Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Nghiên cứu đa dạng sinh học côn trùng nước tại vườn khu vực trạm tôn núi xẻ thuộc vườn quốc gia hoàng liên tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 59 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH – KTNN
======

TRẦN THỊ HẢI YẾN

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC CÔN
TRÙNG NƯỚC TẠI KHU VỰC TRẠM TÔN
NÚI XẺ THUỘC VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG
LIÊN TỈNH LÀO CAI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Động vật học
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN VĂN HIẾU

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến TS. Nguyễn Văn Hiếu, người thầy đã định hướng và tận tình chỉ bảo, giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và hoàn thiện khóa luận tốt
nghiệp của mình.
Đồng thời, qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm Khoa
cùng các thầy, cô giáo Khoa Sinh - Kỹ thuật nông nghiệp, Trường Đại học Sư Phạm
Hà Nội 2, những người đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã động viên
và là chỗ dựa vững chắc cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học. Tôi
xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Trần Thị Hải Yến


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu, các số liệu trình bày trong khóa luận là do nghiên cứu, thực tiễn đảm
bảo tính trung thực và chưa được công bố trong bất cứ công trình khoa học, trong
các tạp chí chuyên ngành và các hội thảo khoa học, sách chuyên khảo,… nào khác.

Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Trần Thị Hải Yến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài..................................................................................................1
2. Mục đích .............................................................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................2
4. Ý nghĩa................................................................................................................2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ..................................................................3
1.1. Tình hình nghiên cứu côn trùng nước trên thế giới............................................3
1.2. Tình hình nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam ............................................9
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................... 14
2.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................... 14
2.2 Thời gian nghiên cứu ....................................................................................... 14

2.3. Địa điểm nghiên cứu....................................................................................... 14
2.4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 15
2.4.1 Phương pháp thu mẫu ngoài tự nhiên ........................................................... 15
2.4.2 Phương pháp phân tích mẫu trong thí nghiệm .............................................. 16
2.4.3 Một số chỉ số Đa dạng sinh học .................................................................... 16
2.4.4 Xử lý số liệu.................................................................................................. 18
2.5. Một số đặc điểm tự nhiên của VQG Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai ....................... 18
2.5.1. Vị trí địa lý................................................................................................... 18
2.5.2. Điạ hình....................................................................................................... 18
2.5.3.Điạ chất và thổ nhưỡng ................................................................................ 18
2.5.4. Khí hậu........................................................................................................ 19
2.5.5. Thủy văn ...................................................................................................... 19
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............................................................. 21
3.1. Thành phần loài côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu ................................. 21
3.1.1. Thành phần loài Phù du (Ephemeroptera) ................................................... 27
3.1.2. Thành phần loài Chuồn chuồn (Odonata) .................................................... 27


3.1.3. Thành phần loài của bộ Cánh úp (Plecoptera)............................................. 28
3.1.4. Thành phần loài Cánh nửa (Hemiptera) ...................................................... 28
3.1.5. Thành phần loài Cánh cứng (Coleoptera).................................................... 28
3.1.6. Thành phần loài Cánh rộng (Megaloptera).................................................. 28
3.1.7. Thành phần loài Hai cánh (Diptera)............................................................ 29
3.1.8. Thành phần loài Cánh lông (Trichoptera).................................................... 29
3.1.9. Thành phần loài Cánh vẩy (Lepidoptera)..................................................... 29
3.2. So sánh số lượng và thành phần loài giữa các điểm nghiên cứu ...................... 29
3.2.1. So sánh số lượng loài giữa các điểm nghiên cứu.......................................... 29
3.2.2. Tính tương đồng về thành phần loài giữa các điểm nghiên cứu ................... 32
3.3. Số loài thu được của mỗi bộ côn trùng nước ở các điểm nghiên cứu .......................
30

3.3.1. Mật độ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu ............................................ 33
3.3.2. Loài ưu thế và một số chỉ số đa dạng ........................................................... 34
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ................................................................................... 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 39
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DDSH: Đa dang sinh học
VQG: Vườn quốc gia


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.3. Một số đặc điểm sinh cảnh ở khu vực Trạm Tôn – Núi Xẻ thuộc vườn
quốc gia Hoàng Liên tỉnh Lào Cai ............................................................. 14
Bảng 3.1. Số lượng các taxon thuộc các bậc phân loại của côn trùng nước tại ................
21
khu vực nghiên cứu ................................................................................................. 21
Bảng 3.2 . Thành Phần loài côn trùng nước thu được ở các điểm nghiên cứu......... 23
Bảng 3.3. Số loài thu được của mỗi bộ côn trùng nước ở các điểm nghiên cứu
................. 30
Bảng 3.4. Chỉ số Jacca - Sorensen giữa các điểm nghiên cứu................................. 32
Bảng 3.5. Số lượng cá thể các bộ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu .............. 33
Bảng 3.6. Loài ưu thế, chỉ số loài ưu thế (DI) và chỉ số Đa dạng sinh học Shannon –
Weiner (H’) ............................................................................................... 35


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1 Tỷ lệ số loài theo từng bộ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu. .......... 22

Hình 3.2. Số loài thu được của mỗi bộ côn trùng nước ở các điểm khảo sát .................
30
Hình 3.3. Sơ đồ Jacca - Sorensen thể hiện mối liên quan giữa các điểm nghiên cứu ...
32
Hình 3.4. Số cá thể thu được ở mỗi bộ côn trùng nước tại khu vực nghiên cứu
................... 34


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Côn trùng là một trong những nhóm sinh vật quan trọng trong hệ sinh thái
các thủy vực nội địa, chúng có mặt hầu hết trong các thủy vực nội địa, đặc biệt rất
phổ biến ở các hệ thống sông, suối thuộc vùng trung du, núi cao. Mỗi một môi
trường thủy vực chúng đều có những đặc tính thích nghi phù hợp. Nổi trội bởi số
lượng loài cũng như số lượng cá thể lớn… đặc biệt, chúng là mắt xích quan trọng
trong chuỗi và lưới thức ăn. Bên cạnh việc đóng vai trò cân bằng mối quan hệ dinh
dưỡng ở hệ sinh thái thủy vực và là cầu nối mật thiết với con người, một số loài côn
trùng nước lại là tác nhân truyền bệnh, tác nhân gây bệnh. Chính vì vậy Côn trùng
nước chính là đối tượng được nhiều nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam quan
tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây côn trùng nước cũng đã
được quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là ở các Vườn Quốc gia và các Khu bảo tồn
thiên nhiên, những nơi có hệ thống sông, suối phong phú, tiềm ẩn tính đa dạng côn
trùng nước cao.
Khu vực Trạm Tôn – Núi Xẻ thuộc vườn quốc gia Hoàng Liên Lào Cai nơi
có hệ thống thác, suối, động thực vật phong phú thu hút nhiều hướng nghiên cứu
của các nhà khoa học trong và ngoài nước về địa lí, địa chất, thổ nhưỡng cũng như
đa dạng nguồn tài nguyên động thực vật, nhưng chưa có nhiều hướng nghiên cứu về
đa dạng côn trùng nước. Để góp phần tìm hiểu nhóm sinh vật có ý nghĩa này,
chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu đa dạng sinh học Côn trùng
nước tại vườn khu vực Trạm Tôn- Núi Xẻ thuộc vườn quốc gia Hoàng Liên

tỉnh Lào Cai”.
2. Mục đích
Xác định đặc điểm, thành phần loài của côn trùng nước tại một số hệ thống
suối thuộc Vườn Quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai.
Nghiên cứu đa dạng sinh học về loài Côn trùng nước và sự phân bố của
côn trùng nước tại khu vực Trạm Tôn – Núi Xẻ thuộc vườn quốc gia Hoàng
Liên, tỉnh Lào Cai.

1


3. Phạm vi nghiên cứu
Đa dạng sinh học về loài của nhóm côn trùng nước tại Khu vưc Trạm Tôn –
Núi Sẻ, Vườn quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai.
4. Ý nghĩa
4.1.Ý nghĩa khoa học
Cung cấp những dẫn liệu đa dạng sinh học về loài côn trùng nước và phân bố
của chúng tại khu vực Trạm Tôn – Núi Xẻ thuộc vườn quốc gia Hoàng Liên tỉnh
Lào Cai.
4.2.Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài góp phần cung cấp tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu
giảng dạy về Côn trùng nước sau này tại Trạm Tôn Núi - Núi Xẻ thuộc vườn quốc
gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai.
Là cơ sở đưa ra các giải pháp nhằm bảo tồn đa dạng sinh học côn trùng nước,
xây dựng quy hoạch, khai thác hợp lí và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên
tại khu vực Trạm Tôn - Núi Xẻ thuộc vườn quốc gia Hoàng Liên tỉnh Lào Cai nhằm
giảm thiểu tác động của hoạt động giu lịch, sinh hoạt của con người lên đời sống
sinh vật.



CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình nghiên cứu côn trùng nước trên thế giới
Côn trùng nước đã được quan tâm nghiên cứu từ rất lâu trên thế giới, đặc biệt
ở những nước phát triển. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến từng
bộ của nhóm côn trùng này, từ những nghiên cứu về phân loại học (Eaton, 1871,
1883 - 1888; Lepneva, 1970, 1971; McCafferty, 1973, 1975; Kawai, 1961, 1963),
sinh thái học (Brittain, 1982), tiến hoá (Edmunds, 1972; McCafferty, 1991) đến
những nghiên cứu về ứng dụng (Morse, 1984) [24]. Đặc biệt đã có nhiều nghiên cứu
về các nhóm côn trùng nước gắn bó chặt chẽ với đời sống con người mà đa phần là
tác nhân gây bệnh hoặc tác nhân truyền bệnh cho người và động vật như: ruồi,
muỗi,… Điển hình là các nghiên cứu của Resh và Rosenberg, 1979; Merritt và
Cummins, 1984; Merritt và Newson, 1978; Kim và Merritt, 1987 [24].
Việc nghiên cứu sử dụng côn trùng nước làm sinh vật chỉ thị chất lượng
nước đã được bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX qua các công trình nghiên
cứu của Kuehne (1962), Bartsch và Ingram (1966), Wilhm và Dorris (1968). Sang
những năm 1970, 1980 côn trùng nước trở thành vấn đề trung tâm trong các nghiên
cứu về sinh thái học ở các thủy vực nước ngọt (Barnes và Minshall, 1983) [24]. Đã
từ lâu, các nhà khoa học sớm nhận ra vai trò quan trọng của côn trùng nước trong
các hệ sinh thái, do đó phạm vi nghiên cứu côn trùng nước ngày càng được mở
rộng, các hướng nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc mô tả, phân loại mà còn đi
sâu vào các cơ chế bên trong như: biến động quần thể côn trùng, các mối quan hệ
dinh dưỡng, đáp ứng yêu cầu của sinh thái học (Resh và Rosenberg, 1984;
Cummins, 1994) [24].
Đến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, nhiều nhà khoa học đã công bố hàng
loạt các công trình nghiên cứu về côn trùng nước như: McCafferty, 1983; Kawai,
1985; John, Yang và Tian, 1994; Yoon, 1995; Merritt và Cummins, 1996; … Các
nghiên cứu này đã bổ sung và cung cấp nhiều kiến thức về côn trùng nước bao gồm
cả phân loại học, sinh thái học, tiến hóa, ứng dụng...



Qua các công trình nghiên cứu, đến nay có thể xác định 9 bộ thuộc nhóm Côn
trùng ở nước: Phù du (Ephemeroptera), Chuồn chuồn (Odonata), Cánh lông
(Tricoptera), Cánh úp (Plecoptera), Cánh nửa (Hemiptera), Cánh cứng (Coleoptera),
Hai cánh (Diptera), Cánh rộng (Megaloptera), Cánh vảy (Lepidoptera).
Nghiên cứu về Phù du (Ephemeroptera)
Bộ Phù du là côn trùng có cánh cổ sinh tương đối nguyên thủy, thậm chí còn
được xem như một trong những tổ tiên của côn trùng. Dựa vào những bằng chứng
hóa thạch, chúng có thể đã phát sinh vào giai đoạn cuối của kỷ Cacbon và đầu kỷ
Pecmơ trong đại Cổ sinh, cách đây khoảng 290 triệu năm [10]. Các loài thuộc bộ
Phù du được mô tả từ rất sớm. Công trình nghiên cứu đầu tiên về phân loại học Phù
du là của nhà tự nhiên học nổi tiếng Lineaus (1758). Ông đã mô tả 6 loài Phù du tìm
thấy ở châu Âu và xếp chúng vào một nhóm là Ephemera [27].
Nghiên cứu về Phù du thực sự phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XX, điển hình là
các công trình nghiên cứu của Ulmer (1920, 1924, 1925, 1932, 1933), Navás (1920,
1930), Lestage (1921, 1924, 1927, 1930), Needham và cộng sự (1935) [8].
Cho đến nay trên toàn thế giới đã có hơn 3000 loài được mô tả thuộc 42 họ và
hơn 400 giống của bộ Phù du. Các nghiên cứu về Phù du, đặc biệt là phân loại học
vẫn đang phát triển, vẫn còn nhiều loài chưa được mô tả, nhất là ở các khu vực nhiệt
đới [16].
Đối với khu vực châu Á, những nghiên cứu đầu tiên về Phù du được thực hiện
bởi các nhà côn trùng học đến từ châu Âu như: Navás (1922, 1925), Lestage (1921,
1924) [29].
Gần đây, các công trình nghiên cứu đề cập đến khả năng sử dụng Phù du là
sinh vật chỉ thị chất lượng môi trường nước vì nhiều loài thuộc bộ Phù du rất nhạy
cảm với sự biến đổi của môi trường như một số công trình của Landa và Soldan
(1991,1988) [17], Bufagni (1997) [29].
Nghiên cứu về Chuồn chuồn (Odonata)
Chuồn chuồn thuộc nhóm côn trùng ăn thịt ngay từ giai đoạn thiếu trùng sống
trong nước cho đến giai đoạn trưởng thành. Vòng đời của chúng trải qua 3 giai



đoạn: trứng, thiếu trùng, con trưởng thành. Thiếu trùng thường sống trong nước,
chủ yếu ở vùng nhiệt đới hoặc vùng khí hậu ấm, con trưởng thành sống trên cạn. Bộ
Chuồn chuồn được chia thành 3 phân bộ là: phân bộ Anisozygoptera, phân bộ
Zygoptera (Chuồn chuồn kim) và phân bộ Anisoptera (Chuồn chuồn ngô). Phân bộ
Anisozygoptera chỉ có 1 giống là Epiophlebia, giống này có một số loài chỉ phân bố
ở độ cao khoảng 2.000m ở những con suối thuộc Nhật Bản và vùng núi cao
Himalaya (Tani & Miyatake, 1979; Kumar & Khanna, 1983). Hai phân bộ còn lại
phân bố rộng cả ở nơi nước đứng cũng như nước chảy với số lượng loài vô cùng
phong phú [25].
Ngoài các công trình nghiên cứu về phân loại học còn có những công trình
nghiên cứu về Sinh học, Sinh thái học và Tập tính sinh học của Corbet (1999),
Silsby (2001) [5]. Các công trình nghiên cứu này chủ yếu dựa vào giai đoạn trưởng
thành. Đối với giai đoạn thiếu trùng, Ishida & Ishida (1985) đã xây dựng khóa định
loại có kèm theo hình vẽ rõ ràng tới giống ở vùng châu Á [1].
Nghiên cứu về Cánh úp (Plecoptera)
Hiện nay, trên thế giới bộ Cánh úp được biết khoảng 2.000 loài và là một trong
những nhóm côn trùng có các đặc điểm nguyên thủy với nhóm có cánh hiện nay.
Hóa thạch của chúng được tìm thấy đầu tiên thuộc kỷ Pecmi, nó có những đặc điểm
khác biệt với Cánh úp hiện đại về số đốt bàn và cánh ở phần ngực (Hynes, 1976)
[18].
Để nhận dạng bộ Cánh úp, người ta dựa vào một số đặc điểm: chúng có 3 đốt
bàn nhưng chân sau không biến đổi để thích hợp theo kiểu nhảy như một số loài
thuộc bộ Cánh thẳng (như dế và châu chấu). Chúng có ăng ten dài dạng chỉ, tơ đuôi
khá dài đặc biệt là các thiếu trùng ở nước. Hầu hết, cánh của các loài thuộc bộ Cánh
úp rất phát triển nhưng đôi khi lại ngắn. Các đặc điểm đó dùng để phân biệt chúng
với bộ Cánh màng. Ấu trùng bộ Cánh úp trải qua thời gian dài sống ở nước. Các
thiếu trùng Cánh úp giống con trưởng thành ở nhiều đặc điểm. Thiếu trùng luôn có
tơ đuôi dài và không bao giờ có tơ đuôi ở giữa. Mang nếu có, chỉ tìm thấy ở phần

ngực và phần bụng được tạo thành giữa các tơ đuôi. Thiếu trùng sống chủ yếu ở
nước, có một vài loài sống trong đất ẩm (Harpers và Stewart, 1996) [18].


Morse, Yang Lianfang & Tian Lixin (1994); Merritt & Cummins (1996) khi
nghiên cứu khu hệ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ, các tác giả đã xây dựng khóa
định loại tới giống thiếu trùng của bộ này, đó là cơ sở cho việc định loại các loài
thuộc bộ Cánh úp ở Trung Quốc và Bắc Mỹ sau này [25].
Nghiên cứu về Cánh lông (Trichoptera)
Cánh lông là một trong những bộ có số lượng loài phong phú. Những nghiên
cứu về hệ thống phân loại bậc cao của bộ Cánh lông được thực hiện bởi Ross (1956,
1967) và sau đó tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện bởi Morse (1997) [21].
Bộ Cánh lông được nghiên cứu ở Đông Nam Á từ rất sớm bởi Ulmer (1911,
1915, 1925, 1927, 1930, 1932) và Navás (1913, 1917, 1922, 1930, 1932), đặc biệt
là Ulmer khi nghiên cứu khu hệ động vật ở Indonesia (1951, 1955, 1957). Ông đã
cung cấp những thông tin cơ bản về Cánh lông ở khu vực nghiên cứu này. Cánh
lông ở Borneo đã được nghiên cứu khá tỷ mỉ lần đầu bởi Kimmins (1955). Ở
Philippin, Banks (1937) là người đầu tiên nghiên cứu khu hệ Cánh lông ở khu vực
này. Tiếp đến là Ulmer (1955, 1957) nghiên cứu dựa vào giai đoạn ấu trùng. Trong
khi đó các hướng nghiên cứu khác lại dựa vào giai đoạn trưởng thành. Đặc biệt
trong giai đoạn gần đây việc nghiên cứu dựa vào giai đoạn trưởng thành lại càng
được quan tâm như: Kimmis (1953), Banard (1980, 1984), Oláh (1987-1989),
Chantaramongkol (1986, 1989, 1995), Malicky (1970, 1979, 1987, 1989, 1992 1998, 2002-2004), Malicky và Chantaramongkol (1989, 1991 - 1994, 1996 - 2000),
Mey (1989, 1990, 1995 - 1999, 2001 - 2003), Weavers (1985, 1987, 1989, 1992,
1994), Ismail (1993, 1996), Scheffer (2001), Armitage và Arefina (2003), Klaithong
(2003) [21]. Ismail (1993, 1996, 1997) cũng tiến hành nghiên cứu trên ấu trùng
Cánh lông tại một số nước ở khu vực Đông Nam Á [25].
Ngoài các công trình nghiên cứu ở các nước Đông Nam Á, khu hệ Cánh lông
cũng được quan tâm nghiên cứu ở các quốc gia khác như: Ấn Độ, Srilanka được
nghiên cứu bởi Martynov (1935, 1936), Trung Quốc (Martynov, 1931; Wang,

1963), Nhật Bản (Iwata, 1927; Tanida, 1987). Trong giai đoạn hiện nay, hướng
nghiên cứu đánh giá chất lượng nước dựa trên đối tượng là các loài thuộc nhóm côn


trùng này được nhiều nhà khoa học quan tâm tìm hiểu. Do đó, các công trình liên
quan đến giai đoạn ấu trùng xuất hiện ngày càng đồ sộ như nghiên cứu của Wiggins
(1996) [21]. Ở khu vực Bắc Mỹ, Merritt & Cummins. (1996), đã xây dựng khóa
định loại tới giống của bộ Cánh lông ở cả giai đoạn ấu trùng và trưởng thành [24].
Nghiên cứu về Cánh rộng (Megaloptera)
Bộ Cánh rộng được xem là nhóm côn trùng nguyên thủy trong nhóm côn trùng
biến thái hoàn toàn. Hiện nay, bộ Cánh rộng có khoảng 300 loài được biết trên thế
giới và chia thành hai họ là: Corydalidae và Sialidae. Giai đoạn trưởng thành ở cạn
và ăn thịt, thường hoạt động vào ban đêm. Tuy nhiên, giai đoạn ấu trùng lại sống
dưới nước và ăn thịt các loài động vật [25].
Số lượng loài thuộc họ Sialidae rất phong phú ở các thủy vực nước ngọt như:
sông, suối, hồ nơi có nhiều mùn, các mảnh vụn, cát hoặc sỏi nhỏ. Chúng trải qua 5
lần lột xác và sống được khoảng 1 năm trong vòng đời của mình. Ấu trùng rời khỏi
các thủy vực nước ngọt và hóa nhộng. Các loài thuộc họ này lại phân bố rất hẹp. Ở
châu Á, họ này mới chỉ phân bố ở vùng ôn đới thuộc Hàn Quốc, Nhật Bản và một
số nơi ở Trung Quốc (Bank, 1940) [25].
Nghiên cứu về Cánh cứng (Coleoptera)
Bộ Cánh cứng là bộ lớn nhất trong giới Động vật. Hiện nay, số loài thuộc bộ
côn trùng này vào khoảng 277.000 đến 350.000 loài và khoảng 10.000 thuộc nhóm
côn trùng nước [25]. Theo các kết quả nghiên cứu nhóm sống dưới nước được xem
là đa dạng nhất ở khu hệ suối vùng nhiệt đới. Hiện nay, các công trình nghiên cứu
về bộ Cánh cứng tập trung vào phân loại học, sinh thái học, tiến hóa như: các
nghiên cứu của Feng (1932, 1933), Gschwendtner (1932), Fernando (1962, 1969),
Nertrand (1973), Jach (1984). Heinrich & Balke (1997), Gentuli (1995), Jach & Ji
(1995, 1998, 2003) [26] đã cung cấp khá đầy đủ những dẫn liệu về phân loại học
của bộ Cánh cứng ở châu Á.

Wu và cộng sự đã xác định ở Trung Quốc có 601 loài, Sato (1988) đã định
loại được 311 loài ở Nhật Bản, Britton (1970) xác định ở Úc có khoảng 510 loài
và White (1984) đã phân loại được 1.143 loài ở khu vực Bắc Mỹ thuộc bộ Cánh
cứng [25].


Nghiên cứu về Hai cánh (Diptera)
Các nghiên cứu về bộ Hai cánh đã được rất nhiều các nhà khoa học công bố,
đặc biệt là các công trình nghiên cứu của Alexander (1931), Mayer (1934), Zwich
& Hortle (1989) [24]. Đối với khu vực châu Á, Delfinado & Hardy (1973, 1975,
1977) đã tổng hợp một danh lục khá đầy đủ về thành phần loài của bộ Hai cánh ở
miền Ấn Độ - Mã Lai. Khóa định loại tới họ và giống hiện nay chủ yếu thực hiện
theo khóa định loại được xây dựng bởi Harris (1990) [25].
Nghiên cứu về Cánh nửa (Hemiptera)
Hiện nay, trên thế giới đã xác định được trên 4.000 loài thuộc bộ Cánh nửa
sống ở nước (Dudgeon, 1999). Trong đó, khu vực châu Á có số lượng loài chiếm ưu
thế, đặc biệt có rất nhiều giống đặc hữu, thậm chí có cả những phân họ đặc hữu ở
khu vực này (Andersen, 1982; Spence & Andersen, 1994) [26].
Các công trình nghiên cứu về bộ Cánh nửa ở châu Á được bắt đầu khá sớm
bằng các nghiên cứu của Lundblad (1933), La Rivers (1970), Lansbury (1972,
1973) [25]. Các họ trong bộ này cũng được nghiên cứu khá tỷ mỷ như: Nepidae
được nghiên cứu bởi Keffer (1990), Naucoridae là họ rất đa dạng ở vùng nhiệt đới
châu Á đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như Nieser & Chen (1991,
1992), Sites và cộng sự (1997) [21]. Merritt & Cummins (1996), Morse & cộng sự
(1994) đã xây dựng khóa định loại tới giống của các họ thuộc bộ Cánh nửa ở khu
vực Bắc Mỹ và Trung Quốc [24] [25].
Bộ Cánh nửa bao gồm 3 phân bộ: Gerromorpha, Nepomorpha và
Leptopodomorpha. Phân bộ Gerromorpha gồm hầu hết những cơ thể côn trùng sống
trên bề mặt của nước. Trong phân bộ này, có hai họ lớn là Velliidae (trên thế giới có
khoảng 850 loài) và họ Gerridae (khoảng 700 loài) (Chen và cộng sự, 2005). Theo

Bendell (1988), Damgaard & Andersen (1996) các loài trong họ Gerridae được xem
như những sinh vật chỉ thị cho chất lượng môi trường nước [24].
Nghiên cứu về Cánh vảy (Lepidoptera)
Trong bộ Cánh vảy chỉ có một số loài thuộc họ Pyralidae, Pyraustidae và
Crambidae sống ở nước. Ở châu Á, các nghiên cứu về Lepidoptera chủ yếu là về


phân loại học trong đó có các nghiên cứu của Rose & Pajni (1987), Habeck & Solis
(1994) và Munroe (1995) [24]. Trong các nghiên cứu này, các tác giả cũng đã thành
lập khóa định loại cụ thể tới loài.

1.2. Tình hình nghiên cứu côn trùng nước ở Việt Nam
Nghiên cứu về Phù du (Ephemeroptera)
Ở Việt Nam, trong những năm đầu của thế kỷ 20, các mô tả về
Ephemeroptera cũng được đề cập và quan tâm nghiên cứu. Mở đầu cho những
nghiên cứu về Ephemeroptera ở Việt Nam, nhà côn trùng học Lestage (1921, 1924),
đã mô tả một loài mới của bộ Phù du cho khoa học, dựa vào mẫu vật được lưu giữ ở
bảo tàng Paris. Ông đặt tên loài là Ephemera duporti, do các loài thuộc giống
Ephemera có kích thước lớn, phân bố khá rộng và dễ thu thập nên nó được tiếp tục
nghiên cứu ở giai đoạn này. Sau đó, Navas (1922, 1925) đã công bố hai loài
Ephemera longiventris và Ephemera innotata, cũng dựa trên các mẫu vật thu được
ở miền Bắc Việt Nam. Cho đến nay, hai loài này cũng chưa tìm thấy ở các khu vực
phân bố khác, nên có thể xem chúng như là loài đặc hữu cho khu hệ Ephemeroptera
ở Việt Nam.
Đặng Ngọc Thanh (1967), cũng đã đề cập đến thành phần loài của Phù du
(Ephemeroptera), tác giả đã mô tả một loài mới thuộc họ Heptageniidae. Đặng
Ngọc Thanh (1980), xác định khu hệ Phù du ở Bắc Việt Nam bao gồm 54 loài, 29
giống thuộc 13 họ khác nhau. Tuy nhiên trong số này chỉ có 13 loài là được định tên
đầy đủ, số còn lại chỉ ở mức độ giống. Trong nghiên cứu này đã mô tả hai loài cho
khoa học đó là Thalerosphyrus vietnamensis Dang và Neopheieridae cuaraoensis

Dang [7].
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khoá định loại các
nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã đưa ra
khoá định loại tới họ ấu trùng Phù du [6].
Nguyen Van Vinh and Yeon Jae Bae (2001, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007,
2008) ở một số Vườn Quốc gia của Việt Nam. Những nghiên cứu này, đã công bố
hàng loạt các kết quả về các loài Ephemeroptera ở Việt Nam, và đã bổ sung danh


sách thành phần loài, mô tả các loài mới, cũng như xây dựng các khóa định loại tới
loài [27] [28] [30] [31] [32] [33] [34].
Nguyễn Văn Vịnh (2003), đã xác định được 102 loài thuộc 50 giống và 14
họ Phù du ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này, tác giả đã xây dựng khóa định loại
và mô tả đặc điểm hình dạng ngoài của các loài thuộc bộ Phù du ở Việt Nam,
nghiên cứu này là cơ sở để phục vụ cho các hướng nghiên cứu tiếp theo về bộ Phù
du ở nước ta [28].
Nguyễn Văn Vịnh (2004), khi nghiên cứu về Phù du ở Vườn Quốc gia Tam
Đảo đã xác định được 32 loài thuộc 24 giống và 8 họ. Trong đó, có 10 loài lần đầu
tiên ghi nhận cho Vườn Quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc, đó là: Platybaetis edmundsi
Muller - Liebenau, 1980; Baetiella trispinata Tong and Dudgeon, 2000; Serratella
albostriata Tong and Dudgeon, 2000; Torleya arenosa Tong and Dudgeon, 2000;
Cincticostella boja Allen, 1975; Ephemera serica Eaton, 1871; Choroterpes
trifrucata Ulmer, 1939; Habrophlebiodes prominens Ulmer, 1939; Caenis
cornigera Kang and Yang, 1994; Isonychia formosana Ulmer, 1912 [9]. Ngoài việc
phân loại các loài thuộc bộ côn trùng này, tác giả còn nhận xét về sự phân bố của
chúng theo độ cao của suối Thác Bạc.
Nguyễn Văn Vịnh (2005), khi nghiên cứu về Phù du ở Vườn Quốc gia Ba
Vì, Hà Tây đã thu được 27 loài thuộc 22 giống và 9 họ. Trong đó có một loài ghi
nhận lần đầu tiên cho khu vực là Teloganodes tristis (Hagen, 1858) [10]. Trong
khoảng thời gian này, tác giả cũng tiến hành điều tra thành phần loài Phù du ở một

số Vườn Quốc gia khác ở Việt Nam [11] [12].
Tăng Thị Thu (2016), nghiên cứu đa dạng sinh học bộ phù du ở Á Đai 300600m tại vườn quôc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai đã thu được 65 loài 34 giống
thuộc 8 họ của bộ Phù du. [14]
Nghiên cứu về Chuồn chuồn (Odonata)
Nghiên cứu về khu hệ thiếu trùng Chuồn chuồn ở Việt Nam còn tản mạn và
chưa thành hệ thống. Chủ yếu các nghiên cứu tập trung vào giai đoạn trưởng thành.
Bộ Chuồn chuồn ở Việt Nam được nghiên cứu lần đầu tiên vào những năm đầu thập


niên 90 của thế kỷ XX dưới thời Pháp thuộc bởi một số nhà nghiên cứu người Pháp:
Martin trong báo cáo được công bố năm 1902 khi điều tra khu hệ động vật Đông
Dương. Trong báo cáo này, ông công bố 139 loài thuộc 3 họ: Libellulidae,
Aeshnidae và Agrionidae. Trong 139 loài, Martin đã mô tả 9 loài mới và một giống
mới là Merogomphus [1].
Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001), khi xây dựng khóa định loại các
nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam đã xây dựng
khóa định loại tới họ của bộ Chuồn chuồn [6].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001), trong nghiên cứu khu hệ côn trùng
nước ở Vườn Quốc gia Tam Đảo đã xác định được 26 loài thuộc 12 họ của bộ
Chuồn chuồn ở khu vực này. Tuy nhiên, do những nghiên cứu về phân loại thiếu
trùng chuồn chuồn ở Việt Nam còn ít. Do đó, những mẫu vật thu được mới chỉ phân
loại đến bậc giống [3].
Hoàng Đình Trung (2012), Nghiên cứu thành phần loài, phân bố và vai trò
chỉ thị môi trường của ba bộ côn trùng ở nước (Bộ Phù du, Bộ Cánh úp và Bộ Cánh
lông) vùng Bạch Mã - Hải Vân [8].
Đỗ Mạnh Cương (2004), Nghiên cứu Đa dạng sinh học khu hệ Odonata khu
vực Mã Đà, Cát Tiên - Tỉnh Đồng Nai [2].
Nguyễn Văn Hiếu, Nghiên cứu đa dạng sinh học côn trùng nước ở Vườn
Quốc gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc thu được 135 loài của 123 giống thuộc 56 họ
của 9 bộ côn trùng nước [3].

Nguyễn Xuân Quýnh (1995), Nghi n cứu về động vật hông ương sống
trong các thủy vực c nước th i vùng Hà Nội [15]
Nghiên cứu về Cánh úp (Plecoptera)
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về bộ Cánh úp đã được quan tâm nghiên cứu
trong thơi gian gần đây. Một vài loài đã được mô tả bởi Kawai (1968, 1969), Zwick
(1988), Stark và cộng sự (1999) [22], nhưng tất cả các mẫu vật đều ở giai đoạn
trưởng thành. Mục đích của những nghiên cứu là nhằm xác định lại và mô tả một số
loài mới thuộc bộ Cánh úp dựa trên những nghiên cứu trước đó và những điều tra về


sau của cả giai đoạn trưởng thành và ấu trùng được thu thập ở Việt Nam. Thêm vào
đó là việc xác định khóa định loại tới loài của bộ Cánh úp ở cả giai đoạn trưởng
thành và ấu trùng ở Việt Nam cũng như sinh thái, nơi ở của chúng. Cao Thị Kim
Thu (2002), đã xây dựng khóa định loại tới loài Cánh úp ở Việt Nam. Công trình là
cơ sở khoa học cho các nghiên cứu về bộ Cánh úp ở nước ta [18].
Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001), khi nghiên cứu về nhóm côn trùng
nước ở Vườn Quốc gia Tam Đảo đã tiến định loại các loài thuộc bộ Cánh úp. Kết
quả cho thấy số loài Cánh úp ở Vườn Quốc gia Tam Đảo là 12 loài thuộc 3 họ [9].
Nghiên cứu về Cánh lông (Trichoptera)
Ở Việt Nam, bộ Cánh lông được nghiên cứu từ rất sớm. Những tài liệu về
Cánh lông đã được xuất bản bởi các nhà phân loại học đến từ các nước châu Âu
như: Đức (Ulmer, 1907), Tây Ban Nha (Navás, 1913). Sau những nghiên cứu đầu
tiên của Ulmer về 2 loài Hydromanicus buenningi và Paraphlegopteryx tonkinensis,
ông đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu về Cánh lông ở Việt Nam. Tiếp theo,
Navás (1913, 1917, 1921, 1922, 1930, 1932, 1933) đã mô tả một số loài thuộc các
tổng họ của Hydropsychoidae, Philopotamoidae (Stenopsychidae), Leptoceroidae,
Limnephiloidae và Rhyacophiloidae. Banks (1931) và Mosely (1934) [16] nghiên
cứu về Hydropsychoidae, Limnephiloidae và Rhyacopphiloidae. Oláh (1987 - 1989)
mô tả các loài thuộc Glossosomatoidae, Hydroptiloidae và Rhyacophiloidae [21].
May (1995-1998) và Malicky (1994, 1995, 1998), mô tả các loài thuộc các

họ Hydropsychoidae, Glossosomatoidae, Rhyacopphiloidae, Phiolopotamoidae,
Limnephiloidae, Hydroptiloidae, Sericostomatoidae và Leptoceroidae từ các mẫu
vật thu được ở một số vùng của Việt Nam. Malicky và Mey (2001), mô tả 2 loài
mới thuộc giống Ceratopsyche ở miền Bắc Việt Nam. Schefter và Johanson (2001),
mô tả 3 loài thuộc giống Helicopsyche. Nguyễn Văn Vịnh và cộng sự (2001) định
loại được 23 loài thuộc 16 họ của bộ Cánh lông ở Vườn Quốc gia Tam Đảo khi
nghiên cứu về nhóm côn trùng nước tại khu vực này [3].
Nguyễn Xuân Quýnh, Clive Pinder, Steve Tilling (2001), đã xây dựng khóa
định loại tới họ của bộ Cánh lông thường gặp ở nước ta. Hoàng Đức Huy (2005) mô


tả đặc điểm hình dạng, cấu tạo ngoài của các loài Cánh lông ở Việt Nam dựa vào
giai đoạn ấu trùng [6] [21].
Nghiên cứu về Cánh cứng, Hai cánh, Cánh nửa, Cánh vảy và Cánh rộng
Ở nước ta, các công trình nghiên cứu về bộ Cánh cứng (Coleoptera), Hai
cánh (Diptera), bộ Cánh vảy (Lepidoptera) và bộ Cánh rộng (Megaloptera) còn tản
mạn. Các nghiên cứu thường không tập trung vào một bộ cụ thể mà thường đi cùng
với các công trình nghiên cứu về khu hệ côn trùng nước nói chung như: Nguyễn
Văn Vịnh (2001) nghiên cứu ở Vườn Quốc gia Tam Đảo [27]; Cao Thị Kim Thu,
Nguyễn Văn Vịnh và Yeon Jae Bae (2008) nghiên cứu ở Vườn Quốc gia Bạch Mã
[19] [20], Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001) khi định loại các nhóm động vật
không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam [6].
Những nghiên cứu đầu tiên về khu hệ Cánh nửa ở Việt Nam được bắt đầu
vào những năm đầu của thế kỷ XX. Loài đầu tiên thuộc họ Gerridae (Hemiptera)
được mô tả ở Việt Nam là Ptilomera hylactor Breddin, 1903 thuộc Bắc Việt Nam.
Tiếp theo, khu hệ Gerridae ở Việt Nam tiếp tục được mô tả bởi Andersen (1975,
1980, 1993); Andersen & Cheng (2004); Polhemus (2001); Chen & Zettel (1999),
Polhemus & Andersen (1994); Polhemus & Karunaratne (1993) [35].
Trần Anh Đức (2008), mô tả khá đầy đủ và chi tiết hình dạng ngoài của các
loài thuộc họ Gerridae ở Việt Nam. Đây là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu về bộ

Cánh nửa ở nước ta [35].


CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu đa dạng côn trùng nước tại Trạm Tôn – Núi Xẻ thuộc vườn
Quốc gia Hoàng Liên tỉnh Lào Cai
2.2 Thời gian nghiên cứu
Thời gian tiến hành nghiên cứu được thực hiện từ tháng 12/2016 đến tháng
04/2018. Mẫu vật sử dụng trong nghiên cứu được thu thập ngoài thực địa từ ngày
06/01/2017 đến ngày 15/01/2017.
Toàn bộ mẫu vật thu ngoài tự nhiên được bảo quản và lưu trữ tại phòng thí
nghiệm Động vật học, Khoa Sinh - Kỹ thuật nông nghiệp, Trường Đại học sư phạm
Hà Nội 2.
2.3. Địa điểm nghiên cứu
Bảng 2.3. Một số đặc điểm sinh cảnh ở khu vực Trạm Tôn – Núi Xẻ thuộc
vườn quốc gia Hoàng Liên tỉnh Lào Cai

hiệu

Điểm Thu Mẫu

Độ cao

Tọa độ

(m)

Đặc điểm Sinh Cảnh
Chiều rộng của suối khá

lớn 6-7 (m). Nước chảy
khá mạnh, lá mục, có thể

S1

Suối
(Xã
SanVàng
Sả Hồ)

0

sâu 50cm. Độ che phủ cao



N: 22 020.854 ’
E: 103 46.171

1895m

10 – 80%, hai bên bờ là
cây bụi cây gỗ nhỏ (>30).
Nền đáy đá hỗn hợp chủ
yếu là Sỏi nhỏ, đá tảng nhỏ
(r≈ 60cm)

S2

0


N: 22 20.966

(Xã San Sả Hồ)

E: 103 46.274

0

Chiều rộng của suối lớn 5



Suối Vàng



1889 m

(m). Nước chảy khá mạnh,
nhiều lá mục, có thể sâu


50cm. Độ che phủ cao 60 –
95%, hai bên bờ là cây tre
bụi cây gỗ nhỏ . Nước
chảy mạnh nền đáy đá tảng
lớn ít sỏi nhỏ, đá tảng nhỏ
Độ rộng suối nhỏ 3-4 (m).
Nước chảy vừa, nhiều lá

mục
S3

0



Suối Vàng

N: 22 20.908

(Xã San Sả Hồ)

E: 103 46.179’

0

1886 m

Nền đáy chủ yếu là sỏi nhỏ
Hai bên bờ là Cây gỗ
(>50%), cây bụi, tre. Xung
quanh là đường mòn, cạnh
trail du lịch

2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Phương pháp thu mẫu ngoài tự nhiên
Thu mẫu ngoài tự nhiên được tiến hành theo phương pháp của Merritt
Cummins (1996)[24], Morse và cộng sự [25] (1994), Nguyen (2003)[29].
Quá trình thu mẫu định tính bằng vợt ao (Pond net) và vợt cầm tay (Hand

net). Thu mẫu định tính bằng cách sử dụng lưới Surber Sample với 5 lần tại một
2

điểm nghiên cứu (diện tích thu mẫu là 0,1m ; kích thước mắt lưới 250µm). Tiến
hành thu mẫu bằng cách: đặt miệng vợt ngược dòng nước, dùng chân đạp phía trước
vợt trong vòng vài phút (thu mẫu đạp nước). Ở nơi có nhiều bụi cây dùng vợt tay để
thu mẫu. Ở những nơi đáy có đá lớn không thu mẫu đạp nước được thì nhấc đá và
thu mẫu bám ở dưới bằng panh mềm để tránh làm nát mẫu.
Đối với mẫu định lượng, sử dụng lưới Surber lấy 5 mẫu: diện tích thu mẫu
2

tại mỗi lần thu là 0,1m . Như vậy tổng diện tích thu mẫu định lượng tại mỗi điểm là
2

0,5m . Mẫu sau khi thu được loại bỏ rác, làm sạch bùn đất. Do các cá thể côn trùng
nước có cơ thể mềm, dễ nát nên thu mẫu phải nhẹ nhàng và nhặt qua mẫu ngay tại
0

thực địa. Mẫu thu ngoài thực địa được bảo quản trong cồn 80 , ghi etiket đầy đủ và


đem về lưu trữ, bảo quản, phân tích và định loại tại Phòng thí nghiệm Động vật,
Khoa Sinh - Kỹ thuật nông nghiệp, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
2.4.2 Phương pháp phân tích mẫu trong thí nghiệm
Phương pháp nhặt mẫu: mẫu được rửa sạch cho ra khay thêm ít nước. Dùng
panh nhặt hết các ấu trùng và thiếu trùng côn trùng nước cần nghiên cứu cho vào lọ
0

và bảo quản trong cồn 80 .
Phương pháp phân tích:

Dụng cụ phân tích gồm: kính hiển vi, kính lúp, đĩa Petri, lam kính, lamen,
kim nhọn, panh…
Phân loại mẫu vật: mẫu vật được phân loại theo các khóa định loại được
công bố trong và ngoài nước của Nguyễn Văn Vịnh (2003)[29], Cao Thị Kim Thu
(2002)[18], Hoàng Đức Huy (2005)[21], Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự
(2001)[6], Meritt và Cummins (1996)[24], Morse, Yang Tian (1994)[25]
2.4.3 Một số chỉ số đa dạng sinh học
Chỉ số Đa dạng sinh học (ĐDSH) được sử dụng trong đề tài là: chỉ số
Shannon - Weiner (chỉ số H’)
Chỉ số Shannon - Weiner (chỉ số H’) nhằm xác định lượng thông tin hay
tổng lượng trật tự (hay bất trật tự) có trong một hệ thống. Chỉ số Shannon - Weiner
được tính bằng cách lấy số lượng cá thể của một đơn vị phân loại chia cho tổng số
cá thể trong mẫu, sau đó nhân với logarit của tỷ số đó. Tổng các đơn vị phân loại
cho chỉ số đa dạng. Công thức để tính chỉ số này là:
s

H' =- n i log2 n i
i =1 N
N
Với:
H’: chỉ số đa dạng loài
s: số lượng loài
N: số lượng cá thể trong toàn bộ mẫu
ni: số lượng cá thể của loài


Hai thành phần của sự đa dạng được kết hợp trong hàm Shannon - Weiner là
số lượng loài và tính bình quân của sự phân bố các cá thể giữa các loài. Do vậy, số
lượng loài càng cao thì chỉ số H’ càng lớn và sự phân bố các cá thể giữa các loài
càng ngang bằng nhau thì cũng gia tăng chỉ số đa dạng loài được xác định thông

qua hàm số Shannon - Weiner.
Từ kết quả tính toán, có thể nhận xét về mức độ đa dạng theo các cấp sau
đây: [1]
Nếu chỉ số đa dạng > 3: ĐDSH tốt và rất tốt
Nếu chỉ số đa dạng từ 1 - 3: ĐDSH khá
Nếu chỉ số đa dạng < 1: ĐDSH kém và rất kém
Chỉ số loài ưu thế

Trong đó:

n1 
DI 
n2
N

n1: số lượng cá thể của loài ưu thế thứ nhất
n2: số lượng cá thể của loài ưu thế thứ hai
N: tổng số cá thể trong điểm thu mẫu
Chỉ số tương đồng (chỉ số Jacca - Sorensen) được chúng tôi sử dụng để
đánh giá mức độ giống nhau về thành phần loài của các điểm nghiên cứu. Chỉ số
này được tính theo công thức:
K

Trong đó:

2c
ab

a: số loài trong điểm thu mẫu thứ nhất
b: số loài trong điểm thu mẫu thứ hai

c: số loài chung cho cả hai điểm thu mẫu

K nhận giá trị từ 0 đến 1. Giá trị K càng gần 1 thì mức độ giống nhau về
thành phần loài của các điểm nghiên cứu càng lớn. Các giá trị của K tương ứng với
mức tương đồng như sau:
0,00 - 0,20: gần nhau rất ít


×