay đổi theo năm
3.2.1.1. Các thay đổi không có tính chu kỳ
Sự gia tăng không có chu kỳ các trường hợp mắc, thường xuất hiện hiện thàn

h một đợt
dịch. Quá trình gia tăng của hiện tượng
sức khỏe hàng loạt đó, cả với bệnh truyền nhiễm và
không truyền nhiễm, đều có những tính chất ứng với mô hình ban đầu của sự điều
chỉnh sinh lý của cá thể và của quần thể.
3.2.1.2. Các thay đổi có tính chu kỳ
Có nhiều bệnh tăng giảm theo những chu kỳ
nhất định, rõ rệt nhất là các bệnh truyền
nhiễm khi chưa có sự can thiệp cộng đồng. Sự thay
đổi theo chu kỳ cũng có thể nhận thấy
đối
với nhiều hiện tượng sức khỏe, hiện tượng sinh lý. Cho nên phải chú ý đến tính c
hu kỳ của các hiện tượng đó trong các nghiên cứu dịch tễ học nói chung.
3.2.2. Sự thay đổi theo mùa
Rất rõ rệt đối với bệnh truyền nhiễm; ở một số bệnh khác cũng có thể gặp nh
ư các tai
nạn, bệnh tâm thần, các nguyên nhân chết...
Các yếu tố khí tượng, thủy văn... biến thiên theo mùa có tính chu kỳ kém theo
sự biến
thiên của các yếu tố môi trường khác (như nồng độ các chất gây
ô nhiễm không khí) sẽ tác
động khác nhau lên cơ thể và dẫn tới những biến thiên sinh lý và bệnh lý ở các cá th
ể và quần thể.
3.2. 3. Xu thế tăng giảm của bệnh
Xu thế tăng giảm của bệnh thường chỉ có thể thấy được sau hàng chục năm.
Nguyên nhân của xu thế này có thể:
- Sự xuất hiện hoặc biến mất của các yếu tố căn nguyên của bệnh;
- Có phương pháp chẩn đoán chính xác hơn;
- Số người được chẩn đóan tăng lên vì chăm sóc sức khoẻ tốt hơn;



- Sự cải thiện các điều kiện y tế vệ sinh;
- Cải thiện điều kiện sống nói chung nhất là dinh dưỡng và nhà ở;
- Thanh toán một số bệnh truyền nhiễm chủ yếu;
- Cải thiện chăm sóc sản khoa;
- Sự gia tăng số người ở tuổi có nguy cơ mắc bệnh cao;
- Sự ô nhiễm và xuống cấp của môi trường sống;
- Có hoặc không điều chỉnh được trước những điều kiện
sống thay đổi ngày càng nhanh.
Tiếc rằng cho đến nay, việc phân tích xu thế tăng giảm này chỉ bằng hồi cứ
u cho nên các kết luận thường hạn chế, kém chính xác, nhất là các yếu tố căn nguyê
n của xu thế. Các nghiên cứu tương lai sẽ cho các kết quả chính xác hơn.
3.3. Hiện tượng sức khỏe xảy ra hàng loạt ở đâu
Vấn đề đặt ra ở đây là, trong một không gian nhất định, các yếu tố lý, hóa, si
nh học và xã
hội học tất yếu có sự liên quan đến sự phát sinh, phát triển và
tàn lụi của bệnh, cho nên người ta đã hình thành nên môn địa lý y học.
Có thể kể một số đặc trưng không gian chung nhất:
(1) Sinh cảnh của bệnh: Bao gồm một vùng địa lý với các điều kiện khí tượng,
chất đất,
thảm thực vật, động vật và cư dân sống
trong
vùng
đó, cùng các tính chất của môi trường nói chung, cần thiết cho sự xuất hiện và tồn
tại của bệnh tại nơi đó.
(2) Ổ bệnh thiên nhiên: Ví dụ: Vùng nhiệt đới và ôn đới luôn có tỷ
lệ mắc bệnh ký sinh trùng đáng kể vv...
(3) Các vùng công nghiệp hóa, ô nhiễm không khí: Gặp tỷ lệ ung thư phổi c
ao như ở Mỹ, Anh.
(4) Vùng có tình trạng dinh dưỡng , thói quen ăn uống, hoặc chất đất đặc biệ

t: ở Nhật, có tỷ
lệ mắc bệnh mạch vành thấp, nhưng lại có tỷ lệ cao huyết áp và rối loạn tuần hoànn
ão cao nhất; ở Đức, Nhật, Aixlen lại có tỷ lệ ung thư dạ dày rất cao.


(5) Các vùng nông thôn, thành thi cũng hay được đề cập đến trong các nghiên
cứu dịch tễ học.
Sự khác nhau của từng vùng thường là do sự khác nhau của các yếu tố:
- Sự phân bố thực phẩm.
- Thiết bị y tế.
- Mật độ dân cư và nhà ở;
- Sự tập trung trong các tập thể ít hoặc nhiều (trường học, cư xá, nhà máy, ...);
- Nhiễm bẩn môi trường;
- Xử lý các chất thải bỏ;
- Các chất độc và dị nguyên;
- Cấu trúc dân cư, tốc độ thay đổi của cấu trúc xã hội;
- Vấn đề di cư và nhập cư: Đây
là vấn đề cần được quan tâm trong các nghiên cứu dịch
tễ học, nó có thể làm sáng tỏ những
điểm mà khó có những chỉ số khác có thể cung cấpđược,
vì quần thể di cư là một chỉ điểm tổng
hợp nên của 3 góc độ dịch tễ học: Con người, không gian, thời gian. Nó có thể cho
phép: Kiểm tra tỷ lệ mắc một bệnh nào đó cao có liênquan tới một vùng địa lý nhất
định hoặc liên quan tới những nhóm người có kiểu di truyền nhất định.
3.4. Mô tả về nguy cơ của tình trạng sức khỏe nghiên cứu
Cùng
với việc mô tả hiện tượng
sức khỏe theo 3 góc độ: Con người, không gian, thời gian, dịch tễ học mô tả cũng p
hải mô tả các yếu tố nguy cơ có liên quan tới hiện tượng sức
khỏe đó. Các yếu tố nguy cơ này phải được mô tả một cách kỹ lưỡng, cụ thể, chính

xác ở mọi mức độ để làm nổi bật lên tình huống cụ thể của hiện tượng sức khỏe đó.
4. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU MÔ TẢ
4.1. Mô tả trường hợp bệnh và chùm bệnh


Là loại thiết kế nghiên cứu đơn giản nhất, thường nhằm vào những trường
hợp bệnh
hiếm gặp hoặc những
trường
hợp bệnh bất thường, thường
được tiến hành trước bởi các thầy thuốc lâm sàng;
Ví dụ: Năm 1961, ở Mỹ, có một báo cáo về một phụ nữ tiền mãn kinh,
40 tuổi, khỏe
mạnh, đã dùng viên tránh thai (Oral contraceptive) để điều trị viêm nội mạc tử cu
ng và nay
vào viện vì nhồi máu phổi (Embolie pulmonaire). Vì nhồi máu phổi
rất ít gặp ở lứa tuổi này,
đây
là một trường hợp bất thường, và sau nhiều tìm tòi, những người thầy thuốc đã nghĩ
đến:
Có thể viên tránh thai liên quan đến nhồi máu phổi, và đưa ra giả thuyết: Viên trá
nh thai có thể làm tăng nguy cơ viêm tắc tĩnh mạch.
Thu thập các mô tả từng trường hợp bệnh đơn lẽ nhưng có những điểm giống
nhau xảy
ra
trong một thời gian tương đối ngắn, trong một không gian không lớn lắm, hình thàn
h nên
việc mô tả chùm bệnh, nó có tầm quan trọng lịch sử trong nghiên cứu dịch tễ học và
thường
dùng nó như một phương tiện chẩn đoán ban đầu của sự xuất hiện hoặc có mặt của

một vụ
dịch; và thường từ việc mô tả chùm bệnh hình thành nên giả thuyết dịch tễ học. Ví
dụ: Bệnh SIDA được mô tả ban đầu bằng chùm bệnh Pneumocysits carinii trong số
5 nam thanh niên
khỏe mạnh, xảy ra vào cuối năm 1980 đầu 1981 ở 3 bệnh viện ở Los Angeles, có
cùng một tiền sử giống nhau về đồng tính luyến ái... Giả thuyết này sau đó
đã được kiểm định.
4.2. Mô tả tương quan
Các mô tả trường
hợp bệnh đơn lẽ và chùm bệnh
dựa trên các sự kiện cá thể, còn mô tả
tương quan thì dựa trên các sự kiện chung của một quần thể, về cả bệnh và các y
ếu tố,đặc
tính chung của quần thể, có liên quan tới bệnh. Mặc dầu các đặc tính chung này
được tính
theo
đầu người, nhưng các số đo các đặc
tính đó vẫn có nguồn gốc từ một quần thể
trong
những khỏang thời gian khác nhau, ở
những thời điểm
khác nhau, hoặc của các quần thể khác nhau trong cùng một khỏang thời gian,
ở cùng một thời điểm.


Ví dụ: Lượng thịt tiêu thụ đầu người/ ngày có tương quan thuận chiều với tỷ
lệ K đại
tràng ở nhiều nước trên thế giới: ở những nước tiêu thụ nhiều thịt thì K đại tràng có
tỷ lệ cao (Canada, New Dilan, Mỹ...) và ngược (Nigiéria, Chilé...).
Một ví dụ khác: người ta thấy: Có mối tương quan giữa lượng thuốc lá bán ra

và tỷ
lệ chết vì bệnh mạch vành ở 44 bang của Mỹ: Tỷ lệ chết cao nhất ở bang bán nhiều
nhất, thấp nhất ở bang bán ít nhất, và trung gian ở các bang còn lại.
Mô tả tương quan
là một trong
những thiết kế được sử
dụng
nhiều nhất trong các nghiên cứu dịch tễ học; thường được sử dụng như là bước đầ
u trong việc khai thác một quan hệcó thể có kết hợp giữa phơi nhiễm và bệnh, ti
ến hành một cách nhanh chóng, ít tốn kém, vì thường sử dụng những nguồn
thông tin sẵn có trong các lĩnh vực liên quan.
Hạn chế của mô tả tương quan: là không có khả năng gán tương
quan kết hợp giữa phơi
nhiễm và bệnh của quần thể cho bất kỳ
một cá thể nào trong quần thể, đặc biệt là sự tương
quan đó có thật sự xảy ra ở những cá thể có phơi nhiễm trong
quần thể nghiên cứu hay không.
Ví dụ: Người ta thấy có một sự tương quan rất mạnh giữa test phát hiện bệnh Papan
icolauvới tỷ lệ chết do ung thư cổ tử cung ở nhiều bang khác nhau của Mỹ, nhưn
g liệu chính những
phụ nữ được sàng tuyển bằng test này có tỷ lệ chết vì ung thư cổ tử cung có thật sự
giảm thấp không, thì lại là vấn đề hoàn toàn khác...
Cho nên, các mô tả tương
quan cũng chỉ đạt tới mức cao nhất là hình thành giả thuyết,
không có khả năng kiểm định giả thuyết.



hòan


tòan

Một hạn chế nữa của mô tả tương quan là không có khả năng lọai trừ được n
hiều tiềm ẩn ở trong
kết hợp tương quan. Ví dụ: Có một kết hợp chặt chẽ giữa số lượng
ti vi màu/ đầu
người và tỷ lệ chết do mạch vành ở nhiều nước trên thế giới. Nhưng rõ ràng là số t
i vi màu /đầu người chắc chắn có liên quan với lối sống khác làm tăng bệnh mạch
vành, cao huyếtáp, mức cholestérol máu, thói quen hút thuốc, ít hoạt động thể lực...
4.3. Mô tả bằng những đợt nghiên cứu ngang
Còn được gọi là nghiên cứu tỷ lệ hiện mắc, trong đó cả phơi nhiễm và bệnh đề


u được xem xét cùng một lúc cho mỗi một cá thể trong một quần thể nhất định, đượ
c tiến hành ở mỗi
thời điểm nhất định, cung
cấp cho ta một bức ảnh chụp nhanh về một hiện tượng sức khỏe và các yếu tố liên
quan của một quần thể.
Thường thì, hiện nay loại nghiên cứu này được tiến hành trên một mẫu đại
diện cho quần thể.
Hạn chế của điều tra ngang là không thể nói được rằng yếu tố hay bệnh, cái n
ào xảy ra
trước, cái nào xảy ra sau, ai là nhân, ai là quả. Ví dụ: Người ta đã xét nghiệm carote
n/máu
những người được xác định là có mắc ung thư trong một đợt nghiên cứu ngang,
thì ngoài
thông tin thu thập được về tỷ lệ ung thư đó, và ở họ có mức caroten/máu thấp hơn n
gườibình
thường, chúng ta không thể biết được là mức caroten thấp xảy
ra trước, là yếu tố nguy cơ của bệnh, hay xảy ra sau, chỉ là hậu quả của bệnh.

Nghiên cứu ngang chỉ phản ảnh hiện tượng sức khỏe tại thời điểm nghiên c
ứu, không
nói lên được diễn biến của hiện tượng
sức khỏe đó theo thời gian, cho nên không
thể sosánh
kết quả này
với kết quả của một nghiên cứu ngang ở quần thể khác. Ví dụ: Trong một nghiên cứ
u ở Mỹ về tỷ lệ mắc bệnh mạch vành: Người da đen có tỷ lệ thấp hơn người d
atrắng,
nhưng không
thể nói được là sự phát triển bệnh mạch vành ở người da đen là thấp hơn, vì
không phải ở thời điểm nào cũng xãy ra hiện tượng như vậy.
5. HÌNH THÀNH GIẢ THUYẾT TỪ CÁC NGHIÊN CỨU MÔ TẢ
Một mục tiêu quan trọng của dịch tễ học mô tả là hình thành một giả thuyết
về mối
quan
hệ nhân quả, là tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo, và mới có thể đề xuất được
cácbiện pháp ngăn ngừa hữu hiệu cho quần thể
Giả thuyết dịch tễ học về mối quan hệ nhân quả, phải có đầy đủ các thành phần
sau đây:
(1) Yếu tố nguy cơ căn nguyên: Có
thể
là bất kỳ yếu
tố nguy cơ nghi ngờ nào xét về mặt
thống
kê là có một kết hợp thống
kê có ý nghiã giữa phơi nhiễm và bệnh, và xét về mặt sinhy
học là có khả năng suy luận từ kết hợp thống kê đó. Cố nhiên, để xét về thống kê h
ọc, yếu tố



nguy cơ căn nguyên đã phải được định mức thành các số đo có thể định lượng, đo đ
ếmđược một cách chính xác.
(2) Hậu quả: Là bệnh mà ta quan tâm trong nghiên cứu: Có thể được đếm b
ằng tổng
lượng, hoặc chia ra từng giai đọan, từng mức độ nặng nhẹ khác nhau, việc phân ch
ia đó phải có những số đo tương ứng để khi tính tóan
đáp ứng được về mặt thống kê.
(3) Mối quan hệ nhân quả: Phải mô tả để thể hiện được mối tương quan nhân
quả, thể
hiện được mối quan hệ lượng chất, biểu thị bằng liều đáp ứng và thời gian đáp ứng.
(4) Quần
thể:
Quần
thể trong đó mối
quan hệ nhân quả phát huy tác dụng: là tập
hợp các cá thể đồng
nhất nhau về các tính chất nội sinh và ngoại sinh, để cho tác dụng của các yếutố
nguy cơ, và khả năng xuất hiện bệnh là không chênh lệch nhau.
Cao Thi Phi Nga
MD., MPH., Vinh Medical University



×