Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.66 KB, 33 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HCM


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRONG SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

Giảng viên hướng dẫn: Ths. Hồ Đức
Học viên thực hiện: Trần Châu Thanh Thiện
Lớp: CHKHMT6A
MSSV: 16002401

TP. HCM - Tháng 10 năm 2016


LỜI CÁM ƠN
Kính thưa thầy, được tham gia lớp học của thầy và được thầy phân công
thực hiện đề tài nghiên cứu về “Vai trò của Khoa học và Công nghệ trong sự
phát triển xã hội ở nước ta”, tôi thật sự rất vui mừng và phấn khởi. Vì qua
những giờ lên lớp của thầy, tôi được học thêm nhiều điều mới, nhiều điều hay.
Thực hiện tiểu luận này, một đề tài rất thiết thực, mang tính thời sự cao là một
thách thức không hề nhỏ đối với tôi vì đây là một nội dung lớn mang tính chiến
lược trong công cuộc phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu để thực hiện đề tài một
cách hoàn chỉnh nhất, song do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu
khoa học, cũng như hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh
khỏi những thiếu sót chủ quan nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất
mong được sự góp ý tận tình của thầy để tôi có thể bổ sung thêm các kiến thức
mà mình thiếu.


Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 10 năm 2016
Người thực hiện

Trần Châu Thanh Thiện

2


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến những thay đổi lớn về chất

trong toàn bộ đời sống xã hội, đó là những thay đổi về kinh tế, về chính trị, về
văn hoá, đặc biệt về khoa học - Công nghệ. Khoa học - công nghệ đã và đang tác
động ngày càng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống nhân loại. Khoa học - công
nghệ có một vị trí trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát
triển khoa học - công nghệ là một trong những quốc sách hàng đầu, không chỉ có
ý nghĩa lớn lao trong lĩnh vực sản xuất vật chất, mà còn là cơ sở để xây dựng
nền văn hóa tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Khoa học - công nghệ còn có tác dụng to lớn trong việc truyền bá hệ tư
tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, xây dựng lối sống, đạo đức và nhân cách mới của toàn bộ xã hội. Sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước không phải chỉ là quá trình đổi
mới về khoa học và công nghệ, hiện đại hóa, thị trường hóa nền sản xuất xã hội
mà còn là quá trình chuyển đổi về tâm lý, phong tục tập quán, lối sống thích ứng

với nhịp độ và tốc độ của xã hội công nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo quan điểm của Đảng thì khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu
có nghĩa là chủ trương, chính sách phát triển đất nước, kinh tế - xã hội cũng như
bảo vệ Tổ quốc đều phải dựa vào khoa học - công nghệ và thực hiện bằng khoa
3


học - công nghệ. Chỉ có phát triển khoa học - công nghệ, chúng ta mới phát triển
được kinh tế - xã hội, giữ vững được độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Để khoa học - công nghệ nhanh chóng phát huy được vai trò là nền
tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng, Nhà
nước luôn có những chính sách quan tâm đặc biệt đến phát triển khoa học - công
nghệ.
Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất
cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng
cố quốc phòng an ninh. Hoạt động khoa học - công nghệ không chỉ là nhiệm vụ
của các nhà khoa học - công nghệ, các nhà quản lý khoa học mà là công việc của
mọi ngành, mọi cấp, mọi người... Mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều đòi hỏi
phải có nội dung khoa học - công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả. Mọi hành động phải xác định cơ sở khoa học của nó, phải điều tra,
nghiên cứu, tìm ra quy luật, dự báo sự phát triển, đề xuất các giải pháp phù hợp
với quy luật khách quan.
Các chủ trương, quyết định, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội
quan trọng phải có luận cứ xác đáng về khoa học - công nghệ. Các nhiệm vụ
khoa học - công nghệ phải hướng vào giải quyết có hiệu quả các mục tiêu kinh
tế - xã hội. Mọi ngành, mọi cấp phải đẩy mạnh việc triển khai nghiên cứu và ứng
dụng rộng rãi thành tựu khoa học - công nghệ vào giải quyết có hiệu quả các
mục tiêu kinh tế - xã hội. Mọi ngành, mọi cấp phải đẩy mạnh việc triển khai
nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học - công nghệ vào hoạt động
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, từ việc định hướng chiến lược phát triển,

hoạch định chính sách, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đến việc tổ chức thực
hiện.
Nhận thấy đây là một vấn đề mang tính thực tiễn cao, nên tôi đã chọn đề
tài “Vai trò của khoa học - công nghệ trong sự phát triển xã hội ở nước ta”
để làm tiểu luận của mình. Đề tài sẽ trao đổi về vai trò của khoa học, công nghệ

4


trong sự phát triển xã hội cũng như thực trạng và các biện pháp thúc đẩy sự phát
triển khoa học, công nghệ.
2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài

Liên quan đến đề tài, có những công trình sau:
_ “Khoa học và công nghệ thế giới – thách thức và vận hội mới” (Bộ khoa
học và công nghệ, Trung tâm thông tin khoa học và công nghệ quốc gia, năm
2005),
_ “Để khoa học và công nghệ thực sự là nền tảng và động lực trong tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Hoàng Văn Phong, Bộ trưởng bộ Khoa học
công nghệ và môi trường tạp chí Cộng sản tháng 10/2003)...
3.

Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận
Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài là phân tích vai trò của khoa học – công

nghệ đối với sự phát triển xã hội, luận văn đưa ra một số định hướng và xây
dựng các giải pháp nhằm phát huy vai trò của khoa học – công nghệ đến sự phát
triển kinh tế xã hội ở nước ta.

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận
Đối tượng nghiên cứu:
Những lý luận về khoa học - công nghệ và học thuyết của triết học Mác -

Lênin về lực lượng sản xuất. Trình độ của người lao động và khả năng ứng dụng
khoa học công nghệ hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu về vai trò của
khoa học - công nghệ với sự phát triển kinh tế xã hội nước ta hiện nay.
5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận
Từ lập trường thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện

chứng duy vật luận văn trình bày một cách có hệ thống các khái niệm về khoa
học, công nghệ.
5


Những cơ sở lý luận và thực tiễn của luận văn sẽ góp một phần vào công
cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của đất nước ta.
6.

Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, mục lục và danh mục tài liệu kham

khảo, luận văn gồm 3 chương trình bày trong 30 trang.

6



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Một số vấn đề lý luận chung về khoa học
1.1.1. Các khái niệm khoa học, công nghệ
1.1.1.1. Khái niệm khoa học

và công nghệ

Khoa học là tập hợp những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và tư duy được
thể hiện bằng những phát minh dưới dạng các lý thuyết, định lý, định luật,
và nguyên tắc.
Như vậy thực chất của khoa học là sự khám phá các hiện tượng các
thuộc tính vốn tồn tại một cách khách quan. Sự khám phá này đã làm thay đổi
nhận thức của con người tạo điều kiện nghiên cứu, ứng dụng hiểu biết này vào
thực tế.
Như ta đã nói khoa học là những phát minh của con người vì những
phát minh này không thể trực tiếp áp dụng vào sản xuất nên không có đảm bảo
độc quyền không phải là đối tượng để mua và bán. Các tri thức khoa học có thể
được phổ biến rộng rãi. Khoa học thường được phân loại theo khoa học tự nhiên
và khoa học xã hội.
Khoa hoc tự nhiên khám phá những quy luật của tự nhiên xung
quanh chúng ta. Khoa học xã hội nghiên cứu cách sống cách hành động và ứng
sử của con người. Vậy khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động
thực tiễn, nhưng đến lượt mình nó lại có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại
hoạt động sản xuất. Do đó con người hoàn toàn có khả năng đa khoa học thành
lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tùy theo mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận, chúng ta có thể phân tích
khái niệm khoa học ở nhiều khía cạnh khác nhau. Ở mức độ khái quát, khoa học
được hiểu ở các góc độ sau:


7


Đối tượng nhận thức của khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Hình thức biểu hiện của khoa học là phạm trù, định luật quy luật.
Xét về đối tượng nghiên cứu thì tri thức khoa học được chia thành khoa
học tự nhiên-kỹ thuật (nghiên cứu các quy luật của tự nhiên và những phương
thức chinh phục, cải tạo tự nhiên), khoa học xã hội (nghiên cứu các hiện tượng
xã hội, các quy luật vận động và phát triển của xã hội). Các khoa học cụ thể
nghiên cứu từng lĩnh vực, từng quy luật của thế giới. Triết học là khoa học
nghiên cứu những vận động chung nhất, những quy luật chung nhất của thế giới
(dĩ nhiên, mãi đến khi triết học Mác-Lênin ra đời thì triết học mới thực sự là một
khoa học). Trong mỗi khoa học lại có cấp độ kinh nghiệm (sự tổng kết các quan
sát và thử nghiệm), cấp độ lý luận (khái quát kinh nghiệm thành học thuyết, quy
luật, nguyên lý…)
Xét về vai trò, tác dụng thì tri thức khoa học được chia thành khoa học cơ
bản và khoa học ứng dụng. Khoa học cơ bản vạch ra những quy luật, phương
hướng, phương pháp chung cho các khoa học ứng dụng. Khoa học ứng dụng
vạch ra những nguyên tắc, quy tắc, phương pháp cụ thể để ứng dụng trực tiếp
vào hoạt động cải biến tự nhiên và xã hội. Sự phân chia này chỉ là tương đối.
Trong sự phát triển hiện nay của nhận thức khoa học, có những bộ môn
khoa học có sự tương đồng lẫn nhau về đối tượng nghiên cứu (ví dụ: lý - sinh,
sinh – hóa ,..), vì thế các khoa học cũng làm phong phú lẫn nhau và xuất hiện
các khoa học liên ngành.
Vậy, theo quan điểm hiện nay, khoa học vừa là một loại hình hoạt động
tinh thần sáng tạo vừa là kết quả của hoạt động này.
Mỗi một bộ môn khoa học là sự tồn tại một thể thống nhất các thành tố:
chủ thể khoa học và khách thể khoa học. Bên cạnh đó còn cần phải có ngôn ngữ
khoa học tức ngôn ngữ chuyên môn hóa như: ký hiệu, biểu trưng, phương trình,

công thức… là phương tiện ghi nhận, biểu đạt, giữ gìn tri thức tích lũy được và
truyền bá.

8


1.1.1.2.

Khái niệm công nghệ
Công nghệ là tập hợp những hiểu biết để tạo ra các giải pháp kỹ thuật

được áp dụng vào sản xuất và đời sống
Ngày nay công nghệ thường được coi là sự kết hợp giữa phần cứng và
phần mềm. Phần cứng đó là trang thiết bị. Phần mềm bao gồm (thành phần con
người thành phần thông tin, thành phần tổ chức) bất kỳ quá trình sản xuất nào
đều phải đảm bảo bốn thành phần trên mỗi thành phần đảm nhiệm những chức
năng nhất định.
Qua khái niệm về công nghệ ở trên ta thấy. Trước đây cách hiểu
truyền thống về công nghệ đồng nhất kỹ thuật với thiết bị không lưu ý với thực
tế vận hành, tay nghề của công nhân, năng lực tổ chức quản lý hoạt động sản
xuất, do vậy hiện nay thuật ngữ công nghệ thường được dùng thay cho thuật ngữ
kỹ thuật, việc hiểu nội dung công nghệ như vậy đặc biệt có ý nghĩa quan trọng
trong giai đoạn hiện nay khi công nghệ thực sự trở thành nhân tố quyết định khả
năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trờng trong nước cũng như quốc tế.
Khác với khoa học các giải pháp kĩ thuật của công nghệ đóng góp
trực tiếp vào sản xuất và đời sống nên nó được sự bảo hộ của nhà nước dưới
hình thức sở hữu công nghiệp và do đó nó là thứ hàng để mua bán. Nghị định số
63/CP của Thủ tướng Chính phủ quy định 5 đối tượng được bảo hộ ở Việt nam
đó là: Sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghệ, nhãn hiệu hàng hoá và
tên gọi, xuất xứ hàng hoá

Có rất nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ Công nghệ, từ các quan
niệm đó, có thể hiểu: Công nghệ là tập hợp một hệ thống kiến thức và kết quả
của khoa học được ứng dụng nhằm mục đích biến các tài nguyên thiên nhiên
thành các sản phẩm. Công nghệ là chìa khóa cho sự phát triển, niềm hy vọng để
nâng cao mức sống xã hội.

9


Công nghệ gồm có 2 bộ phận:
Phần cứng: gồm các trang thiết bị như: máy móc, nhà xưởng, thiết bị, các
công cụ sản xuất...
Phần mềm bao gồm: Một là, thành phần con người (gồm tinh thần lao
động, kiến thức nghề nghiệp, kỹ năng lao động, khả năng tiếp thu và vận dụng
sáng tạo...). Hai là, thành phần thông tin (gồm các bí quyết, quy trình công nghệ,
tài liệu khai thác, bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, thông tin về thị trường...). Ba
là, thành phần tổ chức quản lý (gồm tổ chức quản lý hoạt động công nghệ, dịch
vụ, tổ chức tiếp thị...).
Trong thực tiễn, quá trình sản xuất nào cũng phải đảm bảo bốn thành tố
là: các trang thiết bị, con người, thông tin và tổ chức quản lý. Sự kết hợp chặt
chẽ giữa bốn thành tố này là điều kiện cơ bản đảm bảo sản xuất đạt hiệu quả
cao.
Quan hệ biện chứng giữa khoa học và công nghệ

1.1.2.

Khoa học và công nghệ là hai khái niệm khác nhau song có mối quan hệ
biện chứng tác động qua lại với nhau. Những phát minh của khoa học giúp con
người hành động phù hợp với sự vận động của thế giới khách quan, nhờ đó hoạt
động của con người có hiệu quả hơn. Vì vậy con người luôn tìm cách phát minh

và ứng dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất. Điều này cho phép và đòi
hỏi khoa học phải phát triển. Ngược lại, chính sự phát triển của công nghệ làm
cho những phát minh khoa học nhanh chóng được ứng dụng trong thực tiễn.
Công nghệ cao giúp cho khoa học phát triển nhanh hơn, thời gian nghiên cứu
khoa học được rút ngắn.
1.2

Vai trò của Khoa học và công nghệ trong sự phát triển của xã hội
Vai trò của khoa học đối với sự phát triển xã hội có thể chia thành ba giai

đoạn:

10


Giai đoạn từ thời cổ đại đến thế kỷ XV, khoa học còn rất sơ khai, bó hẹp
trong một số lĩnh vực nhất định như thiên văn, toán học, cơ học… Nhằm đáp
ứng các nhu cầu về tưới nước, hàng hải, xây dựng lâu đài, lăng tẩm. Tri thức
khoa học ảnh hưởng đến sản xuất rất ít, thậm chí ở phương Tây thời Trung cổ,
khoa học lệ thuộc vào thần học.
Giai đoạn thứ hai thừ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, khoa học trở thành một
tiền đề của công nghiệp hóa, là nội dung tinh thần của lực lượng sản xuất, mà
trước hết là tạo ra cơ sở lý luận để chế tạo những công cụ máy móc ngày càng
hoàn thiện cho phép tiêu hao lao động sống ít mà đạt kết quả to lớn trong sản
xuất vật chất. Khoa học xã hội đã đề cao chủ nghĩa nhân văn với tinh thần dân
chủ sâu sắc, dần dần thoát khỏi các thuyết thần học.
Giai đoạn thứ ba trong thế kỷ XX: khoa học và kỹ thuật có sự kết hợp
nhau thành một thể thống nhất. Khoa học đã phát hiện ra những đặc tính mới,
quy luật mới của tự nhiên và sự sống, tạo ra và sử dụng những nguyên liệu mới
có tác dụng nhiều mặt, tạo ra những dạng năng lượng mới cực mạnh, mở ra

nhiều triển vọng to lớn để hiểu biết và phát hiện những tài nguyên mới trong vũ
trụ và quả đất, tạo ra và ứng dụng kỹ thuật mới trong điều trị bệnh, lai tạo giống
loài, điều chỉnh quá trình sống của động vật…
Khoa học đã và đang trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp làm cho
cuộc sống và lao động của con người trở nên đỡ vất vả, tăng thêm quyền lực, trí
tuệ của con người đối với tự nhiên, góp phần hoàn thiện các quan hệ xã hội,
hoàn thiện nhân cách của con người, giúp con người phát triển hài hòa tự do,
hạnh phúc. Khoa học đã mở rộng chân trời cho sự sống, sự sáng tạo những của
cải vật chất và tinh thần dồi dào. Song dù sao thì khoa học cũng chỉ là phương
tiện chứ không là mục đích, nó không là giá trị cao nhất của văn minh loài
người.
Trong thời đại ngày nay, có lẽ không còn ai không nhận thức được rằng
khoa học và công nghệ có vai trò rất quan trọng về nhiều mặt đối với sự phát
triển. Khoa học và công nghệ là cái không thể thiếu được trông đời sống kinh tế
- văn hóa của một quốc gia. Vai trò này của khoa học và công nghệ càng trở nên
11


đặc biệt quan trọng đối với nước ta đang trên con đường rút ngắn giai đoạn phát
triển để sớm trở thành một xã hội hiện đại phát triển. Ngay từ khi bắt đầu tiến
hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta xác định khoa học và công nghệ là
cái giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao
trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công
bằng, văn minh, khoa học và công nghệ “quốc sánh hàng đầu”.
Nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới – thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Nghị quyết Trung ương 2 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định rõ: ”Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước phải bằng và dựa vào khoa học công nghệ”, “khoa học và công nghệ
trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa”. Chỉ bằng

con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa, phát triển khoa học và công nghệ
mới có thể đưa đất nước ta từ nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước giàu mạnh
và văn minh. Việc đưa khoa học và công nghệ, trước hết là phổ cập những tri
thức khoa học và công nghệ cần thiết vào sản xuất và đời sống xã hội là một nhu
cầu cấp thiết của xã hội ta hiện nay. Nghị quyết trung ương 2 cũng đã nhấn
mạnh phải thật sự coi ”Sự phát triển khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách
mạng của toàn dân, phát huy cao độ khả năng sáng tạo của quần chúng”. Bởi lẽ
dù chúng ta có tiến hành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, có đưa trang
thiết bị kỹ thuật tân tiến nhất, những quy trình công nghê hiện đại nhất vào nước
ta thì cũng không có gì đảm bảo đẩy mạnh được công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Nếu không có được những con người am hiểu và sử dụng chúng. Do đó, xã hội
hóa tri thức khoa học và công nghệ là một trong những nhu cầu thiết thực và cấp
bách nhất để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
đã chỉ ra rằng: “Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học công
nghệ là quốc sách hàng đầu”; “Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt
trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại bảo vệ tài nguyên và môi
12


trường, nâng cao sản xuất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh
tranh củ nền kinh tế”.
Điều 62 Hiến pháp năm 2013 xác định: “Phát triển khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong việc phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước”.
Trong giai đoạn hiện nay, khoa học và công nghệ giữ vai trò đặc biệt quan
trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cụ thể là:
Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại. Dưới tác động của toàn cầu hóa, khoa học, công nghệ
(bao gồm cả khoa học tự nhiên – kỹ thuật lẫn khoa học xã hội, nhất là khoa học

kinh tế) đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp tác động vào đời sống
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc, tạo ra sự phát triển vượt bậc so với
trước đây. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội gắn liền với sản xuất hàng
hóa và thị trường, với phân công lao động và hợp tác quốc tế, với trình độ và
năng lực sáng tạo, tiếp nhận và trao đổi công nghệ mới. Xu thế toàn cầu hóa,
khu vực hóa trong lĩnh vực kinh tế - xã hội làm cho quốc gia đang phát triển
phải cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng mở rộng liên kết để tối ưu hóa sự cạnh
tranh và hợp tác toàn cầu. Muốn thực hiện được điều đó cần phải phát triển khoa
học và công nghệ. Vì vậy, khoa học và công nghệ có vai trò to lớn trong việc
hình thành nền “kinh tế tri thức” và “xã hội thông tin”, phát triển hàm lượng trí
tuệ cao trong sản xuất, dịch vụ và quản lý ở tất cả các quốc gia. Đầu tư cho khoa
học và công nghệ là đầu tư cơ bản để phát triển, văn hóa, xã hội, đầu tư ngắn
nhất và tiết kiệm nhất để hiện đại hóa nền sản xuất xã hội và hiện đạo hóa dân
tộc.
Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc bảo vệ tài nguyên
và môi trường. Nhờ ứng dụng khoa học và công nghệ, chúng ta có thể khai thác
tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên; kịp thời phát hiện, xử lý
các hoạt động gây ô nhiễm môi trường như xử lý nước thải, chất thải công

13


nghiệp, bảo vệ nguồn nước, không khí, khí thải công nghiệp; ứng dụng khoa học
và công nghệ trong dự báo thời tiết để phòng tránh thiên tai (động đất, lũ lụt,
gió, bão); tái sử dụng chất thải công nghiệp, chất thải sinh học...
Khoa học và công nghệ thúc đẩy sử gia tăng của cải vật chất, nâng cao
chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của con người;
trực tiếp tác động nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ cường độ lao động,
giảm chi phí, giá thành sản xuất, giảm rõ rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất, tăng tỷ lệ
chất xám trong cấu tạo sản phẩm...

Khoa học xã hội và nhân văn cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường
lối, chủ trương của đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước; góp phần xây
dựng hệ thống quan điểm phát triển đất nước; khẳng định lịch sử hình thành và
phát triển dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị
và bản sắc văn hóa Việt Nam.
Khoa học kỹ thuật và công nghệ đóng góp tích cực vào việc nâng cao
năng suất, chất lượng hàng hóa và dịch vụ do đó cải thiện năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp và nền kinh tế; một số lĩnh vực đã tiếp cận trình độ tiên tiến
của khu vực và thế giới.
Đặc biệt, khoa học tự nhiên còn tạo cơ sở cho việc hình thành 1 số lĩnh
vực khoa học và công nghệ đa ngành mới, góp phần nâng cao trình độ và năng
lực của khoa học cơ bản.

CHƯƠNG 2: THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO VAI TRÒ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

14


2.1

Thành tựu
Khoa học – công nghệ đã tập trung vào sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên và bảo vệ môi trường. Đã áp dụng các công nghệ và phương pháp nghiên
cứu tiên tiến: Viễn thám, địa vật lý... vào công tác điều tra, thám dò tài nguyên
thiên nhiên. Nhiều kết quả nghiên cứu môi trường được đánh giá cao: Nghiên
cứu chính sánh và biện pháp bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái và
xử lý ô nhiễm nước, không khí ở các khu công nghiệp tập trung, các thành phố
lớn... các biện pháp trồng rừng, chống suy thái đất, cải tạo đất...

Việt Nam là nước sản xuất vaccine hàng đầu khu vực, một trong mười
quốc gia trên thế giới đóng được dàn khoan tự nâng, là quốc gia dẫn đầu về thiết
kế thi công nhà máy thủy điện cỡ lớn, làm chủ được công nghệ điều khiển mặt
đất và phân tích ảnh vệ tinh, là quốc gia đầu tiên chuẩn bị xây dựng nhà máy
điện hạt nhân an toàn nhất.
Khoa học – công nghệ đã chú ý phát triển các ngành khoa học tự nhiên
và công nghệ cao. Nhiều thành tựu toán học, cơ học, vất lý của ta... được đánh
giá cả ở nước ngoài. Công nghệ thông tin đã phát triển và mở rộng ứng dụng
trong hệ thống ngân hàng, quản lý hành chính, sản xuất, kinh doanh. Đồng thời,
công nghệ chế tạo vật hiệu mới, công nghệ sinh học, tự động hoá... đã từng bước
được quan tâm. Trong nông nghiệp. Nhờ áp dụng những tiến bộ khoa học – công
nghệ về giống cây trồng, quy trình kỹ thuật thâm canh và chuyển đổi cơ cấu mùa
vụ, chúng ta đã tuyển chọn, lai tạo hàng chục giống lúa mới, phù hợp các vừng
sinh thái khác nhau, tạo mức tăng trưởng quan trọng. Nghiên cứu và tạo nhiều
loại giống gia súc, gia cầm, có giá trị kinh tế cao, thúc đẩy chăn nuôi phát triển.
Hơn 10 năm qua, năng suất lúa bình quân đã tăng hơn 2 lần. Tổng sản lượng
lương thực 1998 đạt hơn 31 triệu tấn. Nhiều loại phân vi sinh, thuốc trừ sâu vi
sinh, chất kích thích tăng trưởng thực vật... đã được sử dụng vào sản xuất, bảo
vệ, phát triển các loại cây lương thực. Cơ cấu cây trồng đã được thay đổi cơ bản.
Trước năm 1989, từ chỗ còn thiếu lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất

15


khẩu gạo đứng thứ 3 thế giới, sau Thái Lan và Hoa Kỳ.
Về thuỷ sản, nhờ áp dụng kỹ thuật mới, nhiều năm nay, nuôi ba ba, sinh
sản đã thành nghề giàu có ở nông thôn. Đặc biệt, kỹ thuật nuôi tôm đã được ứng
dụng khắp nơi, tạo công ăn việc làm cho 350.000 ngư dân ven biển góp phần cải
thiện và tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành thuỷ sản, năm 1993 đạt 368 triệu
USD, 1994 : 551,2 triệu, 1996 : 670 triệu, 1997 : 750 triệu và 2000 : 1000 triệu,

tăng kơn 10 lần so với 1980. Việc nuôi trồng hải sản đã có sự đầu tư khoa học
thích đáng trong việc tận dụng mặt nước ao, hồ, nước biển, nước lợ, kết hợp sản
xuất nông nghiệp với nuôi tôm cá, phát triển nuôi trồng với giữ gìn môi trường,
môi sinh, nuôi xen ghép, quảng canh, chọn giống tốt... toàn ngành hiện có 59 cơ
sở đủ tiêu chuẩn sản xuất hàng xuất khẩu
Trong công nghiệp, hàng loạt kỹ thuật tiên tiến được áp dụng, tạo nhiều
sản phẩm chất lượng cao: hàng may mặc, thuốc lá, đồ nhựa, cao su, đồ điện máy,
điện tử... nhất là trong chế tạo máy móc, thiết bị phụ tùng và đổi mới công nghệ,
kinh doanh sản xuất ô tô, xe máy, nhằm giải quyết nguyên vật kiệu, thiết bị thay
thế. Trong công nghiệp đầu khí... đội ngũ cán bộ khoa học trong nước, đã có khả
năng tiếp thu và làm chủ công nghệ mới. Công nghiệp chế biến nông- lâm- hải
sản cũng được đẩy mạnh một bước.
Trong lĩnh vực năng lượng, nhiều công trình, nghiên cứu khoa học –
công nghệ đã tập trung vào công tác quy hoạch, sử dụng hợp lý các nguồn năng
lượng. Đổi mới công nghệ xây dựng các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện, nghiên
cứu các phương pháp giảm tổn thất năng lượng trong truyền tải điện và đổi mới
công nghệ. Hệ thống năng lượng đã phát triển nhanh chóng : 80% địa bàn xã ở
khu vực nông thôn, hơn 50% hộ gia đình đã có điện sử dụng. Bên cạnh đó, lò
phản ứng hạt nhân Đà Lạt đã hoạt động 3 lần trong nửa thế kỷ vừa qua, một lần
vào năm 1963, một lần vào năm 1984, và lần gần đây nhất là vào năm 2011. Lần
hoạt động thứ ba này diễn ra vào ngày 30/10/2011, đánh dấu một cột mốc quan
trọng trong lịch sử phát triển của lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Điều này một lần

16


nữa đã chứng minh rằng Việt Nam có khả năng cung cấp một nguồn năng lượng
nguyên tử ổn định; nó cũng đánh dấu một bước phát triển trong việc sản xuất
năng lượng trong nước nói chung.
Trong giao thông vận tải, khoa học – công nghệ đã góp phần quan trọng

vào việc nâng cấp và phát triển mạng lưới, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ,
đường sông... đã xây dựng một số công trình quan trọng bằng việc áp dụng các
công nghệ mới: Đóng tàu biển trọng tải 3.000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh
sân bay Tân Sơn Nhất, thắng thầu nhiều công trình giao thông ở Lào,
Campuchia... với việc áp dụng công nghệ mới trong gia cố nền móng và thi công
mặt đường.
Trong viễn thông, đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện
đại bằng việc áp dụng kỹ thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang... đủ mạnh để
hoà nhập mạng thông tin quốc tế và khu vực. Viễn thông nước ta hiện được xếp
vào một trong những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Bên cạnh
mạng lưới hữu tuyến điện phát triển rộng khắp với các loại hình dịch vụ đa
dạng, các hệ thống thông tin di động, máy sóng ngắn, cực ngắn, cũng phát triển
mạnh, được các tổ chức kinh tế, cơ quan trong và ngoài nước sử dụng. Thị
trường tin học nước ta những năm qua, có tốc độ tăng trưởng trung bình hằng
năm khoảng 40-50%. Hiện các cơ quan Đảng, chính phủ đang sử dụng hàng vạn
chiếc máy vi tính, trong đó lưu giữ nhiều thông tin, số liệu bí mật quan trọng.
Liên quan đến kinh tế, quốc phòng và an ninh quốc gia. Trên đà ấy, việc sử dụng
máy vi tính ở nước ta bắt đầu chuyển từ giai đoạn sử dụng riêng lẻ, sang hinh
thức sử dụng mạng cục bộ và mạng diện rộng. Dây chuyền sản xuất thiết bị điện
tử viễn thông tân tiến nhất ở khu vực Đông Nam Á được xây dựng và đưa vào
hoạt động bởi Trung tâm sản xuất thiết bị điện tử Viettel (một công ty con thuộc
tập đoàn viễn thông Viettel). Dây chuyền có công xuất thiết kế đạt tới 5 triệu
USB 3G/năm, hoặc 3 triệu máy điện thoại di động/năm hoặc 900.000 máy
tính/năm, phục vụ cho nhu cầu thị trường của Viettel - bao gồm cả những thị

17


trường nước ngoài mà Viettel đầu tư. Hiện nay, toàn bộ quy trình quản lý sản
xuât, quản lý chất lượng sản phẩm (từ đầu vào đến đầu ra) của dây chuyển đều

được tin học hóa bởi các phần mềm quản lý do Viettel tự phát triển, đáp đó, Việt
Nc ứng những tiêu chuẩn quốc tế cao nhất. Đây là bưóc đi đầu tiên, tạo tiền đề
xây dựng các dây chuyền tiếp theo trong chiến lược sản xuất thiết bị điện tử viễn
thông của Viettel.
Trong y tế, hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức khoẻ ban đầu, miễn
dịch học, cắt giảm, tỷ lệ mắc các chứng bệnh nguy hiểm: Lao, phong, sốt rét, ho
gà, bại liệt, sởi... Kết hợp y học truyền thống với y học hiện đại, sản xuất nhiều
mặt hàng thuốc mới. Nâng cao trình độ trong phòng và chuẩn đoán bệnh, ngăn
ngừa bệnh truyền nhiễm : viêm gan, viêm não Nhật Bản.... Nổi bật trong đó là
Khoa Phẫu thuật bụng - Bệnh viện 103, Hà Nội đã thành công trong việc xây
dựng và hoàn thiện một phương pháp phẫu thuật nội soi có thể loại bỏ các khối
u ở tuyến tụy. Đây là loại phẫu thuật cực kỳ phức tạp và liên quan đến các thiết
bị kỹ thuật cao. Sự thành công của phương pháp này đánh dấu một cột mốc và
Quy mới về phẫu thuật nội soi ổ bụng tại Việt Nam.
Đến nay nước ta đã có đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ hơn
800.000 người trinh độ đại hoc, 8.775 phó tiến sĩ- tiến sĩ, gần 3.000 giáo sư- phó
giáo sư, hơn 45.000 cán bộ nghiên cứu triển khai thuộc hơn 300 viện nghiên
cứu- trang tâm và hon 20.000 nhà khoa học vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy
trong 105 trường đại học, cao đẳng, hơn 80 cơ sở đào tạo sau đại học. Đây thực
sự là một vốn quý cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, được đào tạo từ
nhiều nguồn khác nhau.
Khoa học công nghệ Việt Nam đã có nhiều thành tựu, đáp ứng được yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam
có nhiều thành tựu và sản phẩm khoa học có vị trí xứng đáng trong khu vực và
thế giới.

18


Hạn chế

Đầu tư cho khoa học công nghệ còn ở mức thấp
2.2

2.2.1

Việt Nam chưa có chính sách khoa học công nghệ nhất quán thể hiện
bằng hệ thống pháp luật như các quốc gia khác. Thời gian qua Đảng và Nhà
nước đã có nhiều cố gắng tạo nguồn tài chính để đầu tư cho khoa học và công
nghệ nhưng chưa thể đáp ứng được nhu cầu phát triển. Theo số liệu thống kê từ
năm 1965 đến nay, mức đầu tư tài chính từ ngân sách nhà nước dành cho hoạt
động nghiên cứu và triển khai chiếm từ 0,2% đến 0,82% thu nhập quốc dân.
Trong 10 năm đổi mới, nước ta đạt được những thành tựu kinh tế đáng mừng,
tổng kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được nâng lên dần, nhưng do
giá cả hàng hóa tăng cho nên giá trị thực tế của vốn đầu tư không tăng. Theo số
liệu của Bộ khoa học – công nghệ và môi trường thì đầu tư tài chính cho khoa
học công nghệ chưa vượt quá 1% ngân sách tiêu dùng hằng năm. Chi phí bình
quân hằng năm cho một cán bộ khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước
khoảng 1.000 USD, rất thấp so với mức bình quân của thế giói hiện là 55.324
USD và kếm các nước trong khu vực châu Á. Mức đầu tư thấp nhưng lại phân
tán và không ít trường hợp sử dụng lãng phí. Tuy Đảng và Nhà nước đã có nhiều
chủ trương, nghị quyết sáng suốt, nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ và
coi trọng nó không kém gì các quốc gia khác trên thế giới, nhưng mức đầu tư
cho khoa học vẫn rất thấp. Có 2 khả năng lý giải tình hình trên. Thứ nhất, nếu
huy động gấp đôi vốn cho nghiên cứu khoa học và công nghệ thì việc nghiên
cứu khoa học có mang lại hiệu quả thiết thực hay không trong khi trình độ quản
lý khoa học hiện tại còn yếu kém. Thứ hai, ngân sách nhà nước trong nhiều năm
thâm hụt, phải bảo đảm chi cho nhiều ngành cũng quan trọng, do đó mức đầu tư
kinh phí cho khoa học nhiều khi lại phụ thuộc vào quan điểm của người lãnh
đạo và các cơ quan quản lý của Nhà nước. Rốt cục quy định trong các văn bản
và chỉ thị của Đảng dành 2% ngân sách hằng năm cho hoạt động khoa học và

công nghệ vẫn không thực hiện được.
Với mức đầu tư như vậy nên chỗ làm việc chật chội, thiết bị lạc hậu,
19


phòng thí nghiệm và cụng cụ thí nghiệm thiếu... cơ quan khoa học và công nghệ
chỉ có thể hoạt động cầm chừng, chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt mà
không thể tạo ra được thành quả khoa học có tầm chiến lược. Nếu không có các
chính sách điều chỉnh, các cơ quan nghiên cứu khoa học chắc chắn sẽ rơi vào
tình trạng tồi tệ hơn, đội ngũ cán bộ nghiên cứu có thể bị chia xẻ và giã từ
những công việc chuyên môn mà lâu nay họ tâm huyết.
2.2.2 Lực lượng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu

Kết quả điều tra 233 cơ quan khoa học công nghệ chủ yếu thuộc trung
ương cho thấy: trong số 22.313 cán bộ công nhân viên thì số người có trừửi độ
trên đại học là 2.509 người, cao đẳng và đại học 11.447 người và dưới cao đẳng
là 8.357
Trong số các cán bộ có trình độ tiến sĩ và phó tiến sĩ chỉ có 15,1% là nữ,
cũng trong số các cán bộ có trình độ học vấn cao này chỉ có 19,9% giữ các chức
vụ lãnh đạo.
So với yêu cầu phát triển thì nhiều ngành còn thiếu lực lượng lao động
có trình độ khoa học- kỹ thuật. Trước tình hình mở cửa nhiều công ty có vốn
đầu tư nước ngoài, công ty tư nhân đã thu hút số lượng đáng kể lao động có
trình độ chuyên môn cao từ các cơ quan khoa học công nghệ của nhà nước. Ở
tất cả các đối tượng lao động, số trường hợp ra đi nhiều hơn số trường hợp đến,
đặc biệt với số cán bộ khoa học có học vị cao, số ra đi vượt hẳn số đến.
Tuổi trung bình của cán bộ khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình
quân chung là 57,2 tuổi trong đó giáo sư là 59,5 tuổi và phó giáp sư là 56,4 tuổi.
Số cán bộ cán học vị, học hàm cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi tò
56 trở lên là 65,7%, riêng giáo sư chiếm tới 77,4% và phó giáo sư chiếm 62%.

Khi phân chia theo lứa tuổi các cán bộ khoa học công nghệ có học hàm thì phần
đông giáo sư có tuổi trên 60 và phó giáo sư có tuổi từ 56 đến 60. Khi một bộ
phận lớn các cán bộ khoa học chủ chốt đang về già và sẽ không có khả năng làm

20


việc thì đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại chưa được chuẩn bị bồi dưỡng đào tạo.
Thiếu hụt đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra trong tương
lai rất gần.
2.2.3

Sự phân bố lực lượng lao động khoa học không hợp lý
Có thể nói sự phân bố lực lượng lao động mất cân đối giữa các ngành,

các khu vực giữa các vùng, giữa các thành phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu
cho quá trình phát triển, càng làm sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa
các vùng, các ngành.
Một điều mà nhiều người nhìn thấy rất rõ là trong nhiều năm, đặc biệt
sau khi chuyển sang kinh tế thị trường thì các ngành khoa học cơ bản bị xem
nhẹ và dường như đang bị bỏ rơi. Đó là một cách nhìn rất thiển cận và hậu quả
của nó sau một số năm thấm dần sẽ gây tác hại nghiêm trọng. Khoa học công
nghệ là một hệ thống, cũng như một nền kinh tế nếu không có hạ tầng cơ sở tốt
thì không thể phát triển được. Trong khoa học nếu chỉ coi trọng những ngành
ứng dụng có lãi nhanh mà coi nhẹ khoa học cơ bản rút cục sẽ đưa khoa học đến
chỗ bế tắc và không có đủ năng lực tiếp thu làm chủ các lĩnh vực khoa học công
nghệ mới.
2.3

Những bất cập giữa khoa học – công nghệ và hoạt động kinh tế ở VN

Mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt

động kinh tế là cơ sở quan trọng bảo đảm cho sự phát triển của một quốc gia.
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt
động kinh tế lại bộc lộ những bất cập rõ rệt.
Mặc dù tồn tại số lượng đáng kể các cơ quan nghiên cứu khoa học công
nghệ và dưới nhiều dạng thực phong phú, nhưng các viện nghiên cứu, các
trường đại học thường mạng nặng tính hàn lâm và ít gắn bó hữu ích với các tổ
chức kinh tế. Ngoài mối quan hệ lỏng lẻo giữa cơ quan nghiên cứu và các đơn

21


vị kinh tế còn một khía cạnh nữa là bản thân hệ thống cơ quan nghiên cứu vẫn
thiếu phương pháp luận tiếp cận có hiệu quả tới hệ thống kinh tế. Ở đây đòi hỏi
sự hợp tác, trao đổi qua lại nhiều vòng giữa các nhà khoa học và đại diện của
các khu vực sản xuất.
2.4 Nguyên nhân của những thực trạng ấy.

Do tỷ lệ cán bộ khoa học – công nghệ trong các doanh nghiệp còn thấp,
cấu trúc và phân bố đội ngũ chưa họp lý, số cán bộ được đào tạo về các ngành
KH và KT chỉ chiếm 15,4% trong tổng số đội ngũ cán bộ KH- CN, sự phân bố
cán bộ KH- CN theo vùng lãnh thổ còn mất cân đối lớn. Đội ngũ cán bộ KH
đông nhưng chưa mạnh.
Các cấp uỷ đảng, các cấp chính quyền chưa thật sự coi phát triển khoa học
và công nghệ là quốc sách hàng đầu, chưa tập trung trí tuệ, công sức cho sự lãnh
đạo, chỉ đạo các hoạt động khoa học và công nghệ. Nhiều chủ trương đúng đắn
về khoa học và công nghệ trong các vǎn kiện của đảng chậm được thể chế hoá
về mặt nhà nước và chưa được thực hiện nghiêm túc.
Chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách thuế, chính sách tín dụng, chính

sách xuất nhập khẩu chưa khuyến khích và buộc các doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp nhà nước, tích cực ứng dụng những thành tựu khoa học và công
nghệ. Môi trường đầu tư và cạnh tranh chưa thuận lợi, chưa tạo được động lực
cho việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất - kinh doanh.
Chưa nhận thức đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư phát triển.
Đầu tư tài chính của Nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ còn quá
thấp. Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị (khoá VI) quy định mức đầu tư tối thiểu
2% Tổng chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ không được chấp
hành nghiêm chỉnh (trong nhiều nǎm tỷ lệ này chỉ dưới 1%). Việc phân bổ và sử
dụng ngân sách cho khoa học và công nghệ chưa hợp lý, chưa có hiệu quả. Nhà

22


nước chưa có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm huy động các nguồn vốn ngoài
ngân sách cho việc phát triển khoa học và công nghệ.
Thiếu chiến lược quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nên còn mất cân
đối về đào tạo và sử dụng. Nhiều chính sách cán bộ chưa thoả đáng và không
kịp thời đổi mới. Chế độ tiền lương mang nặng tính bình quân, lao động trí óc
chưa được đãi ngộ xứng đáng.
Việc sử lý sản xuất, xuấy nhập khẩu còn nhiều sơ hở, quy chế giám định
công nghệ chưa chặt chẽ nên nhiều thiết bị, công nghệ lạc hậu được nhập vào
nước ta, gây tổn thất lớn cho nền kinh tế và gây tác hại xấu đến môi trường.
Quản lý khoa học và công nghệ trong cơ chế thị trường còn lúng túng, bất
cập. Việc tổ chức phân bổ lực lượng còn phân tán. Việc quản lý các chương trình
còn mang nặng tính hành chính, còn dàn trải; chưa gắn chương trình nghiên cứu
với chức nǎng và nhiệm vị của cơ sở nghiên cứu, chưa đề cao tinh thần trách
nhiệm và phát huy tính chủ động của cơ sở; thiếu sự kết hợp giữa chương trình
kinh tế xã hội với chương trình khoa học và công nghệ. Nhiều cơ quan khoa học
chưa gắn với khoa học sản xuất, chưa chủ động phối hợp với địa phương để ứng

dụng các tiến bộ khoa học công nghệ.
Công tác đảng, công tác chính trị - tư tưởng trong một số viện nghiên cứu,
trường đại học còn yếu. Tác dụng lãnh đạo của tổ chức đảng ở những nơi này
còn hạn chế. Việc phát triển đảng trong trí thức chưa được quan tâm đầy đủ.
Chất lượng đào tạo cán bộ khoa học – công nghệ thấp, về trình độ, chưa
cập nhật công nghệ và tri thức hiện đại của thế giới, bị hổng nhiều về công nghệ
cao, quản tri kinh doanh, tiếp thị, ngoại ngữ... Đội ngũ cán bộ khoa học – công
nghệ nước ta có tiềm năng trí tuệ đáng kể, tiếp thu nhanh tri thức mới, nhưng
còn thiếu tính liên kết cộng đồng, khó hợp tác giữa cơ quan và cá nhân, thiếu
cán bộ đầu đàn có khả năng tổ chức và thực hiện những chương trình nghiên
cứu mang tính đột phá cao. Lực lượng chuyên gia giỏi ở các ngành hiện nay rất

23


mỏng, phần lớn chỉ nắm lý thuyết, thiếu thực hành.
Có sự mất cân đối lớn trong phân bố theo vùng lãnh thổ mạng lưới các cơ
quan nghiên cứu- triển khai. Nhiều cơ quan nghiên cứu có chức năng trùng lắp,
không đồng bộ. Việc sắp xếp và đầu tư cho các cơ quan này không theo các
hướng ưu tiên trọng điểm. Cơ sở vật chất của cơ quan nghiên cứu- triển khai các
trường đại học, nghèo nàn, lạc hậu: phần lớn được xây dựng và trang bị đã trên
30 năm trình độ thiếu bị thua kém ngay cả các cơ sở doanh nghiệp trong nước.
Đầu tư tài chính cho khoa học – công nghệ từ ngân sách, nhà nước ở nước
ta, hiện còn thấp. Do vậy, nền khoa học của ta chỉ giải quyết những vấn đề trước
mắt, chưa tạo được kết quả khoa học lớn, tầm cỡ chiến lược. Việc sử dụng tài
chính cho khoa học – công nghệ hiện nay với một cơ chế thường thúc ép chúng
ta rơi vào thế phả chi, chia bị động. Số chương trình và đề tà cấp nhà nước, cấp
bộ còn nhiều và dàn trải so với khả năng kinh phí hiện có. Nguồn ngoại tệ viện
trợ không điều chỉnh được trong phạm vi quản lý nguồn vốn khoa học – công
nghệ, nên hiệu quả còn thấp. Việc huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà

nước cho hoạt động nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, chưa có cơ chế và chính
sách đồng bộ để khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức tư nhân tự nguyện
đầu tư. Nhiều cơ quan nghiên cứu- triển khai, hoạt động khoa học – công nghệ
còn dựa chủ yếu vào ngân sách Nhà nước. Thực tế trên đã dẫn đến một nghịch
lý: vốn cho khoa học – công nghệ gần như duy nhất tò nhà nước lại bị phân chia
dàn trải. Trong khi đó, một số lĩnh vực cần đầu tư thích đáng :giáo dục y tế bảo
vệ môi trường hoặc những hướng nghiên cứu triển khách quan trọng mang ý
nghĩa chiến lược lại bị hạn chế do thiếu vốn .Việc thực hiện một phần vốn trong
tổng giá trị dự án đầu tư cho công tác nghiên cứu triển khai vẫn chưa được thực
hiện, do nghiên cứu khoa học công nghệ chưa được coi là một nội dung chỉ
trong cơ chế quản lý đầu tư.Vai trò của khoa học công nghệ chưa thể hiện bằng
biện pháp cụ thể về mức đầu tư tài chính,chế độ cán bộ, chưa tạo lập được hệ
thống chính sách thích hợp để thúc đẩy các nhà hoạt động sản xuất kinh doanh,

24


dịch vụ phải dựa trên khoa học – công nghệ và hướng theo nhu cầu của sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Sau khi được chuyển thảnh cơ quan quản lý nhà nước về các hoạt động
khoa học – công nghệ, Bộ khoa học – công nghệ và môi trường đã từng bước
phát huy vai trò quản lý nhà nước trong việc giám sát, kiểm tra các hoạt động
khoa học – công nghệ, quản lý nhà nước về chuyển giao công nghệ, trình độ
công nghệ trong sản xuất và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, công tác quản lý
chưa thể hiện được tính đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với quản lý kinh tế và xã
hội, chưa tạo lập thị trường rộng rãi cho khoa học – công nghệ. Nhiều công
trình khoa học khi áp dụng vào sản xuất, còn gặp trở ngại. Bởi sản xuất chưa
thực sự có nhu cầu khoa học. Cạnh đó, nhiều viện nghiên cứu có khả năng đáp
ứng nhu cầu của sản xuất, lại không có đơn đặt hàng. Hiện tượng tách rời gữa
khoa học và sản xuất còn phổ biến.

Thành tựu khoa học, các tiến bộ công nghệ, chưa được áp dụng rộng rãi
nên chưa tạo chuyển biến rõ nét về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản
xuất kinh doanh và dịch vụ. Chưa tạo được những ngành nghề mới xuất phát từ
kết quả của hoạt động khoa học – công nghệ. Thị trường cho khoa học – công
nghệ chưa được hình thành. Trình độ công nghệ nói chung còn ở mức thấp.
Trong các ngành công nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị hiện tại lạc hậu so với
thế giới và hình thành tò nhiều nguồn chắp vá. Mẩu mã hàng hoá đơn điệu, chất
lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh, xuất khẩu kém. Quy mô dự án còn
nhỏ, chưa tương xứng với tầm nhiệm vụ cấp nhà nước, phần lớn chỉ dừng ở quy
mô ngành, địa phương, hoặc cấp cơ sở, ít có tác dụng thúc đẩu sản xuất.
Công tác quản lý khoa học – công nghệ tuy đã được đổi mới, nhưng chưa
đồng bộ và hoàn chỉnh. Cơ chế quản lý các chương trình trọng đlúm cấp nhà
nước còn nhiều thủ tục rườm ràc không chặt chẽ, chưa bảo đảm tập trung các
nguồn lực vào những mục tiêu chủ yếu. Cơ chế chính sách hiện hành không
khuyến khích và bắt buộc các doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu triển khai

25


×