Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Khoá luận tốt nghiệp yếu tố kì ảo trong tập chuyện cũ viết lại của lỗ tấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1020.53 KB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

VÀNG THỊ LAN

YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG
TẬP CHUYỆN CŨ VIẾT LẠI
CỦA LỖ TẤN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

HÀ NỘI, 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

VÀNG THỊ LAN

YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG
TẬP CHUYỆN CŨ VIẾT LẠI
CỦA LỖ TẤN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Người hướng dẫn khoa học

ThS. BÙI THÙY LINH



HÀ NỘI, 2019


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời biết ơn sâu sắc tới cô giáo ThS. Bùi Thùy Linh người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, em trong quá trình học tập, nghiên cứu
và cho em những lời khuyên bổ ích để em hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Ngữ văn trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2, tổ bộ môn Văn học nước ngoài, thư viện trường ĐHSP Hà
Nội 2 đã tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập, tìm hiểu và nghiên
cứu đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ em
trong quá trình thực hiện đề tài.
Do thời gian nghiên cứu đề tài và kinh nghiệm của bản thân còn có hạn
nên không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận
được những ý kiến, góp ý của các thầy cô và các bạn để khóa luận này được
hoàn chỉnh hơn.
Hà Nội, ngày 06 tháng 05 năm 2019.
Sinh viên thực hiện

Vàng Thị Lan


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài: Yếu tố kì ảo trong tập Chuyện cũ viết lại của
Lỗ Tấn là công trình nghiên cứu khoa học do chính tôi thực hiện, dưới sự
hướng dẫn của ThS. Giảng viên Bùi Thùy Linh, kết quả nghiên cứu không
trùng lặp với kết quả của các nhà nghiên cứu khác.


Hà Nội, ngày 06 tháng 05 năm 2019
Sinh viên thực hiện

Vàng Thị Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 3
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 4
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát .............................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 4
6. Bố cục khóa luận ......................................................................................... 5
NỘI DUNG....................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: .................................................................................................... 6
BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG TẬP ...................................... 6
CHUYỆN CŨ VIẾT LẠI CỦA LỖ TẤN ....................................................... 6
1.1. Yếu tố kì ảo trong văn học....................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm yếu tố kì ảo ........................................................................... 6
1.1.2.Yếu tố kì ảo trong văn học Trung Quốc ................................................. 9
1.2. Yếu tố kì ảo trong tập Chuyện cũ viết lại ............................................. 11
1.2.1. Cốt truyện kì ảo trong tập Chuyện cũ viết lại ..................................... 14
1.2.2. Nhân vật kì ảo trong tập Chuyện cũ viết lại ....................................... 19
1.2.3. Không gian kì ảo trong tập Chuyện cũ viết lại ................................... 23
1.2.4.Thời gian kì ảo trong tập Chuyện cĩ viết lại ........................................ 25
1.3. Tiểu kết .................................................................................................... 27
CHƯƠNG 2: .................................................................................................. 28
PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG YẾU TỐ KÌ ẢO ...................................... 28
TRONG TẬP CHUYỆN CŨ VIẾT LẠI. ...................................................... 28



2.1. Vay mượn cốt truyện thần thoại, cố tích ............................................. 28
2.2. Sử dụng những chi tiết hoang đường, kì ảo......................................... 31
2.3. Huyền thoại hóa nhân vật ..................................................................... 35
2.3.1. Đời thường hóa và tầm thường hóa nhân vật huyền thoại ............... 35
2.3.2. Huyền thoại hóa nhân vật đời thường ................................................ 38
2.4. Tiểu kết .................................................................................................... 41
KẾT LUẬN .................................................................................................... 42


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trung Quốc là một cường quốc lớn – cái nôi của văn minh nhân loại.
Nhắc đến Trung Quốc người ta nhớ đến một đất nước có bề dày lịch sử hàng
nghìn năm. Ngoài ra, nhắc đến Trung Quốc chúng ta không thể không nhắc
đến những thành tựu về văn học. Văn học Trung Quốc là một nền văn học
được hình thành và phát triển rất sớm gắn liền với tiến trình lịch sử dân tộc.
Ngay từ trước Công Nguyên văn học Trung Quốc đã có những thành tựu rực
rỡ đánh dấu sự phát triển của văn học như cổ tích, thần thoại, kinh thi, văn
xuôi triết học, Sở từ... Sang thời trung đại đỉnh cao văn học gắn với thơ
Đường, tiểu thuyết Minh Thanh. Đến thời kì hiện đại, văn học Trung Quốc
càng chứng minh được giá trị lớn mạnh của mình và càng khẳng định được cả
số lượng và chất lượng. Một trong những tác giả tiêu biểu thời kì này phải kể
đến Lỗ Tấn.
Lỗ Tấn là nhà văn vĩ đại của Trung Quốc nói riêng và của cả thế giới
nói chung. Ông được xem là bậc thầy của dòng văn học hiện thực chủ nghĩa
thế kỉ XX. Xã hội đương thời và các thế hệ sau đều phải công nhận rằng Lỗ
Tấn là một “thầy thuốc văn chương”, nhà văn cách mạng. Ông là một nhà
văn, nhà chính trị hoạt động cách mạng - người chiến sĩ cộng sản đầu tiên

của Trung Quốc thời kì “Phong trào Ngũ Tứ”. Lỗ Tấn không chỉ là một trong
những lá cờ đầu dẫn đường và truyền bá Chủ nghĩa Mác Lê-nin vào Trung
Quốc mà ông còn là một nhà văn kiệt xuất lãnh đạo nhân dân Trung Quốc cả
về mặt tư tưởng và trên thực tế mặt trận.
Sự nghiệp văn chương của ông không chỉ nhằm mục đích cổ vũ tinh
thần đấu tranh của nhân dân Trung Quốc thời kì đó mà đến nay các tác phẩm
của ông vẫn mang giá trị giáo dục sâu sắc.
Lỗ Tấn là tên tuổi vĩ đại của văn học Trung Quốc thế kỉ XX, ông là một
trong số những tác giả truyện ngắn trên thế giới có tài hấp dẫn độc giả bao thế
hệ. Cuộc đời ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng Trung Quốc. Chính vì
vậy, bao trùm lên sáng tác của Lỗ Tấn là lòng yêu thương con người và phản
1


ánh cách mạng Trung Quốc một cách sâu sắc nhất, rõ nét nhất. Trong sự
nghiệp của mình, ông đã sáng tác ở rất nhiều thể loại, một trong những thành
tựu tiêu biểu và thành công phải kể đến truyện ngắn. Lỗ Tấn có 3 tập truyện
ngắn là Gào thét (1923), Bàng hoàng (1925), và tập Chuyện cũ viết lại
(1935). Các tác phẩm của ông mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Trong các tác phẩm truyện ngắn của Lỗ Tấn thì tập Chuyện cũ viết lại
là tập truyện có nội dung khá quen thuộc với người đọc. Vì “viết lại là một
loại hình sáng tác – một phương thức cải biến các tác phẩm văn học đã có từ
trước” [5]. Lỗ Tấn đã sử dụng những cốt truyện thần thoại, cổ tích, lịch sử
Trung Quốc cổ đại. Trong quá trình làm mới làm các câu chuyện xưa, “Lỗ
Tấn đặc biệt quan tâm đến trạng thái sinh tồn của con người, đến nỗi cô đơn
và tuyệt vọng của con người trong cuộc sống, từ đó tiến hành phản tư đối với
văn hóa truyền thống Trung Quốc” [5]. Chuyện cũ viết lại là một hiện tượng
khá được dùng phổ biến và dần trở thành một phương thức sáng tác trong lịch
sử văn học Trung Quốc thế kỉ XX.
Trong tập Chuyện cũ viết lại của Lỗ Tấn nổi bật lên là việc sử dụng các

yếu tố kì ảo. Chính yếu tố kì ảo đã làm nên sự thành công và hấp dẫn của tác
phẩm. Đi vào khai thác yếu tố kì ảo giúp chúng ta khám phá tư tưởng mà nhà
văn gửi gắm trong tác phẩm cũng như làm nổi bật những đóng góp của tác giả
với văn học dân tộc.
Việc lựa chọn đề tài: Yếu tố kì ảo trong tập Chuyện cũ viết lại của Lỗ
Tấn còn mang ý nghĩa sư phạm và ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Ở Việt Nam,
Lỗ Tấn là cái tên rất quen thuộc, gần gũi với học sinh – sinh viên và các độc
giả. Trong quá trình học tập ở bậc phổ thông và lên bậc đại học chúng tôi có
nhiều cơ hội để tìm hiểu, nghiên cứu kĩ hơn về Lỗ Tấn. Đây chính là cơ hội giúp
người viết hiểu rõ hơn về tác giả và có nhiều kiến thức để nghiên cứu và hoàn
thành khóa luận này dễ dàng hơn.
Nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa và cần thiết với những sinh viên
chuyên ngành Sư phạm Ngữ văn như chúng tôi, nó không chỉ giúp người đọc
và người thực hiện đề tài hiểu sâu sắc hơn về tài năng sáng tạo nghệ thuật của

2


nhà văn yêu nước Lỗ Tấn cũng như vị trí của ông trong lịch sử văn học Trung
Quốc và thế giới.
2. Lịch sử vấn đề
Lỗ Tấn là nhà văn hiện thực vĩ đại của Trung Quốc, suốt cuộc đời cầm
bút của mình, ông đã để lại cho dân tộc Trung Hoa nói riêng và nhân loại nói
chung một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú. Lỗ Tấn được xem là nhân vật
khổng lồ của văn hóa Trung Hoa hiện đại. Ở mỗi thể loại, Lỗ Tấn đều thành
công và đạt dấu ấn mạnh mẽ. Do đó, sáng tác của ông đã thu hút được sự chú
ý của các nhà nghiên cứu trong nước cũng như trên thế giới.
Ở Việt Nam, “Lỗ Tấn đến Việt Nam tương đối muộn”. Đây là lời nhận
xét của giáo sư Đặng Thai Mai. Ông cũng là người đầu tiên dịch và nghiên
cứu Lỗ Tấn ở Việt Nam. Về sau sức hấp dẫn của Lỗ Tấn và tác phẩm Lỗ Tấn

càng thu hút được nhiều nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Các nhà nghiên
cứu chú trọng vào cuộc đời, con đường phát triển tư tưởng hay sự nghiệp sáng
tác của nhà văn.
Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
tác giả và sáng tác nhưng đề tài yếu tố kì ảo trong tập Chuyện cũ viết lại chưa
có nhiều nhà nghiên cứu khai thác.
Trong các tác phẩm truyện ngắn của Lỗ Tấn, yếu tố kì ảo được thể hiện
rõ nhất trong tập Chuyện cũ viết lại. Có thể nói, so với hai tập truyện Gào thét
và Bàng hoàng thì Chuyện cũ viết lại là tập ít được các khai thác hơn.
Tập truyện này đã được nghiên cứu ở khía cạnh nhân vật. Liên quan
trực tiếp đến đề tài của chúng tôi phải kể đến công trình Nhân vật huyền thoại
trong Chuyện cũ viết lại của Lỗ Tấn của Nguyễn Thị Mai Chanh. Trong công
trình nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ ra: Nhân vật trong Chuyện cũ viết
lại chủ yếu là những vị thần trong truyền thuyết, thần thoại, cổ tích hay các
nhân vật lịch sử. Vì xuất thân từ các vị thần hay nhân vật anh hùng nên họ
mang trong mình khả năng đặc biệt nào đó mà người thường không có. Tuy
nhiên, nếu đối chiếu với các câu chuyện thần thoại, truyền thuyết thì chúng ta
thấy rằng, các nhân vật trong Chuyện cũ viết lại gần gũi và chân thực với đời
thường hơn. Điều đó cho thấy tài năng nghệ thuật và tư tưởng của Lỗ Tấn.
3


“Có thể thấy, huyền thoại trong Chuyện cũ viết lại không phải là một thế giới
nghệ thuật siêu thoát, tráng lệ. Ở đây, cái kì ảo “sống” cùng cái thực, các nhân
vật huyền thoại có xu hướng “trần tục hóa”. Xu hướng này không chỉ nhằm
tới mục đích “giải thiêng” các anh hùng quá khứ, mà còn thể hiện tinh thần
dân chủ, lối tiếp cận giá trị đời sống một cách “đa nguyên”, “phi quy phạm”.
Nó mở rộng quan niệm về hiện thực, đưa văn học đến gần với nguyên tắc “trò
chơi”” [4].
Như vậy, công trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Mai Chanh mới chỉ

nghiên cứu ở khía cạnh nhân vật. Chúng tôi đã kế thừa các nghiên cứu trước
để làm rõ được yếu tố kì ảo trong tác phẩm chúng ta cần đi sâu vào phân tích
biểu hiện của yếu tố kì ảo thông qua cốt truyện, không gian và thời gian;
phương thức xây dựng yếu tố kì ảo trong tác phẩm như thế nào? Từ đó chúng
ta có thể hiểu rõ hơn vai trò của yếu tố kì ảo đến sự thành công của tác phẩm.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tìm hiểu sâu sắc hơn về yếu
tố kì ảo trong tập Chuyện cũ viết lại của Lỗ Tấn biểu hiện thông qua cốt
truyện, nhân vật, không gian, thời gian và phương thức xây dựng yếu tố kì ảo.
Từ đó, ta thấy được tài năng nghệ thuật của tác giả và có cái nhìn toàn diện
hơn về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong tác phẩm. Ngoài ra, nghiên
cứu đề tài này còn nhằm phục vụ trực tiếp cho công tác giảng dạy sau này.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
Đối tượng nghiên cứu: yếu tố kì ảo trong tập Chuyện cũ viết lại của Lỗ
Tấn.
Phạm vi khảo sát: tập Chuyện cũ viết lại của Lỗ Tấn (Ngô Trần Trung
Nghĩa (dịch), NXB Văn học, 2017).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh văn học: công việc so sánh được tiến hành ở các
tác phẩm khác nhau nhằm nhận ra các nét hấp dẫn riêng ở mỗi loại nhân vật
trong truyện ngắn của Lỗ Tấn và nét riêng ở nhân vật của Lỗ Tấn với các
nhân vật trong Thần thoại, Cổ tích mang điểm gì tương đồng và khác biệt.
4


- Phương pháp phân tích, tổng hợp: đưa ra những căn cứ cụ thể để việc
nghiên cứu có tính thuyết phục.
Những phương pháp nói trên được sử dụng phối hợp với nhau một cách
linh hoạt để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
6. Bố cục khóa luận

Ngoài phần mở đầu và kết luận, cấu trúc khóa luận gồm hai chương
như sau:
Chương 1: Biểu hiện của yếu tố kì ảo trong tập Chuyện cũ viết lại của
Lỗ Tấn.
Chương 2: Phương thức xây dựng yếu tố kì ảo trong tập Chuyện cũ
viết lại của Lỗ Tấn.

5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG TẬP
CHUYỆN CŨ VIẾT LẠI CỦA LỖ TẤN
1.1. Yếu tố kì ảo trong văn học
1.1.1. Khái niệm yếu tố kì ảo
Trong văn học nhân loại, yếu tố kì ảo xuất hiện từ rất sớm. Việc sử
dụng yếu tố kì ảo trong văn học đã trở thành một truyền thống. Chính vì vậy
cũng có rất nhiều các định nghĩa, cách hiểu khác nhau về cái kì ảo (yếu tố kì
ảo). Có thể nói, yếu tố kì ảo với tư cách là một phương thức tư duy, là cái
mạch của văn học truyền thống và trở thành vấn đề nhận được nhiều sự quan
tâm đặc biệt của văn học thế giới nói chung.
Trước hết, về mặt từ nguyên học, yếu tố kì ảo là khái niệm bắt nguồn từ
tiếng Hy Lạp – Fantastike hoặc tiếng Anh là The Fantastic và tiếng Pháp là
Lefantastique có nghĩa là: “nghệ thuật của trí tưởng tượng” và “tạo ra những
hình ảnh về tinh thần”.
Theo Nguyễn Hải Hà: “yếu tố kì ảo trong văn học Nga được gọi bằng
thuật ngữ hoang đường với nghĩa: là cái phi thường, kì ảo, siêu nhiên, phi lí,
không có thực”. Theo ông, có hai cách để có thể vận dụng cái hoang đường
là: “Dùng theo thi pháp cổ tích trong văn học dân gian và dùng cái hoang
đường như một thủ pháp nghệ thuật hỗ trợ. Như một thủ pháp nghệ thuật, cái

hoang đường được vận dụng theo hai cách: cái hoang đường dưới dạng lực
lượng siêu nhiên, huyền bí (thần tiên, ma quỷ, phép lạ mà các nhân vật có,
hoặc nó có thể là yêu quái nhưng chúng có một sức mạnh phi phàm nào đó)
và cái hoang đường dưới dạng vô lí, khó tin, khó hiểu mà lí trí con người
chưa khám phá hết hoặc chưa khám phá được” [8,53].
Trong văn học nói chung, yếu tố kì ảo được các tác giả sử dụng như
một phương tiện nghệ thuật nhằm chuyển tải những nội dung, nội hàm của
khái niệm “kì ảo”. Theo Từ điển tiếng Việt: “kì nghĩa là lạ đến mức làm người
ta phải ngạc nhiên còn ảo có nghĩa là giống như thật, nhưng nó lại không có

6


thật. Như vậy, “kì ảo” chính là kì lạ, tựa như không có thật mà chỉ có trong
tưởng tượng” [13].
Như vậy, từ những quan điểm khái niệm trên, ta có thể thống nhất rằng:
kì ảo là khái niệm để chỉ những cái khác thường, nó không tồn tại và không
có trong thực tế cuộc sống hàng ngày mà chỉ có trong trí tưởng tượng của con
người, nó được dùng để chuyển tải một dụng ý, một nội dung hay một vấn đề
nào đó của tác giả.
Yếu tố kì ảo được dùng trong tác phẩm còn có khả năng chi phối đến
việc tác giả sử dụng, lựa chọn những chi tiết đưa vào tác phẩm, hay cách tổ
chức hệ thống những sự kiện, giúp khắc họa hình tượng nhân vật – làm cho
nhân vật trở nên điển hình hơn. Từ yếu tố kì ảo trực tiếp làm tăng thêm hiệu
quả nghệ thuật cho tác phẩm văn học. Ngoài ra, thông qua việc sử dụng yếu tố
kì ảo, tác giả gửi gắm những quan điểm, tư tưởng, ý kiến, suy nghĩa của mình
về một vấn đề nào đó.
Theo Lê Sĩ Thắng và Hà Thúc Minh: “đằng sau các truyện thần linh,
chính là truyện xã hội, đằng sau các thần thánh ma quỷ chính là bản thân con
người, đằng sau các mối quan hệ giữa các nhân vật siêu tự nhiên là các mối

quan hệ có thực trong xã hội nhất định và dẫu tự giác hay không tự giác, đều
phản ánh hiện thực khi sáng tác” [15]. Việc sử dụng yếu tố kì ảo góp phần tạo
nên nhiều cảm xúc phong phú, chân thật cho người đọc, làm cho tác phẩm trở
nên hấp dẫn, thu hút người đọc hơn.
Phùng Hữu Hải định nghĩa: “Cái kì ảo là sản phẩm của trí tưởng
tượng... được biểu hiện bằng những năng lực, yếu tố có tính siêu nhiên, nằm
ngoài tư duy lí tính của con người... Yếu tố kì ảo không phải là cái gì hư vô
bên ngoài con người mà nó được bắt nguồn từ chính thế giới tưởng tượng,
tinh thần, thế giới nội tâm bí ẩn của con người” [9,23].
Qua các công trình nghiên cứu trên, chúng ta có thể thấy rằng: các nhà
nghiên cứu dù đưa ra cách hiểu như thế nào về yếu tố kì ảo thì giữa họ luôn
có điểm chung với nhau. Đó là: yếu tố kì ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng
khó xảy ra trong thực tế.

7


Trong văn học phương Đông nói chung và văn học Trung Quốc nói
riêng, kì ảo, kì lạ đươc coi là một phạm trù thẩm mĩ đặc trưng. Xuyên suốt
lịch sử hình thành và phát triển của văn học dân tộc từ văn học dân gian cho
đến văn học trung đại rồi văn học hiện đại, yếu tố kì ảo luôn được sử dụng và
nó là yếu tố không thể thiếu trong văn học. Mặc dù ở mỗi thời kì văn học nó
được sử dụng với mức độ và tần suất khác nhau nhưng yếu tố kì ảo luôn phát
huy được sức mạnh phi thường của mình. Đó chính là tạo ra sức hấp dẫn cho
câu chuyện được kể, lôi cuốn người đọc bước vào một thế giới huyền ảo do
nó tạo ra, bên cạnh đó nó còn có vai trò rất lớn: giúp truyền tải ý đồ nghệ
thuật của tác giả.
Ở mỗi thời kì văn học yếu tố kì ảo được sử dụng với những mục đích
khác nhau.
Theo Trần Thế Mạnh: “cội nguồn của yếu tố kì ảo trong văn học nhân

loại có từ sáng tác dân gian, rồi thành dòng sông đổ ra thời cổ đại, trung đại,
Phục hưng, Cổ điển, mải miết chảy trôi qua thế kỉ Ánh sáng, sang thế kỉ XIX
và ào ạt tuôn trào cho tới mãi hôm nay...” [11,25].
Yếu tố kì ảo xuất phát từ văn học dân gian và được sử dụng với những
mục đích khác nhau. Tuy nhiên, khi xem xét yếu tố kì ảo chúng tôi chỉ xem
xét trong các tác phẩm tự sự thuộc các thể loại như: thần thoại, truyền thuyết,
truyện cổ tích... Vì đây là những thể loại có sử dụng nhiều và thành công các
yếu tố kì ảo.
Tiếp nối văn học dân gian chính là văn học trung đại. Đối với các sáng
tác trung đại, yếu tố kì ảo được sử dụng mang tính chất siêu nhiên nhưng
đằng sau nó lại thể hiện tư tưởng, triết lí của nhân dân. Trong văn học trung
đại, thể loại sử dụng nhiều và thành công nhất yếu tố kì ảo chính là truyện
truyền kỳ.
Một nền văn học tiêu biểu và thành công nữa phải kể đến là văn học
hiện đại. Theo các nhà nghiên cứu, truyện kì ảo gần đây được chú ý ở cả hai
bình diện: cường độ của sự tưởng tượng và những ý nghĩa mang tính chất
nhân sinh sâu sắc. Điều đó có nghĩa rằng: đằng sau những yếu tố kì ảo đó là
hiện thực cuộc sống, những vấn đề nổi cộm của xã hội. Đến thời kì này, sáng
8


tác văn học không còn nhằm mua vui, giải trí hay giải thích các hiện tượng tự
nhiên, sự xuất hiện của trời đất, vạn vật. Văn học hiện đại sử dụng yếu tố kì
ảo không phải chỉ nhằm làm cho câu chuyện li kì, hấp dẫn mà mục đích chính
là sử dụng yếu tố kì ảo để nhận thức, cung cấp những kiến thức, hiểu biết về
cuộc sống, xã hội cho độc giả.
Như vậy, yếu tố kì ảo xuất hiện trong mỗi thời kì văn học mang nhiệm
vụ khác nhau nhưng nó là một yêu cầu tất yếu bởi nghệ thuật là sản phẩm của
trí tưởng tượng, hư cấu.
1.1.2.Yếu tố kì ảo trong văn học Trung Quốc

Trong nền văn học Trung Quốc, cái kì ảo hay yếu tố kì ảo có vị trí đặc
biệt. Nó có lịch sử phát triển lâu đời và việc sử dụng yếu tố kì ảo trong văn
học được coi là một truyền thống. Nó xuất phát từ truyền thống “hiếu kỳ”.
Theo Nguyễn Thị Bích Hải: “Hiếu kỳ (chuộng lạ) là một đặc điểm xuyên suốt
tiểu thuyết Trung Quốc từ khi mới manh nha cho đến tận hôm nay. Từ những
mẩu chuyện vụn vặt (tiểu thuyết) nơi đầu đường xó chợ thời Tiên Tần, từ
những tưởng tượng diệu kỳ như “cá côn hóa chim bằng”, “Trang Chu mộng
hồ điệp”... trong sách Trang Tử, qua tiểu thuyết “chí quái”, “chí nhân” thời
Lục triều, qua tiểu thuyết “truyền kỳ” đời Đường, “thoại bản” thời Tống Nguyên đến tiểu thuyết chương hồi Minh - Thanh và đến tận tiểu thuyết
đương đại. Ngay tên thể tài, tên tập truyện hay tên tác phẩm cũng có sự xuất
hiện của những yếu tố kỳ, quái, dị (đều có nghĩa là “lạ”). Chẳng hạn: Huyền
quái lục, Liêu trai chí dị, Phách án kinh kỳ Kim cổ kỳ quan, Bao Công kỳ án,
Hoàn kiếm kỳ tình lục, Thiên vân sơn truyền kỳ...” [8,78].
Cùng với sự chuyển biến của lịch sử, mỗi thời kì yếu tố kì ảo được sử
dụng với những mục đích khác nhau. Trong văn học dân gian, sử dụng yếu tố
kì ảo nhằm giải thích các hiện tượng tự nhiên hoặc giải trí. Đây cũng là nền
văn học biểu hiện rõ nhất những yếu tố hoàng đường, kì ảo. Đến thế kỉ XX,
đặc biệt là văn học Ngũ tứ, văn học kháng chiến, văn học thời kì đầu của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội , tinh thần khoa học được đề cao, tiếp thu tinh
thần của chủ nghĩa hiện thực, chữ “kỳ” trở nên mờ nhạt trong sáng tác của
một số nhà văn tiêu biểu thời kì đó như Mao Thuẫn, Lão Xá... tuy nhiên, đến

9


sáng tác của Lỗ Tấn có thể được xem là sự tiếp nối truyền thống “hiếu kỳ” khi
bằng phép “lạ hóa”, bằng ngòi bút hiện thực tỉnh táo, ông đã đem đến những
nhận thức mới là từ những hình tượng điển hình như “người điên”, Khổng Ất
Kỉ, AQ,... từ những hình tượng nhân vật rất quen thuộc trong thần thoại, chí
quái như Nữ Oa, My Gian Xích, hiệp sĩ mặt đen đúa... thành nhân vật mang

những đặc điểm khác biệt trên cơ sở hình tượng cũ. Ông muốn gửi gắm
những triết lí nhân sinh, những bài học qua tác phẩm của mình và đằng sau
lớp ngôn từ là hiện thực xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Trong sáng tác của
Lỗ Tấn yếu tố kì ảo thể hiện rõ nhất là tập Chuyện cũ viết lại.
Chuyện cũ viết lại thực chất là hiện tượng liên văn bản. Đây là khái
niệm do nhà ký hiệu học - nhà phê bình chủ nghĩa nữ quyền người Pháp Julia
Kristeva đề xuất lần đầu tiên vào cuối những năm 60 của thế kỉ XX... “Liên
văn bản lấy nguyên tác làm cơ sở, kết hợp với sáng tạo của bản thân người
viết. Trong quá trình làm mới các nguyên tác, cần lấy việc bảo tồn diện mạo
cơ bản của nguyên tác làm tiền đề, từ đó tiến hành “gia công” nghệ thuật. Cải
biến tình tiết truyện cũ, đồng thời kết hợp với nội dung hiện thực” [5].
Chuyện cũ viết lại là một hiện tượng phổ biến trong văn học Trung
Quốc. Nó là một thủ pháp văn học xác định (trích dẫn, ám chỉ, bình giải, nhại, bắt
chước, vay mượn); có nghĩa là đòi hỏi sự hiện diện của văn bản gốc đã có trước và
xu hướng của tác giả sử dụng văn bản gốc đó.
Ở Trung Quốc người ta thường dùng khá nhiều thuật ngữ để chỉ hiện tượng
truyện cũ viết lại như: cố sự tân biên, trùng tân cải biên, cải biên, cải tả, tái
sáng tác… trong đó được sử dụng phổ biến nhất là hai thuật ngữ: cải
tả hay trùng tả (viết lại) và cố sự tân biên (truyện cũ viết lại) [5].
Chuyện cũ viết lại được xây dựng trên cơ sở các thần thoại, truyền
thuyết và lịch sử Trung Quốc cổ đại nhưng nó đặc biệt quan tâm đến con
người, phản ánh nỗi cô đơn, tuyệt vọng của con người hiện đại. Từ đó góp
phần lên án xã hội. Đây là một phương thức sáng tác xuất hiện từ lâu trong
văn học Trung Quốc nhưng đến văn học hiện đại nó càng được sử dụng phổ
biến chỉ sáng tác văn học theo hình thức viết lại, làm mới các câu chuyện xưa.

10


Như vậy, trên cơ sở lấy các cốt truyện trong thần thoại, cổ tích làm cơ

sở cần cải biến thêm các tình tiết, đồng thời kết hợp với nội dung hiện thực.
Để tác phẩm thành công và hấp dẫn bạn đọc thì việc sử dụng yếu tố kì ảo là
cần thiết.
1.2. Yếu tố kì ảo trong tập Chuyện cũ viết lại
Lỗ Tấn, tên thật là Chu Thụ Nhân, tự Dự Tài, sinh ngày 25-9-1881
trong một gia đình nho học tại phủ thành Thiệu Hưng, thuộc tỉnh Chiết Giang.
Mồ côi cha từ nhỏ, gia đình rơi vào cảnh sa sút. Lỗ Tấn đã trải qua một tuổi
thơ thiếu thốn, đối mặt với sự kì thị, hắt hủi từ những người xung quanh.
Sinh ra trong thời kì xã hội đầy biến động, Lỗ Tấn sớm ý thức được vận
mệnh của mình với đất nước nên ông không ngừng học tập và tiếp thu những
tư tưởng tiến bộ để nhìn nhận vai trò quan trọng của nhà văn đối với xã hội.
Sau này ông đã lấy bút danh Lỗ Tấn là vì mấy lí do sau: thứ nhất lấy từ họ mẹ
(họ Lỗ), thứ hai vì Chu Lỗ là những nước cùng họ (ý nói thiên tử nhà Chu và
vua nước Lỗ thời Xuân Thu đều họ Cơ), cuối cùng ông lấy ý “ngu lỗ nhi tấn
tốc” (ngu muội nhưng chịu khó đi nhanh).
Lỗ Tấn là nhà văn có bút pháp sáng tác đa dạng. Hai mươi nhăm truyện
ngắn trong hai tập Gào thét và Bàng hoàng của ông đã chứng minh điều đó,
mỗi tác phẩm là một hình thức mới, không hề lặp lại. Chuyện cũ viết lại (Cố
sự tân biên) mặc dù không được đánh giá cao như hai tập truyện trên nhưng
cũng mang phong cách thể hiện hết sức mới mẻ. Tuy nhiên, khác với truyện
ngắn lịch sử truyền thống, Chuyện cũ viết lại không tuân thủ tiêu chí phản ánh
hiện thực “giống như thật”, mà có sự sáng tạo theo tinh thần nghệ thuật hiện
đại, chuyên chở những thông điệp gắn với các vấn đề “nhạy cảm” của xã hội
Trung Quốc những năm đầu thế kỉ XX. Hiện thực ở đây cũng không tuân theo
nguyên tắc “chân thực, lịch sử, cụ thể” như các tác phẩm của chủ nghĩa hiện
thực đương thời, mà được phản ánh thông qua phương thức nghệ thuật có xu
hướng trở thành kĩ thuật sáng tác của văn chương hiện đại - đó là phương
thức huyền thoại.
Với khả năng và vốn hiểu biết, ham hiểu thực tế, Lỗ Tấn đã quyết tâm
theo sự nghiệp văn chương với mong muốn có thể dùng nó để thay đổi xã hội.

11


Chúng ta có thể khẳng định: “Nếu Nga có Tchékhov, Pháp có
Maupassant, Mỹ có O’Henry, Nhật Bản có Kawabata thì Trung Quốc tự hào
có Lỗ Tấn”. Lỗ Tấn sáng tác ở nhiều thể loại, một trong những thể loại tiêu
biểu và thành công phải kể đến truyện ngắn. Truyện ngắn của Lỗ Tấn giàu
tính sáng tạo, độc đáo, phong phú, phong cách nổi bật, thâm thúy mà nhẹ
nhàng, khôi hài mà hùng biện. Sự hình thành phong cách đó xuất phát từ việc
ông biết tiếp thu những tinh hoa của văn học cổ điển trong và ngoài nước trên
nhiều mức độ khác nhau. Lỗ Tấn khâm phục cách biểu hiện tinh tế sâu sắc mà
chất phác của nghệ thuật truyền thống Trung Quốc.
Ông là con người có tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cả cuộc đời ông luôn
đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc Trung Quốc. Vì vậy, những vấn đề
nổi bật của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ đều được ông đưa vào thơ văn của
mình thông qua các nhân vật và sự kiện cụ thể đã khắc họa trọn vẹn một thời
đại. Đến nay những tác phẩm đó vẫn giữ nguyên được giá trị và có tính giáo
dục vô cùng lớn. Xét riêng về truyện ngắn, sáng tác của Lỗ Tấn tập trung ở ba
tập truyện: “Gào thét” (1923), “Bàng hoàng” (1926) và “Chuyện cũ viết lại”
(1936). Trong mỗi tác phẩm của Lỗ Tấn là một bài học nhân sinh sâu sắc.
Xét về yếu tố kì ảo trong sáng tác của Lỗ Tấn, chúng ta không thể bỏ
qua tập Chuyện cũ viết lại. Chuyện cũ viết lại (gồm 8 truyện: Vá trời, Lên
trăng, Trị thủy, Hái rau vi, Đúc kiếm, Xuất quan, Phản chiếu, Sống dậy).
Trong Lời tựa tập Chuyện cũ viết lại, Lỗ Tấn có nói rằng, “Tập sách nhỏ bé
này, từ khi bắt đầu cho tới lúc viết xong, ngày tháng trải qua cũng có thể nói
là khá dài: vừa chẵn mười ba năm”. Nhan đề: Chuyện cũ viết lại thể hiện dụng
ý nghệ thuật của Lỗ Tấn. Nhan đề này gợi cho chúng ta hai cách hiểu: thứ
nhất, đây là tập truyện Lỗ Tấn viết dựa trên những cốt truyện xưa đã có, dựa
theo các đề tài thời cổ đại và hiện đại nhưng vẫn có điểm sáng tạo thêm mang
đặc trưng riêng theo văn phong của Lỗ Tấn. Chẳng hạn, Lỗ Tấn sử dụng cốt

truyện thần thoại Nữ oa vá trời để sáng tạo thành công tác phẩm Vá trời hay
Lên trăng cũng sử dụng cốt truyện đã có trong truyền thuyết... Cách hiểu thứ
2, Lỗ Tấn đặt tên nhan đề cho tập truyện như vậy là vì: lúc đầu ông định viết
thật nghiêm túc nhưng Lỗ Tấn đã từ nghiêm túc sa vào đùa cợt. Đùa cợt là kẻ
đại thù của sáng tác, vì thế mà ông rất bất mãn với bản thân. Tập truyện này
12


khi mới bắt đầu sáng tác Lỗ Tấn đang độ đôi mươi nhưng phải đến lúc năm
mươi ông mới hoàn thiện. Đây cũng là tập truyện ngắn cuối cùng mà Lỗ Tấn
để lại cho nhân loại.
Chuyện cũ viết lại thuộc dạng vẫn giữ nguyên cốt truyện và nhân vật
trong các tác phẩm xưa, đồng thời có sự bổ sung những tình tiết, chi tiết mới
để làm nổi bật được đặc điểm nhân vật và dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Vận
dụng yếu tố kì ảo, mục đích chính của tác giả không nhằm “vượt thoát” cái
nhìn thiên kiến, tập thể về các nhân vật lịch sử hay “cảm nhận lịch sử khác
đi”, mà để thông qua đó, thể hiện một cách tiếp cận hiện thực sinh động, ấn
tượng, giàu sức ám ảnh [4,17].
Trong tập Chuyện cũ viết lại, Lỗ Tấn đã vận dụng yếu tố kì ảo bằng
cách là: “Dùng theo thi pháp cổ tích trong văn học dân gian và dùng cái hoang
đường như một thủ pháp nghệ thuật hỗ trợ. Như một thủ pháp nghệ thuật, cái
hoang đường được vận dụng theo hai cách: “cái hoang đường dưới dạng lực
lượng siêu nhiên, huyền bí (thần tiên, ma quỷ, phép lạ mà các nhân vật có,
hoặc nó có thể là yêu quái nhưng chúng có một sức mạnh phi phàm nào đó)”
và “cái hoang đường dưới dạng vô lí, khó tin, khó hiểu mà lí trí con người
chưa khám phá hết hoặc chưa khám phá được”” [8,53].
Lỗ Tấn sử dụng rất nhiều yếu tố hoang đường, kì ảo để làm cho nhân
vật nổi bật được sức mạnh của mình, khẳng định khả năng đặc biệt. Chẳng
hạn, Nữ Oa có tạo ra con người, luyện đá vá lên vết nứt của trời để từ đó
không còn mưa lụt, cuộc sống muôn dân yên ấm. Nhân vật được xây dựng

với những năng lực thần kì, đặc biệt nhưng vô cùng gần gũi, quen thuộc
với nhân dân.
Như vậy, yếu tố kì ảo trong tác phẩm của Lỗ Tấn, đặc biệt là trong tập
Chuyện cũ viết lại, nó được biểu hiện thông qua cốt truyện, nhân vật, không
gian và thời gian. Yếu tố kì ảo đã góp phần làm cho tác phẩm trở nên hấp dẫn
hơn. Ngoài ra, nó còn cho thấy được hiện thực xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ
XX và bài học nhân sinh tác giả gửi gắm.

13


1.2.1. Cốt truyện kì ảo trong tập Chuyện cũ viết lại
Cốt truyện là một trong những đặc điểm quan trọng để tạo thành tác
phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Cốt truyện là hệ thống sự
kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo
thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn
học” [10, 99].
Theo giáo trình Lí luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên: “Cốt truyện
là một hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống và nhất
là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành
và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ
chủ đề và tư tưởng tác phẩm” [6, 137].
Trong Chuyện cũ viết lại, tác giả cũng tập trung tài năng của mình vào
việc xây dựng nên những cốt truyện độc đáo, trong đó yếu tố kì ảo đóng vai
trò đặc biệt quan trọng trong việc liên kết các tình tiết, sự kiện nhằm tạo nên
những tác phẩm hấp dẫn người đọc. Tuy nhiên, trong tập Chuyện cũ viết lại
không phải tác phẩm nào cũng thể hiện rõ cốt truyện kì ảo. Chẳng hạn Vá
trời, Đúc kiếm, Sống dậy yếu tố kì ảo thể hiện rất rõ trong các chi tiết, sự kiện
theo tiến trình cốt truyện, nhưng ngược lại Phản chiếu, Xuất quan, Lên trăng,
Trị thủy, Hái rau vi yếu tố kì ảo biểu hiện tương đối mờ nhạt và không xuyên

suốt tác phẩm mà nó chỉ sử dụng để làm nổi bật một chi tiết, sự kiện hoặc một
khía cạnh nào đó của tác phẩm.
Ở Vá trời, yếu tố kì ảo tham gia vào việc triển khai diễn biến cốt
truyện, các sự kiện, tình tiết ở đây được liên kết với nhau linh hoạt thành một
câu chuyện. Vá trời tựa gốc là Núi Bất Chu, được đăng lần đầu trên “Thần
báo”. Mở đầu tác phẩm với hình ảnh “Nữ Oa bỗng nhiên tỉnh dậy. Bà tựa như
thoát ra khỏi giấc mơ, song lại không nhớ rõ mình mơ cái gì, chỉ là rất chán
nản, vừa cảm thấy thiếu gì đó, vừa cảm thấy có gì đó quá thừa. Cơn gió hiu
hiu lay động, vầng dương ấm áp mới vừa ló rạng mang khí lực của bà thổi
vào khoảng vũ trụ mênh mông” [14, 19].
Trên nền trời hồng nhạt có rất nhiều đám mây nổi màu thạch lục uốn
lượn quanh co còn mặt đất thì toàn một màu xanh nhạt. Bà cảm thấy cuộc
14


sống thật vô vị. Bà “nhúng tay vốc lên nắm bùn pha lẫn nước, vo nặn mấy lần
rồi được thứ nhỏ bé giống như hình dáng của bà trong hai bàn tay”. Bà “ngạc
nhiên và thích thú với sự hăng say và vui vẻ trước kia chưa từng có”. Loài
nhỏ bé bà vừa tạo ra vui cười. “Đây là nụ cười đầu tiên bà thấy được trong
trời đất, do đó cũng lần đầu bà tự mình cười cợt vui tươi”. Nhưng rồi cuộc vui
ấy cũng làm bà mệt mỏi, bà cảm thấy mọi thứ vẫn chưa được như ý muốn.
Những con vật bà vừa tạo ra cũng làm bà thất vọng, chúng không còn đáng
yêu nữa mà đã “biến hóa với những khuôn mặt hình dạng khác nhau”. “Nữ
Oa thở dài thất vọng, bà ngửa mặt nhìn lên trời. Bầu trời có một vết nứt rất
rộng mà lại vô cùng sâu”. Bà đã “dùng loại đá xanh thuần khiết giống như
màu sắc của bầu trời” để vá lên vết nứt đó. Nhưng vì đá xanh quá ít nên bà
đành phải trộn thêm các loại đá màu khác cùng. Sau cũng lấp đầy vết nứt. Nữ
Oa thêm lửa để nung chảy vết nứt “lửa cháy... gió lớn chợt nổi lên, cột lửa
gào thét xoay tròn, đá xanh và những loại khác đều đổi sang màu đỏ chói,
chảy lỏng như mạch nha rồi len vào vết nứt, hệt như một tia chớp không bao

giờ tắt trên bầu trời”. Lửa tắt bà đem đống tro lưu lại bên dưới rải khắp các
dòng nước rồi bà chút hơi thở cuối cùng.
Trong tác phẩm yếu tố kì ảo được biểu hiện ở hàng loạt các chi tiết, sự
kiện và thông qua các hoạt động của nhân vật Nữ Oa. Cụ thể, Nữ Oa dùng đất
nạn người; đưa tay kéo gốc tử đằng từ trên núi dài ra đến tận chân trời... Bà
còn có công rất lớn ở chỗ: trộn các loại đá với nhau luyện thành đá xanh thuần
khiết vá lên vết nứt của bầu trời...
Có thể thấy yếu tố kì ảo đã xuất hiện ở ngay đầu tác phẩm và nó góp
phần làm cho hành động, việc làm của nhân vật thu hút trí tò mò của người
đọc, làm cho cốt truyện trở nên hấp dẫn, quyết định sự thành công của tác
phẩm.
Lên trăng cũng xây dựng thành công cốt truyện mang màu sắc kì ảo.
Tác phẩm xoay quanh cuộc sống của nhân vật Nghệ - một người có tài thiên
xạ và Thường Nga – vợ chàng. Cuộc sống của chàng chỉ quanh quẩn những
ngày đi săn. Những loài có thể săn bắn ngoài quạ ra dường nhưng đã không
còn nên bữa ăn chỉ có mì tương quạ rán. Cuộc sống mưu sinh thiếu thốn đã
làm cho vợ chàng càng ngày càng gầy và xanh xao. Mỗi ngày Nghệ phải đi xa
15


hơn để tìm kiếm thức ăn, chàng nhớ đến ngày trước còn săn được báo, phong
thỉ trường xà (con lợn rừng to lớn và con rắn dài). Cuộc đi săn vất vả, khó
khăn trên đường đi săn về chàng bị Phùng Mông tương truyền là học trò của
Nghệ định hãm hại nhưng với tài năng, đặc biệt là “phép cắn tên” của mình
mà Nghệ đã an toàn trở về. Vừa về đến nhà chàng đã cảm nhận được sự khác
thường, quả nhiên đúng là có chuyện. Thường Nga đã một mình uống thuốc
tiên mà vị đạo sĩ tặng cho chàng rồi bay lên mặt trăng. Sự thật làm chàng vô
cùng “phẫn nộ”. Nghệ đã dùng cây cung bắn rụng mặt trời ngày xưa của mình
để bán mặt trăng. Tất cả mọi thứ đều quay lưng với chàng: cây cung ngày xưa
bắn rụng mặt trời chỉ làm mặt trăng rung chuyển một chút. Mặt trăng cũng

không muốn gần chàng, chàng tiến tiến ba bước mặt trăng lùi ba bước, chàng
lùi ba bước mặt trăng lại tiến ba bước.
Tác giả đã sử dụng yếu tố kì ảo tập trung ở phần cuối tác phẩm. Đây là
ý đồ nghệ thuật của Lỗ Tấn nhằm tái hiện rõ nét tài năng phi phàm có một
không hai của Nghệ và để lại ấn tượng mạnh cho người đọc.
Đến Đúc kiếm yếu tố kì ảo cũng được tác giả sử dụng làm nổi bật cốt
truyện khá rõ: Tác phẩm kể về hành trình báo thù cho cha của Mi Gian Xích một chàng thanh niên mới mười sáu tuổi tính tình vẫn còn hời hợt. Lần đầu
được nghe mẹ kể về cha anh thấy máu trong người sôi sục lên. Nghe lời mẹ
dặn Mi Gian Xích mang theo thư kiếm lên đường báo thù cho cha. Trên con
đường đi anh phải qua bao nhiêu khó khăn vì sợ thanh bảo kiếm của mình sẽ
làm tổn thương người khác. Trên đường anh gặp “một người đàn ông đen
đúa, râu mắt đều đen cả, gầy như một que sắt”. Ông ta nói với Mi Gian Xích
sẽ giúp anh báo thù chỉ cần “một là thanh kiếm của anh, hai là cái đầu của
anh”. Anh đồng ý và đưa cả hai cho ông ta. Mặc dù cơ thể của anh đã bị lũ
chó sói ăn hết như đầu anh vẫn sống. Người đen đúa đem đầu anh và cả thư
kiếm vào cung dùng đầu anh nhảy múa, mua vui trên mặt nước để dụ dỗ nhà
vua lại gần, lập tức ông ta chém đầu nhà vua rơi xuống sau đó tự chém đầu
mình rơi xuống. Cả đầu Mi Gian Xích và đầu người đen đúa cùng nhào tới
cắn đầu nhà vua đến khi chết. Đến khi đầu nhà vua chết thật rồi họ mới “nhìn
nhau, mỉm cười một cái rồi nhắm mắt ngay lập tức, mặt ngửa lên trời, chìm
dần xuống đáy vạc”. Lỗ Tấn tổ chức cốt truyện tinh tế, công phu kết hợp yếu
16


tố kì ảo. Yếu tố kì ảo thể hiện ở các chi tiết: sau khi đã lìa khỏi thân xác
của mình nhưng đầu My Gian Xích giống như vẫn còn sống. Cuộc chiến
giữa ba cái đầu cũng rất kì lạ, đã lìa khỏi thân xác nhưng vẫn còn ý thức, có
cảm xúc như con người bình thường. Điều này hoàn toàn trái ngược với
quy luật tự nhiên. Mặc dù tác giả sử dụng cốt truyện cũ nhưng sáng tạo
mang nét độc đáo riêng, phong cách riêng của Lỗ Tấn.

Trong Sống dậy, tác phẩm như một vở bi hài kịch. Yếu tố kì ảo sử dụng
xuyên suốt tác phẩm, nó là sợi dây liên kết các sự kiện lại với nhau. “Trang
Tử mặt mũi đen đúa gầy còm, râu quai nón hoa râm, đầu đội đạo quan, mặc
áo vải thô, tay cầm roi ngựa, ra”: Rời khỏi nhà không có nước để uống, mới
đi được một chút thì đã thấy khát khô. Tìm được nước uống rồi đi tiếp ông
nhìn thấy một cái sọ khô. Ông hỏi cái sọ rất nhiều câu hỏi. Sau đó cảm thấy
mình thật hồ đồ “Hừm, mình thật hồ đồ, cứ như đang diễn kịch. Sẽ có câu trả
lời ngay đây!”. Trang Tử đã nghĩ ra một cách là nhờ thần Tư mệnh “tái tạo
thân xác, máu thịt cho anh ta, rồi tán chuyện với anh ta một phen, sau đó để
anh ta trở về quê nhà, đoàn tụ với gia đình”. Trang Tử xin thần Tư mệnh cho
anh ta sống lại. Điều đặc biệt là: anh ta đã chết được mấy trăm năm dù anh ta
có sống lại trong bộ dạng trần truồng không có một thứ gì trên người. Anh ta
xin được chết đi chứ không chấp nhận được sự thật đó. Trang Tử không giúp
được anh ta và tiếp tục lên đường. Kết thúc tác phẩm anh ta đau khổ vì chẳng
thể chết lại mà cũng không thể đi thăm người thân. Các chi tiết hoang đường,
kì ảo đã làm cho cốt truyện trở nên li kì, độc đáo. Yếu tố kì ảo được dùng như
một phương tiện hỗ trợ tác giả trong việc tổ chức diễn biến cốt truyện.
Trong tập Chuyện cũ viết lại, bên cạnh cốt truyện mang tính kì ảo, Lỗ
Tấn còn xây dựng thành công dạng cốt truyện có đan xen các tình tiết kì ảo.
Chẳng hạn, Trị thủy yếu tố kì ảo không được thể hiện rõ nét như Vá trời. Mở
đầu tác phẩm: “Đó là thời buổi cuồn cuộn hồng thủy tàn phá, mênh mông bọc
núi trùm gò, trăm họ của Đế Thuấn không phải đều chen chúc nhau trên đỉnh
núi nhô lên khỏi mặt nước, mà có người thì bó mình trên đỉnh ngọn cây, có
người lại ngồi nơi bè gỗ, trên vai chiếc bè gỗ còn bắc ván làm lều, từ bên bờ
trông thấy thì đúng là giàu chất thơ”. Lũ lụt, thiên tai làm cho cuộc sống đảo
lộn. Nhưng xuyên suốt tác phẩm, mọi người không tập trung suy nghĩ kế sách
17


để đối phó với lũ lụt, nghĩ cách trị thủy mà mọi người từ người dân đến các

học giả tụ tập để bàn tán, tranh luận về nguồn gốc của tên gọi Vũ. “Vũ – là
một anh hùng trị thủy của Trung Quốc cổ đại và là người sáng lập ra nhà Hạ”.
Qua những lời lẽ phân tích của các học giả có người cho rằng: “Vũ mà trị
thủy chắc chắn sẽ không thành công giống ngày xưa cha ông là Cổn”, ý kiến
khác lại cho rằng “không có ai tên Vũ cả, “vũ” là một loài côn trùng mà côn
trùng thì làm gì biết trị thủy”... Sau cuộc tranh luận vẫn chưa rút ra kết luận
“Vũ” là côn trùng hay con người đó vẫn là một câu hỏi lớn. Triều đình cử
quan lại đi tìm hiểu lũ lụt ở từng vùng nhưng sau khi nghe kết quả điều tra của
bọn họ và biện pháp đối phó. Vũ thấy không khả quan và đưa ra biện pháp
của mình là “đạo” (khơi thông). Mọi người tỏ vẻ không đồng tình nhưng
phương pháp của ông đã ngăn được lũ, đem lại cuộc sống yên ấm cho nhân
dân, “đến cả muôn thú đều biết nhảy múa, chim phượng hoàng cũng bay tới
chung vui”. Yếu tố kì ảo không được thể hiện rõ nét nhưng góp phần làm cho
cuộc tranh luận của các học giả về Vũ trở nên kịch tính hơn. Qua đó, người
đọc có cái nhìn bao quát về các nhân vật này. Chi tiết, chim thú đến chung vui
trong cảnh thiên hạ thái bình là một chi tiết mang đậm màu sắc hoang đường,
kì ảo. Tác giả sử dụng yếu tố kì ảo để người đọc cảm nhận được niềm vui
sướng, hạnh phúc đến đỉnh điểm của nhân dân sau khi nạn hồng thủy chấm
dứt.
Hái rau vi cốt truyện xoay quanh hai nhân vật Bá Di và Thúc Tề sau
khi trốn khỏi nước Cô Trúc đến chỗ Tây Bá – Văn Vương, vào ở trong viện
dưỡng lão. Đến khi cuộc chiến giữa nhà Chu và Trụ diễn ra, hai anh em quyết
định rời viện dưỡng lão đi ở ẩn trên núi Thú Dương, hái rau vi mà ăn quyết
không ăn thóc nhà Chu. Rau vi trên núi Thú Dương ngày càng khăn hiếm.
Thúc Tề đi hái ra vi còn Bá Di phụ trách việc nấu nướng. Song trên núi Thú
Dương vẫn có người qua lại, Bá Di không có gì làm, tâm tính cũng thay đổi,
từ trầm mặc sang nhiều lời. Do nhất thời ông đã đem câu chuyện của hai
người kể cho một vài người. Từ đó, câu chuyện về Bá Di, Thúc Tề được lan
truyền khắp nơi. Một ngày nọ, hai người đang ăn rau vi nướng thì một cô gái
đôi mươi chưa bao giờ gặp mặt đi ngang qua hỏi “Sao lại ăn thứ này?”. Hai

người trả lời là vì không ăn thóc nhà Chu. Cô cười nhạt và cất tiếng nói như
18


chém đinh chặt sắt: “Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ” (trải khắp dưới
trời, đâu chẳng đất vua), rau vi mà các ngài ăn, chẳng lẽ không phải của thánh
thượng bọn ta sao?”. Câu nói đó tựa như sấm động bên tai, nghe mà choáng
váng. Hai người không ăn rau vi nữa, mà ăn cũng không vô, nhìn thôi cũng
thấy xấu hổ. Vì vậy, Bá Di và Thúc Tề chết.
Có người nói rằng, hai người chết là vì đói, chết già, có người nói là
bệnh chết, có người thì cho rằng bị cường đạo cướp áo khoác da dê giết. A
Kim Thư trong phủ Tiểu Bính Quân nói không phải vậy mà “ngược lại đã gặp
được vận may rất lớn kia”. Ông trời thấy thương Bá Di và Thúc Tề liền dặn
dò hươu mẹ đem sữa bón cho hai lão nhưng hai người tham lam lại muốn giết
nó ăn thịt. Từ đó, hươu không đến nữa và hai anh em chết vì sự tham lam,
tham ăn của mình. Như vậy, yếu tố kì ảo được sử dụng tập trung ở cái chết
của Bá Di và Thúc Tề.
Trong tập Chuyện cũ viết lại, tác giả tổ chức cốt truyện khá chặt chẽ,
cốt truyện giúp liên kết các sự kiện li kì, thông qua các yếu tố kì ảo góp phần
thể hiện khá xinh động hiện thực xã hội đương thời. Đằng sau những cốt
truyện có tính chất kì ảo là những câu chuyện về con người. Ngoài ra, yếu tố
kì ảo còn có vai trò quan trọng trong việc tổ chức, triển khai cốt truyện, làm
cho câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn.
1.2.2. Nhân vật kì ảo trong tập Chuyện cũ viết lại
Trong tác phẩm văn học, nhân vật là yếu tố đóng vai trò then chốt để
liên kết các sự kiên, chi tiết với nhau, nhân vật còn là đối tượng để nhà văn
bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình về một vấn đề nào đó. Tuy nhiên, xuất
phát từ những khía cạnh, quan điểm khác nhau nên cũng có rất nhiều quan
niệm khác nhau về nhân vật.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ

biên, “nhân vật là khái niệm mang hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất, đó là “đối tượng
(thường là con người) được miêu tả thể hiện trong tác phẩm văn học”. Thứ
hai, đó là “người có một vai trò nhất định trong xã hội”” [13,881]. Tức là,
thuật ngữ nhân vật được dùng phổ biến trong nhiều lĩnh vực ở cả đời sống
nghệ thuật, đời sống chính trị - xã hội lẫn đời sống sinh hoạt hàng ngày.
19


×