Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

NGƯỜI DẠY Ở ĐẠI HỌC VÀ GIAO TIẾP SƯ PHẠM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.54 KB, 23 trang )

CHƯƠNG 3: NGƯỜI DẠY Ở ĐẠI HỌC VÀ GIAO TIẾP SƯ PHẠM 3.1. Nhận thức
về vai trò của người dạy ở bậc đại học ; Cơ sở tâm lý học của hoạt động giảng dạy đại
học chúng tôi muốn bắt đầu phần này bằng cách nhắc lại một phần câu nói có liên
quan tới người dạy ở đại học của aber. anhstanh: “... The value of an education in a
liberal arts college is not the learning of many facts, but the training of the mind to
think some thing that cannot be learned from texbooks. It would be better if you began
to teach others only after you yourslf have learned something” { The Expanded
Quoteable Einstein-page 67,68 } Tạm dịch : “ ... Giá trị của nhà trường (Colleges- đại
học, cao đẳng) là huấn luyện cho người ta khả năng tư duy mà họ không thể học từ
sách. Dạy người khác cách học ( hoặc học một cái gì đấy!) trước tiên mình phải biết
cách học ( và biết tốt về cái đó!)... ! ” { Những câu đáng trích dẫn (mở rộng) của A.
Anhstanh- trang 67,68 } Đặc điểm chung của giảng viên đại học : ở đại học, sự sáng
tạo sư phạm đi liền với sự sáng tạo khoa học. Người giảng viên bộ môn khoa học
đồng thời phải là người nghiên cứu, tìm tòi phát hiện cái mới trong đó, mở rộng và
làm phong phú sâu sắc hơn những tri thức khoa học của bộ môn mình giảng dạy.
Dựa vào những phẩm chất nhất định của hai loại hoạt động trên, người ta phân biệt
một cách tương đối giảng viên đại học thành bốn loại sau: - Loại thứ nhất: là những
giảng viên có khả năng kết hợp tốt các hoạt động của nhà khoa học với hoạt động của
nhà sư phạm. Đây là những người có trình độ nghiệp vụ cao. - Loại thứ hai: là những
người làm tốt công việc của nhà khoa học nhưng giảng dạy còn yếu, không hấp dẫn
sinh viên trên giảng đường. Những giảng viên này phù hợp với công tác hướng dẫn và
nghiên cứu khoa học. - Loại thứ ba: bao gồm những giảng viên chỉ thực hiện các hoạt
động sư phạm mà không thực hiện tốt hoạt động nghiên cứu khoa học. Phần đông
giảng viên đại học thuộc loại này. - Loại thứ tư là những giảng viên yếu cả về hoạt
động sư phạm lẫn hoạt động khoa học.
Cấu trúc tâm lý hoạt động của nhà sư phạm được xác định như là mối liên hệ lẫn nhau
và tính kế tục trong các hành động của nhà sư phạm nhằm đạt được những mục đích
đã đề ra thông qua việc giải quyết các nhiệm vụ sư phạm. Trong cấu trúc có 5 thành
phần chức năng: Nhận thức, thiết kế, cấu trúc, giao tiếp và tổ chức.
- Thành phần nhận thức bao gồm các hành động có liên quan đến việc tích luỹ tri thức
và phương tiện đạt được nó, và các kỹ năng tìm tòi tri thức. Chẳng hạn như: kỹ năng




nghiên cứu một nội dung khoa học nào đó và phương pháp tác động (chuyển tải,
truyền đạt) đến người khác; kỹ năng tìm hiểu những đặc điểm lứa tuổi và loại hình cá
thể; kỹ năng tự phân tích và đánh giá quá trình cùng kết quả hoạt động của bản thân.
- Thành phần thiết kế bao gồm những hành động liên quan đến việc lập kế hoạch để
thực hiện các nhiệm vụ sư phạm và nghiên cứu được giao cũng như cách giải quyết
các nhiệm vụ đó. Có thể dẫn chứng một số kỹ năng sau: (a) kỹ năng dự kiến các hoạt
động của sinh viên; (b) Kỹ năng xây dựng kế hoạch giáo dục và giảng dạy; (c) Kỹ
năng thiết kế các biện pháp hình thành hứng thú học tập và hứng thú nghề nghiệp cho
sinh viên; (d) Kỹ năng xây dựng biện pháp và tổ chức kiểm tra đánh giá hoạt động của
sinh viên.
- Thành phần cấu trúc bao gồm các hành động có liên quan đến việc lựa chọn, săp xếp
nội dung thông tin học tập và giáo dục trong bài giảng, xêmina và các biện pháp khác.
Thành phần này biểu hiện trong các kỹ năng: (a) Kỹ năng lựa chọn, sắp xếp nội dung
thông tin cần truyền đạt tới sinh viên; (b) Kỹ năng dự kiến hoạt động lĩnh hội của sinh
viên; (c) Kỹ năng dự kiến hành vi ứng xử trong quá trình tác động tới sinh viên.
- Thành phần giao tiếp bao gồm những hành động liên quan tới việc hình thành mối
quan hệ hợp lý, có tính giáo dục giữa giảng viên và sinh viên. Thành phần này bao
gồm các kỹ năng như: (a) Kỹ năng thiết lập mối quan hệ đúng đắn với những đối
tượng tác động của giảng viên; (b) Kỹ năng xây dựng mối quan hệ đúng đắn với lãnh
48 đạo (theo chiều dọc) và đồng nghiệp (theo chiều ngang); (c) Kỹ năng phối hợp hoạt
động có tính chuyên môn hẹp của bản thân với những vấn đề ở tầm vĩ mô.
- Thành phần tổ chức gồm những hành động thực tiễn, tư tưởng, giáo dục để tổ chức
cụ thể mối quan hệ trong hoạt động sư phạm (và hoạt động khác) giữa giảng viên và
sinh viên. Thành phần này gồm các kỹ năng sau: (a) Tổ chức thông tin - thông báo; (b)
Tổ chức các hoạt động của sinh viên; (c) Tự tổ chức hoạt động của bản thân trong
quan hệ với sinh viên và người khác.
Cấu trúc tâm lý của hoạt động sư phạm thay đổi theo trình độ tay nghề của giảng viên.
Tay nghề sư phạm được biểu hiện ở bề ngoài và trong nhân cách. Những biểu hiện

bên ngoài của tay nghề sư phạm là: (a) Trình độ thực hiện hoạt động sư phạm; (b)
Chất lượng hoạt động sư phạm; (c) ứng xử phù hợp trong các tình huống sư phạm; (d)
Mức độ đạt kết quả của sinh viên. Những biểu hiện bên trong của tay nghề sư phạm


là: (a) Các phẩm chất nghề nghiệp (xu hướng và năng lực nghề nghiệp); (b) Thái độ
tích cực đối với lao động sư phạm; (c) Hứng thú và lòng yêu nghề sư phạm; (d) Năng
lực sư phạm.
Có 5 mức độ tay nghề hay trình độ hoạt động nghiệp vụ sư phạm của giảng viên:
- Mức độ tối thiểu (trình độ tái hiện sách GT): truyền đạt tri thức đã biết (đúng như
sách!)
- Mức độ thấp (trình độ thích ứng): truyền đạt và cải biến thông tin phù hợp với đối
tượng
- Mức độ trung bình (trình độ mô hình hoá cục bộ): có khả năng hình thành ở sinh
viên những tri thức- kỹ năng- kỹ xảo vững chắc theo từng phần của giáo trình hay
chuyên đề.
- Mức độ cao (trình độ mô hình hoá hệ thống tri thức): có khả năng hình thành ở sinh
viên những tri thức- kỹ năng- kỹ xảo vững chắc theo toàn bộ giáo trình và chương
trình cơ bản thuộc bộ môn mình giảng dạy.
- Mức độ cao nhất (trình độ mô hình hoá hệ thống hoạt động nhận thức): có khả năng
sử dụng bộ môn khoa học do mìmh đảm trách như một công cụ hình thành nhân cách
của sinh viên; có khả năng hình thành tư duy sáng tạo cho sinh viên, hình thành ở họ
kỹ năng khai thác độc lập tri thức mới và khả năng vận dụng chúng trong điều kiện
hoạt 49 động mới. ở mức độ này GV không chỉ năm chắc logic vận động của nội dung
dạy học mà còn hiểu rất tốt cấu trúc nhận thức và khả năng sáng tạo của SV từ đó làm
cho logic vận động của nội dung khớp nối với logic nhận thức của người học tạo điều
kiện cho họ tích cực, tự lực, sáng tạo tự chiếm lĩnh nội dung dạy học
3.2. Những vấn đề tâm lý trong giao tiếp sư phạm ở trường đại học
3.2.1. Khái quát về những vấn đề tâm lý trong giao tiếp
Giao tiếp là hoạt động trong đó người này tiếp xúc và đối tác với người kia để có sự

truyền thông tâm lý cho nhau hoặc để cùng nhau thực hiện một hoạt động nào đó sau
khi đã có sự truyền thông tâm lý. Giao tiếp là sự vận động và sự biểu hiện của những
quan hệ xã hội. Giao tiếp cũng là thước đo tính chất của các quan hệ xã hội, quan hệ
giữa các cá thể người với nhau. Căn cứ vào mục đích và nội dung của hoạt động giao
tiếp, có thể phân loại giao tiếp thành: giao tiếp thông tin, giao tiếp tình cảm, giao tiếp
giải trí vui chơi, giao tiếp ẩm thực, giao tiếp sư phạm,... Căn cứ vào tư cách của chủ


thể, có thể phân loại hoạt động giao tiếp thành: giao tiếp vì việc riêng, giao tiếp công
tác, kết hợp giữa giao tiếp công tác và giao tiếp việc riêng... Người ta còn phân loại
giao tiếp căn cứ vào địa điểm như giao tiếp ở gia đình; giao tiếp tại công sở, nơi công
cộng; giao tiếp trên đường đi lối lại. Hoặc căn cứ vào hình thức, phương pháp và
phương tiện như giao tiếp thông thường khi gặp gỡ, sinh hoạt chung, giao tiếp bằng
lời hay cử chỉ, giao tiếp qua thư tín điện thoại, giao tiếp bằng tặng vật, giao tiếp nhắn
gửi qua người trung gian... Các quá trình tâm lý, các trạng thái tâm lý, các thuộc tính
tâm lý có vai trò vô cùng quan trọng. Những cảm xúc và tình cảm nảy sinh trong quá
trình giao tiếp giữa cá thể A và cá thể B là do B đã tác động vào A bằng cách nào đó
khiến A nhận thức được rằng B là nguồn thoả mãn hay cản trở thoả mãn những nhu
cầu, hứng thú, nguyện vọng hay lý tưởng của mình. Những người có cùng xu hướng
hoặc có những quan điểm tương đồng trong xu hướng như cùng nhu cầu, cùng hứng
thú hay cùng nguyện vọng, lý tưởng thì dễ hiểu nhau, dễ thông cảm nhau và do đó quá
trình giao tiếp giữa họ có tốc độ nhanh và hiệu quả cao. Năng lực của mỗi cá nhân
cũng có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực khi thực hiện quá trình giao tiếp với nhau.
Trong giao tiếp, tính cách và khí chất của cá nhân được bộc lộ rất rõ nét. Người lịch
sự, khiêm tốn, thành thực, cởi mở, hẳn sẽ có nhiều lợi thế trong giao tiếp. Người có
khí chất hăng hái nhiệt tình sẽ giao tiếp dễ dàng, thu hút được cảm tình của đối tượng,
người có khí chất điềm tĩnh, đĩnh đạc rất phù hợp với nghề nghiệp đòi hỏi sự trân
trọng bối cảnh và người đối tác. Người có khí chất ưu tư hoặck nóng nảy thường
không được thuận lợi trong giao tiếp. Người có trí nhớ tốt hẳn sẽ giao tiếp với học
sinh-sinh viên một cách thuận lợi, dễ dàng tạo ra thiện cảm và bầu không khí sư phạm

tốt đẹp.
3.2.2. Đặc điểm giao tiếp sư phạm ở trường đại học
a. Đặc điểm của giao tiếp sư phạm
Hoạt động sư phạm là một loại hình giao tiếp chuyên biệt giữa một bên là nhà giáo
dục và một bên là người được giáo dục. Sẽ không có hoạt động sư phạm nếu không có
giao tiếp sư phạm. Nội dung của giao tiếp sư phạm là quá trình trao đổi những thông
tin (quá trình truyền thông tâm lý) khoa học, nghề nghiệp, là sự tác động có tính giáo
dục giữa các nhân cách trong hoạt động cùng nhau của giảng viên và sinh viên. Có thể
nói giao tiếp là phương tiện quan trọng để giải quyết các nhiệm vụ học tập, để bảo


đảm tổ chức hệ thống những nguyên tắc quan hệ giữa giảng viên và sinh viên nhằm
đạt hiệu quả giáo dục và giảng dạy. Giao tiếp cũng là quá trình và hình thành nhân
cách của người chuyên gia tương lai. Có thể định nghĩa: giao tiếp sư phạm là những
nguyên tắc, những biện pháp và cách thức tác động lẫn nhau giữa nhà giáo dục với
sinh viên mà nội dung của nó là trao đổi thông tin, chỉ định các tác động giáo dục -học
tập, tổ chức mối quan hệ sư-đệ và cũng là sự “chuyển giao” nhân cách nhà giáo dục
cho người học. Quá trình giao tiếp sư phạm được thực hiện bằng phương tiện ngôn
ngữ.
b. Các giai đoạn giao tiếp sư phạm:
- Giai đoạn định hướng trước khi giao tiếp: trong giai đoạn này, nhà giáo dục mô hình
hoá hoạt động giao tiếp với sinh viên khi chuẩn bị cho hoạt động giảng dạy sắp diễn
ra.
- Giai đoạn mở đầu quá trình giao tiếp: nhà giáo dục tổ chức giao tiếp trực tiếp trên
lớp với sinh viên ngay lúc đầu tiên tiếp xúc với họ.
- Giai đoạn điều khiển giao tiếp: là giai đoạn điều chỉnh, điều khiển và phát triển quá
trình giao tiếp. Đây chính là giai đoạn người giảng viên tìm các biện pháp phù hợp
trong hoạt động cùng nhau của giảng viên và sinh viên. Việc điều khiển quá trình sư
phạm được phát triển bởi phương pháp giảng dạy phù hợp với các nguyên tắc giao
tiếp. Cần lưu ý rằng, ngoài yêu cầu sư phạm còn có các yêu cầu tâm lý - xã hội đối với

bài giảng, chúng được giải quyết bằng quá trình giao tiếp sư phạm.
- Giai đoạn kết thúc giao tiếp: Kết thúc sự giao tiếp và phân tích, đánh giá các giao
tiếp đã thực hiện ở ba giai đoạn trước, đặc biệt cần đối chiếu với những dự kiến ở giai
đoạn thứ nhất, trên cơ sở đó chuẩn bị cho chu kỳ hoạt động giao tiếp tiếp sau. c. Một
số đặc điểm giao tiếp sư phạm ở trường đại học Giao tiếp sư phạm ở đại học có đặc
trưng quan trọng là tính “tiền-đồng nghiệp” giữa giảng viên và sinh viên-những
chuyên gia tương lai; làm giảm sự ngăn cách giữa giảng viên và sinh viên.
Do đó để giao tiếp sư phạm ở đại học đạt hiệu quả cao, cần đáp ứng một số yêu cầu
sau:
- Phải kết hợp giữa yếu tố “cho điểm” với yếu tố cộng tác trong quá trình giáo dục.
- Hình thành tình cảm nghề nghiệp giữa giảng viên và sinh viên.


- Chú ý đến sự phát triển tự ý thức của sinh viên; tránh những tác động độc đoán, áp
đặt trong giảng dạy-giáo dục.
- Chú ý tạo hứng thú nghề nghiệp cho sinh viên, tăng cường thực hiện giao tiếp sư
phạm thông qua hệ thống các hoạt động giáo dục cụ thể. Tạo khả năng nâng cao tính
tích cực xã hội. Tạo điều kiện để giảng viên và sinh viên có thể giao tiếp ngoài khuôn
viên giảng đường, phòng thí nghiệm,..., cùng sinh hoạt văn hoá nghệ thuật: camping,
picnic.
- Tích cực đưa sinh viên vào các hoạt động nghiên cứu khoa học và tạo điều kiện để
họ cùng làm việc với giảng viên trong nhiên cứu khoa học.
d. Phong cách giao tiếp sư phạm
Phong cách giao tiếp sư phạm là toàn bộ hệ thống những phương pháp, thủ thuật tiếp
nhận, phản ứng, hành động tương đối ổn định và bền vững của nhà giáo dục trong quá
trình tiếp xúc với người được giáo dục để thực hiện nhiệm vụ truyền đạt tri thức - kỹ
năng - kỹ xảo - nghề nghiệp và phát triển nhân cách toàn diện của người được giáo
dục.
Để đạt hiệu quả giao tiếp sư phạm, cần chú ý đến các nguyên tắc: (i) tôn trọng nhân
cách của đối tượng giao tiếp; (ii) Thiện ý trong giao tiếp; (iii) Vô tư, công bằng đối

với các đối tượng giao tiếp; (iv) Đồng cảm với đối tượng giao tiếp.
Có ba kiểu phong cách giao tiếp sư phạm thường thấy: (a) Phong cách độc đoán:
giảng viên có phong cách này thường không tuân thủ các nguyên tắc trên, vì thế các
giảng viên này gặp khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ với sinh viên; (b) Phong
cách tự do: thể hiện tính linh hoạt quá mức của giảng viên trong giao tiếp với sinh
viên, họ không làm chủ được diễn biến tâm lý của mình, họ tuy dễ dàng thiết lập quan
hệ với sinh viên nhưng cũng dễ bị “nhờn”, giảm sút uy tín, giao tiếp không được điều
khiển trọn vẹn; (c) Phong cách dân chủ: người có phong cách dân chủ là người tuân
thủ các nguyên tắc giao tiếp sư phạm nói trên, họ thường dễ dàng thiết lập quan hệ tốt
với sinh viên và đạt hiệu quả cao trong hoạt động sư phạm.
e. Nhân cách nhà giáo dục trong giao tiếp sư phạm ở trường đại học
 Những phẩm chất nghề nghiệp của người giảng viên đại học: giảng viên đại học
thực hiện hai chức năng: giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Do đó ngoài những phẩm
chất và năng lực chung cho các chuyên gia, họ phải có hai phẩm chất năng lực có ý


nghĩa nhất đối với hoạt động giáo dục ở đại học là xu hướng nghề nghiệp sư phạm và
năng lực sư phạm; xu hướng nghề nghiệp nghiên cứu khoa học và năng lực nghiên
cứu khoa học.
 Trong giáo dục đại học, những cặp phẩm chất và năng lực nói trên của giảng viên
có ý nghĩa quan trọng trong giao tiếp sư phạm. Người giảng viên tổ chức quá trình
giao tiếp với sinh viên có hiệu quả nhờ việc sử dụng các kỹ năng giao tiếp trên cơ sở
không ngừng nâng cao phẩm chất nghề nghiệp của mình.
 Các giảng viên đại học cũng nên lưu ý tránh bệnh chủ quan khi tiến hành giao tiếp
sư phạm với sinh viên. Cơ chế tâm lý của tính chủ quan của nhà giáo dục là tâm thế
không được ý thức về tính sẵn sàng tri giác; vì vậy, nếu nhà giáo dục mắc bệnh chủ
quan trong giao tiếp sẽ dẫn đến việc không đánh giá đúng đối tượng giao tiếp, do đó,
dễ dẫn đến những ứng xử sai lạc.
Để khắc phục tính chủ quan và định kiến, nhà giáo cần gần gũi với sinh viên hơn
thông qua các hoạt động chung với họ, nhờ đó hiện tượng tâm lý - xã hội nẩy sinh

trong hoạt động chung với sinh viên sẽ phong toả khả năng nảy sinh tính chủ quan của
nhà giáo dục.
Ngoài ra, họ phải có những tri thức cần thiết về tâm lý xã hội và tâm lý sư phạm để có
thể tổ chức quá trình giao tiếp sư phạm có hiệu quả và qua đó nâng cao kết quả hoạt
động sư phạm của mình.
Chúng ta đã khẳng định rằng sứ mệnh trọng tâm và những giá trị của giáo dục đại học
là đóng góp vào việc định hướng phát triển và đổi mới xã hội thông qua việc thực hiện
các nhiệm vụ trong đó nhiệm vụ trọng tâm là : Đào tạo những sinh viên tốt nghiệp có
đủ tiêu chuẩn về năng lực và trình độ và những công dân có trách nhiệm có thể kết
hợp những kiến thức và kỹ năng cấp cao, sử dụng phương hướng và nội dung liên tục
được trang bị cho tương lai và hiện hữu mà xã hội cần. Hiển nhiên vai trò của người
giảng viên đại học rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ này Tại sao chúng ta
cần tăng thêm hiểu biết của người giảng viên đại học? Muốn hiểu người, dạy người
trước hết phải hiểu mình! Khi chúng ta nhận định được chúng ta như những giảng
viên, điểm mạnh và điểm yếu của chúng ta, chúng ta trở thành vị trí tốt để đánh giá
sinh viên và thực hiện nhiệm vụ giảng dạy có ý nghĩa hơn; để làm được điều này cần
trả lời những vấn đề sau :


- Miêu tả những đặc tính chung của người giảng viên đại học;
- Đưa ra những mô tả chi tiết về khả năng giảng dạy của giảng viên;
- Dự tính tình hình của sinh viên và quản lý khả năng nghiên cứu của giảng viên;
- Dự tính tình hình phục vụ xã hội của giảng viên đại học;
- Phát triển và sử dụng công cụ đo lường kết quả hoạt động chuyên môn của người
GV đại học Giảng viên đại học là người không chỉ có khả năng giúp SV phát hiện và
giải quyết những vấn đề chuyên môn sâu của một ngành học mà còn là người gắn bó
với nghiên cứu khoa học; tức là người biết nghiên cứu để có thể hướng dẫn sinh viên
tự nghiên cứu. Theo truyền thống, giảng viên đại học được coi là hình mẫu trong
giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ xã hội. Dạy học, nghiên cứu và phục vụ xã hội là ba
nhân tố, theo phương pháp truyền thống nhân tố này được biết như các trách nhiệm

gộp lại của giảng viên đại học. Công việc người giảng viên được mong đợi bởi sinh
viên, công chúng, và chính sự quản lý của tổ chức đó. Việc này có được bao trùm bởi
ba yếu tố truyền thống không? Nếu câu trả lời là không thì hãy nêu danh mục những
hoạt động không bao trùm những nhân tố nói trên. Sau đây là một trong số những đặc
điểm cần có của một GV đại học: 1. Hiểu cách học của sinh viên. 2. Các hoạt động
liên quan đến sự phát triển của sinh viên. 3. Tận tâm với công việc và sẵn sàng trao
đổi học thuật với đồng nghiệp. 4. Thường xuyên cập nhật kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ. Trình bày những đặc điểm này, hy vọng rằng giảng viên có thể :  Thiết kế
chương trình giảng dạy hoặc kế hoạch thực hiện công việc theo hướng đã đề ra với tài
liệu hoặc đề cương giảng dạy được chuẩn bị công phu;  Sử dụng tốt phương pháp
dạy học có kết quả và hiệu quả để có thể áp dụng với lớp đông, lớp ít người và lớp chỉ
có một thầy một trò (hướng dẫn NCS!);  Hỗ trợ sinh viên theo phương pháp phù hợp
để có thể để mở rộng trình độ của sinh viên;  Sử dụng những công cụ thích hợp
trong việc đánh giá phương pháp để trang bị cho sinh viên trong việc học và để ghi
nhận thành tựu dạy và học;  Đánh giá công việc của chính bản thân và đồng nghiệp
qua trình độ của chính họ cũng như các phương thức kiểm tra sinh viên và đánh giá
phương tiện kỹ thuật;  Thực hiện hiệu quả những vấn đề đưa ra trong dạy học và
trách nhiệm quản lí trườnglớp học;  Phát triển cá nhân và chiến lược nghiên cứu
khoa học thích hợp để đề ra các phương pháp thúc đẩy cho việc phát triển của cácsinh


viên. Một loạt các mục tiêu chính của giảng dạy đại học kèm theo các môn học cũng
như việc thay đổi kiến thức thực tế của sinh viên và tài liệu chuyên sâu của khoá học,
tăng cường những kinh nghiệm khác nhau về khả năng tiếp thu. (Ví dụ: kỹ năng
nghiên cứu, lập luận, kỹ năng viết và đọc), đánh giá việc bồi dưỡng trí tuệ của nội
dung các môn học. Rất nhiều môn học, mục tiêu chính trong giảng dạy đại học là
truyền đạt kiến thức và kỹ năng cho sinh viên đồng thời dạy cho họ cách tìm kiếm và
xử lí thông tin. 55 Người giảng viên đại học phải là người không ngừng tìm tòi và cập
nhật kiến thức. Thế giới của giáo viên là thế giới của học hỏi. Ngày nay thầy giáo, cô
giáo phải có những ý tưởng xa hơn như thế. Sự bùng nổ kiến thức ảnh hưởng đến

chúng ta và nội dung mới về giảng dạy của người giảng viên. Nó phụ thuộc vào việc
có thể chia sẻ kiến thức sinh viên cần cho cuộc đời của họ trong quá trình học ở
trường, do đó chúng ta cần nhấn mạnh khẩu hiệu “học cách học – dạy cách học” như
điều cốt yếu của giáo dục đại học. Vậy vai trò mới của người giáo viên là khuyến
khích tính ham hiểu biết của học viên, rèn luyện độc lập khám phá trí tuệ, tăng cường
khả năng tổ chức và sử dụng kiến thức. Nói chung, giúp người học đạt được năng lực
học suốt đời qua việc tự giáo dục. Để có thể dạy học có hiệu quả người dạy phải: Phải giúp cho người học nhận thức và cụ thể hoá mục tiêu cho mình một cách hợp lí Phải giúp cho người học hiểu được nhiệm vụ học tập đặt ra là để thực hiện mục tiêu
và có giá trị của nó - Phải chắc chắn các nhiệm vụ học tập được đề ra học sinh có khả
năng hoàn thành được và GV có khả năng nắm bắt được thông tin ngược - Bảo đảm
rằng lớp học là nơi đáp ứng được nhu cầu học tập thoải mái ( có văn hoá giao tiếp tốt )
và có thể triển khai các hoạt động học tập đa dạng - Có khả năng làm chủ được
phương pháp dạy học tương tác ( SP tích cực) và sử dụng thành thạo công nghệ dạy
học. GV là người khơi nguồn sáng tạo và bồi dưỡng được tính sáng tạo cho SV. @/
Dạy học là khoa học được biểu hiện rõ nhất thông qua các quy tắc, quy trình triển khai
cũng như quản lí việc dạy học ; nó bảo đảm rằng nội dung dạy học đã được người học
chiếm lĩnh chính xác và có hệ thống. GV làm chủ được kiến thức khoa học trong quá
trình chuyển giao Giáo viên thường được nói đến như một tấm gương đối với sinh
viên , một nhà nghiên cứu khoa học với ý thức cao, người mà sinh viên có thể học hỏi,
biểu hiện rất nhiều qua việc rèn luyện trí óc của các thầy cô. Vai trò mới của người
giáo viên coi như mẫu mực trong cách suy nghĩ và phương pháp nghiên cứu đối với


sinh viên thông qua hoạt động học thuật. Vì vậy năng lực của người giáo viên được
duy trì bởi sự thách thức của sự bùng nổ của thông tin, vận dụng trí óc trong việc phải
giải quyết những vấn đề khác nhau. Đây quả thực là một nghề khó và là nghề được
tôn trọng. Giáo viên có được may mắn với cơ hội đáp ứng lới kêu gọi này mỗi ngày.
Bạn có biết cách sử dụng cơ hội này như thế nào cho tốt đối với một người giảng
viên? Biểu 2.1 đưa ra những so sánh giữa cách ứng sử có hiệu quả của giảng viên đại
học . Lưu ý rằng trong dạy học hiện đại GV không phải bao giờ cũng là người “ cho’’
mà phải biết cách “nhận’’ từ người học các phản hồi . Bảng 2.1 ứng xử hiệu quả của

giáo viên đại học ứng xử hiệu quả : Dấu hiệu : SV gần gũi và tôn trọng : Nhanh nhạy,
thể hiện nhiệt tình Người bạn lớn của SV Thể hiện quan tâm đến sinh viên và các hoạt
động của lớp học Gần gũi với SV và hoạt động của họ Vui vẻ, lạc quan, Nụ cười là
điều cần thiết! Hóm hỉnh, hài hước Không ra vẻ nghiêm nghị , bận rộn . Thừa nhận và
chấp nhận lỗi của chính mình GV cũng là một con người Công bẵng, không thiên vị
SV rất nhạy cảm Giúp học sinh những vấn đề riêng tư cũng như những vấn đề trong
giáo dục – dạy học Coi SV không chỉ là học sinh của mình mà còn là “người thân , em
út” Thành thật ghi nhận sự cố gắng, nỗ lực của học sinh Công minh khi đánh giá Động
viên học sinh cố gắng làm cho mình tốt hơn Không định kiến, nên bao dung Các hoạt
động của lớp học được lập kế hoạch và được tổ chức tốt Hướng dẫn nhiệt tình, chia sẻ
kinh nghiệm Biết trước được những nhu cầu cá nhân SV là người lớn, trẻ tuổi, đang đi
học Hướng dẫn rõ ràng và thấu đáo Đây là phẩm chất sư phạm Không kỷ luật ầm ĩ,
nhưng có cử chỉ kiên quyết khi SV vi phạm Không nhạo báng, không dữ tợn khi trừng
phạt. Nếu muốn thực hiện vai trò hướng dẫn của mình GV phải chuẩn bị một cách kỹ
lưỡng từng giờ lên lớp của mình. Đề cương bài giảng chí ít phải chi tiết mục tiêu
người học phải đạt được khi kết thúc bài lên lớp; xác định chính xác nội dung bài học
như là chất liệu để thực hiện mục tiêu, lựa chọn các phương pháp, cách thức tổ chức
hoạt động nhận thức cho người học, phương tiện sẽ sử dụng để chuyển tải nội dung
của bài học cho người học và cách thức triển khai chúng và xác định hình thức đánh
giá mức độ đạt được mục tiêu bài lên lớp ngay sau khi kết thúc bài dạy học. GV trước
tiên phải xác định các kiến thức mà mình dự định dạy cho SVmột cách tường minh,
xác định các điều kiện tiên quyết và tìm mối liên hệ với các kiến thức mà người học
đã có. Để SV có hứng thú trước hết GV lên lớp phải có tâm huyết, hứng thú với giờ


lên lớp và truyền hứng khởi đó cho người học thông qua các hoạt động nhận thức mà
GV là người khởi xướng và điều khiển. Người dạy hoạt động với người học trong suốt
quá trình người học chiếm lĩnh nội dung học. Người dạy, để giúp đỡ phương pháp tiến
hành học của người học sẽ quyết định sự lựa chọn các phương pháp dạy học và các
phương tiện sư phạm liên quan tới các đặc tính của người học, lớp học, môn học và

môi trường thực hiện việc dạy học. Những gợi ý sau đây, giúp các giảng viên bắt đầu
một lớp được tốt, đặc biệt đối với giảng viên trẻ, ba công việc quan trọng trong ngày
đầu tiên lên lớp: Nắm bắt được đội ngũ cán bộ lớp, tạo không khí cởi mở và thân
thiện, đặt ra các dự tính cho học phần mình phụ trách và các tiêu chí thực hiện . Thăm
quan lớp học trước lần gặp mặt đầu tiên. Định vị và hình dung ra cách làm việc rõ
ràng cho đối tượng SV mà mình sẽ phục vụ. Kiểm tra một số thiết bị nghe nhìn (mic,
đèn chiếu hoặc máy chiếu) giáo viên sẽ sử dụng trong quá trình giảng. Tìm ra cách
khắc phục ngay sự cố. Cố gắng nhận thấy được truyền âm thanh giọng nói của người
giáo viên như thế nào cho tốt. Tin tưởng vào việc viết bảng của mình là rõ ràng. Tạo
thiện cảm ngay từ đầu là một bí quyết của nhiều GV có kinh nghiệm. Tạo cho mình
khả năng phán đoán trong giao tiếp trên lớp học. Ngày đầu tiên tiếp xúc với lớp nên
cung cấp cho sinh viên các cơ hội tiếp xúc được nhiều hơn với mình. Sinh viên cũng
hướng tới làm việc chăm chỉ và trả lời xác thực hơn nếu họ tin tưởng vào chỉ dẫn của
giáo viên . Ngay từ khi bắt đầu cũng như sau đó tạo khả năng nắm bắt về những gì cần
biết về sinh viên của bạn và biểu lộ sự quan tâm của bạn vào công việc của họ 58
trong suốt học kỳ ví dụ có thể tìm hiểu các địa chỉ liên quan đến sinh viên. Trong ngày
đầu nên để giúp sinh viên hiểu lớp học biểu thị các nhu cầu của họ như thế nào, và
chứng minh cho họ thấy sự tận tuỵ giúp đỡ của bạn để giúp họ học tốt phần mình phụ
trách. Lớp học bắt đầu và kết thúc đúng giờ. Có những câu hỏi khuyến khích và tạo cơ
hội cho sinh viên được phát biểu. Đứng cuối lớp trả lời các câu hỏi, nếu có thể thì
cùng sinh viên đi dạo sau khi kết thúc giờ lên lớp. Xem xét một số điều kiện quyết
định trước hết cho khoá học. Cho sinh viên biết các kỹ năng hoặc kiến thức mà chắc
chắn là họ sẽ lĩnh hội được cùng với các kinh nghiệm xen kẽ hoặc thực hiện ở khoá
học . Sự giúp đỡ có thể kỹ hơn cho những người không có những kỹ năng cần thiết .
Xác định được những yêu cầu mà bạn mong đợi sinh viên tham gia. Bên cạnh việc thu
lại tất cả các bài viết được phân công và đưa ra các bài kiểm tra, điều mà bạn hy vọng


ở được sinh viên trong suốt khoá học? Đưa ra và thảo luận thời gian biểu liên quan
đến học phần mà mình phụ trách của khoá học. Nghe các câu hỏi trong buổi đầu tiên

để giáo viên biết ngay những vấn đề trong suy nghĩ của sinh viên cho là quan trọng;
trước tiên có liên quan đến nội dung học. Cần cho SV biết các kho dự trữ sách , các
hiệu sách trong khu trường học, cách sử dụng thư viện, nếu có thể thì giới thiệu các tài
liệu tham khảo của môn học và địa chỉ cụ thể để tìm nó. Sử dụng các bản sao như thế
nào cho hữu ích? Sách giáo khoa được dự trữ ở các thư viện như thế nào? Tìm hiểu
nhu cầu nguyện vọng của SV trong quá trình lên lớp là một thao tác quan trọng của tư
tưởng dạy học lấy người học làm trung tâm : Tự giới thiệu bạn với lớp học. Làm quen
với sinh viên, ví dụ thông qua việc nói cho sinh viên biết những mong muốn của bạn,
một số vấn đề về hiểu biết của bạn ví như lần đầu tiên bạn đã quan tâm đến môn học
như thế nào.., tại sao bạn lại dạy khoá học này, quan điểm của bạn về cách học môn
học này.... Thể hiện lòng nhiệt tình của bạn trong lĩnh vực chuyên môn nói chung và
đối với môn học này nói riêng. Đối với nhiều sinh viên, tâm huyết của giáo viên đối
với môn học , khoá học là chìa khoá động lực thúc đẩy cho việc SV hào hứng học. 59
Yêu cầu sinh viên tự giới thiệu, sinh viên trình bày sơ qua về tên, địa chỉ, số điện
thoại, địa chỉ email, .., và nhu cầu, nguyện vọng chính đáng . Ví dụ, Bạn cũng có thể
hỏi sinh viên về các khoá học có liên quan đến mà họ đã tham gia, điều kiện trước tiên
họ phải hoàn thành, các môn học khác họ đăng ký trong học kỳ này, họ hy vọng được
học cái gì ở môn học này, thăm dò kỹ dự đinh và một số vấn đề liên quan những chủ
đề quan tâm. Bắt đầu buổi học bằng cách làm quen với tên sinh viên trong lớp. Với
cách làm quen tên các sinh viên của mình, bạn có thể tạo được không khí thoải mái
trong lớp, điều này sẽ khuyến khích tương tác lẫn nhau. Biết được tên của sinh viên
cũng có nghĩa là bạn luôn quan tâm đến họ cũng như là các cá nhân trong lớp. Bạn
điểm danh, hỏi cách phát âm đúng tên gọi và tìm hiểu sinh viên thích xưng hô như thế
nào. Nếu khoá học của bạn có ít sinh viên đăng ký, điểm danh trong hầu hết các buổi
gặp mặt để giúp bạn nhớ tên sinh viên. Suốt khoá học, điểm danh bằng tên sinh viên
khi bạn kiểm tra bài cũ hoặc hỏi vấn đáp, và thường xuyên dùng tên trong lớp, điều
này khá có ý nghĩa trên phương diện giao tiếp sư phạm . Đừng quên công nhận phần
đóng góp, sự ân cần giúp đỡ của bạn đối với các ý kiến của sinh viên sẽ khuyến khích
sinh viên tham gia bài giảng từ đầu đến cuối học kỳ. Yêu cầu sinh viên đưa ra danh



mục các mục tiêu mà học sinh hy vọng đạt được qua việc tham gia môn học. Có các
sinh viên trong các nhóm nhỏ hoặc cá nhân nào đó, danh mục từ 3 đến 5 mục tiêu về
kiến thức, kỹ năng, đánh giá, điều quan tâm, hoặc quan điểm trong các mẫu bảng kê
có in sẵn. Sinh viên cũng có thể phân mục tiêu của họ thành các nhóm để biết được họ
có thể đạt được ở mức độ khó như thế nào. Sử dụng các bản kê để xác định điều cần
chú ý của lớp học của bạn và lường trước các mảng vấn đề Chất lượng trong giáo dục
đại học là khái niệm bao quát toàn bộ các chức năng của giáo dục đại học, và các hoạt
động quyết định việc chuyển giao chất lượng như: Quy trình giảng dạy, các chương
trình khóa học, nghiên cứu , điều kiện thuận lợi, trang thiết bị, các dịch vụ cho cộng
đồng và tự đánh giá bản chất môi trường đại học Với sự bùng nổ kiến thức và sự nâng
cao tính tinh tế của công nghệ, chương trình giảng dạy giáo dục đại học cần phải được
phát triển và cập nhật thường xuyên để phù hợp với nhịp độ tiến triển so với những
nhu cầu xã hội và người học. 60  Cải tiến các vấn đề được dạy ở đại học bằng cách
sửa đổi nội dung để tăng tính thích hợp và cập nhật.  Bổ sung thêm những thiếu sót
hiện còn tồn tại trong chương trình học. Những thay đổi trong xã hội ngay lập tức có
những thay đổi tương ứng trong chương trình giảng dạy của các cơ sở giáo dục đại
học mà chúng ta có thể đoán được bởi vì nó là giới hạn của hình thức giáo dục và là
cơ hội cuối đối với việc thâm nhập giáo dục vào vòng quay thế giới công việc. Bên
cạnh đó, giáo dục đại học có khả năng tiếp thu liên tục nghiên cứu chính nó để đưa ra
điều chỉnh khả năng cả bên trong và bên ngoài. Tương tự, những phát triển mới trong
các lĩnh vực khác nhau, các ý tưởng và sự nhìn nhận mới đòi hỏi các thay đổi trong
chương trình giảng dạy ở đại học. Tất cả những điều này GV phải nhận thức trước một
bước Đối với người cán bộ giảng dạy đại học, những khuyến cáo sau đây của Unesco
về nghề dạy học là những lời khuyên bổ ích và thiết thực:  Dạy học vừa là nghệ
thuật vừa là khoa học, vì nội dung giáo dục không ngừng đổi mới và biến động nên
người giáo viên/giảng viên phải không ngừng nâng cao trình độ cả về tri thức lẫn kỹ
năng giảng dạy.  Dạy học là sự nghiệp suốt đời nhằm phục vụ xã hội, Tổ quốc và
nhân loại.  Dạy học là một hiện thân của/và là một thử thách đối với lòng tận tuỵ,
đức hy sinh, sự phấn đấu suốt đời; và tình yêu đối với công việc dạy học sẽ đòi hỏi

phải hành động vì lợi ích của công việc, cũng như vì thành tựu của đối tượng phục vụ


thay vì những lợi ích vị kỷ hay quyền lợi vật chất.  Dạy học được tôi luyện nhờ hiểu
biết sâu sắc bộ môn khoa học mà mình phụ trách và nhân cách của bản thân khi tham
gia đầy đủ vào quá trình giáo dục- giảng dạy hướng tới việc hình thành nên bầu không
khí tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau và hợp tác giữa thầy và trò, giữa các đồng nghiệp. 
Dạy học là một lĩnh vực của những nỗ lực không mệt mỏi, người giảng viên phải huy
động hết sức những hiểu biết đầy đủ nhất của mình cũng như nhiệt tâm cao thượng
nhất để thực hiện thiên chức của người thầy theo những chuẩn mực cao nhất về chất
lượng đào tạo và tự hoàn thiện. 61  Dạy học là nghề xứng đáng với niềm vinh dự vì
tính chất cao quý và cực kỳ cần thiết của nghề nghiệp đó đối với mỗi cá nhân cũng
như đối với toàn xã hội. Dưới đây là một số gợi ý để nắm được vai trò của bạn như
một giảng viên. Đưa ra các giải thích rõ ràng Sử dụng các ví dụ cụ thể, thích hợp và có
thật trong đời sống. Thực hành ứng dụng và trao đổi kinh nghiệm. Dùng ví dụ minh
hoạ, minh hoạ bằng các biểu đồ và đồ thị khi có thể. Sử dụng các dụng cụ nghe nhìn
thích hợp (phim ảnh, băng, bản đồ, máy chiếu …). Phát triển có hiệu quả phép ẩn dụ
hoặc phép loại suy cho các nội dung khó. Bàn luận về sự trợ giúp trí nhớ cho việc học
thuộc lòng các ý rắc rối. Lời diễn dải theo quy tắc hiểu ngôn ngữ. Nhắc lại các ý bằng
các cách khác nhau. Nói thật chậm đối với các ý khó và đặc biệt quan trọng. Hỏi lại và
nếu sinh viên không hiểu trước tiến trình giảng bài mới nên nhắc lại những ý cơ bản
làm kết nối với vấn đề sắp trình bày. Đưa ra các ý được trình bày một cách rõ ràng +
Cách trình bày có hiệu quả : Tốc độ trình bày phù hợp, đủ để hiểu và đưa ra được
phần cần chú ý. Nói chậm đủ để cả lớp tiếp thu. Phát âm rõ ràng. Điều chỉnh âm trong
khi nói, nên có giọng nói diễn cảm hơn là nói đều đều. Nói chôi chảy, không thừa và
ngập ngừng hoặc do dự và có thêm thán từ “à”, “ừ”... Phong cách nói tự nhiên, không
quá phụ thuộc vào nguyên bản bài đọc. Sử dụng công cụ trợ giúp giảng dạy thích hợp,
hiệu quả (ví dụ: bảng, máy chiếu, các bản tin phân phát đi …) Sử dụng mặt mạnh của
ngôn ngữ vật thể: diễn tả bằng cử chỉ, hành động, hoạt động. Tránh làm sao lãng bởi
tính cầu kỳ. Để mắt đến sinh viên. Đi quanh lớp, không chỉ ngồi ở một bàn hoặc chú

tâm hết trên bục giảng. Bày ra cách giải trí. Bao gồm cả tính hài hước. Dùng bảng, các
phương tiện nghe nhìn khác và các phương pháp đa dạng. Tạo không khí nhiệt tình sôi
nổi. Mô tả những kinh nghiệm có liên quan của cá nhân. Chỉ ra các ý cần chú ý về vấn
đề được đưa ra. Biểu lộ sự quan tâm đến môn học và giảng dạy. Đưa ra các thách thức


và những ý kiến thắc mắc. Nghiên cứu các vấn đề tranh cãi. Giới thiệu các chủ đề mới
và các cách thu hút. (Ví dụ: điều bí mật hoặc nghịch lý). Chỉ ra cách áp dụng thực
hành và các ví 62 dụ gây chú ý. Các vấn đề về môn học có liên quan đến các sự kiện
phổ biến và sở thích hoặc các hoạt động. Khuyến khích sinh viên đưa ra các ý kiến
mới, thắc mắc.. . Sử dụng các hoạt động đa giác quan, thông tin đa chiều.. Nên mở
rộng các ý khác nhau và các điểm nhấn mạnh. Để sinh viên tự do điền câu hỏi gợi ý
của giảng viên, để suy nghĩ độc lập. Chỉ ra và khảo sát tỉ mỉ các điểm được SV đưa ra
nhiều hơn là những gì thuộc về ý kiến riêng của bạn. Nên linh động trong cách suy
nghĩ. Sự tương phản trong việc áp dụng các phương pháp khác nhau. Giải thích nguồn
gốc, cổ vũ động viên và suy nghĩ độc lập. Khuyến khích giao tiếp. Thể hiện sự quan
tâm của bạn đối với sinh viên và các quan điểm của sinh viên mình. Nhạy cảm với sự
tiến bộ của sinh viên và động cơ thúc đẩy. Chỉ ra các vấn đề liên quan đến chủ đề môn
học để sinh viên tìm hiểu thêm. Hành động khi sinh viên không hứng thú hoặc có vấn
đề quá khó. Tạo cho sinh viên cảm giác luôn được đón tiếp nồng hậu (Ví dụ: thông
báo những giúp đỡ có giá trị, có thể tiếp xúc để đặt vấn đề). Khi sinh viên xin sự giúp
đỡ, nên thông cảm, kiên nhẫn, giúp ích và không chỉ trích thái quá. ứng xử thể hiện sự
bao dung. Cho sinh viên cơ hội trả lời các câu hỏi. Tiến hành đưa ra các câu hỏi và thu
lại câu trả lời với sinh viên. Thể hiện sự tán đồng với các ý kiến của sinh viên (Ví dụ:
lời chú giải rõ ràng chính xác, tán dương, mỉm cười, gật đầu). Tỏ thái độ tôn trọng,
các quan điểm, các quyền của sinh viên và các vấn đề khác. Chuẩn bị rõ ràng các mục
tiêu của môn học và góp phần thực hiện mục tiêu cho khóa học. Cung cấp cho sinh
viên đủ thông tin để chuẩn bị đánh giá. Cung cấp cho sinh viên lời chỉ dẫn chi tiết và
các câu hỏi mẫu thích hợp và cần thiết phục vụ việc đánh giá. Có lẽ phải nhắc nhở
ngay cho sinh viên và xác định các chủ đề quan trọng cho việc đánh giá. Sử dụng các

cách đánh giá dễ hiểu và hợp lý, khách quan. Việc cho điểm các bài công bằng và phù
hợp với mục tiêu đã đặt ra. Xem lại bản liệt kê các mục cần kiểm tra dưới đây. Sử
dụng bảng này để đánh giá chính bản thân bạn và các giáo viên khác trong khoa bạn.
Sự nhạy cảm đối với sinh viên, cấp độ lớp học : - GV giao tiếp ở mức độ phù hợp đối
với tâm sinh lí của sinh viên - Sách giáo khoa ở mức độ khó vừa phải đối với sinh
viên và được GV hướng dẫn cách tìm kiếm và sử dụng 63 - Giáo viên nhiệt tình
hướng dẫn sinh viên nghiên cứu tài liệu - Giáo viên nhận ra học sinh có chuyện buồn


hoặc lúng túng Việc chuẩn bị, tổ chức môn học; - Giáo viên chuẩn bị tốt cho lớp học Sinh viên hiểu giảng viên thông qua việc tổ chức lớp tốt - Giảng viên được ví như
người đạo diễn để đưa ra các ý chính tóm tắt trong bài giảng và nghiệp vụ sư phạm
thuần thục Kiến thức môn học: - Giáo viên hiểu biết toàn diện về môn học của mình Giáo viên biết hướng dẫn nghiên cứu tài liệu về lĩnh vực của mình - Giáo viên có am
hiểu tốt về chuyên môn trong lĩnh vực của mình Sự nhiệt tình (đối với môn học hoặc
với việc giảng dạy) - Giáo viên thể hiện sự quan tâm đến lớp học - Giáo viên là động
lực và có đầy nghị lực thúc đẩy - Giáo viên giải thích rõ ràng và cố gắng trả lời các
câu hỏi - Sinh viên có khả năng theo kịp và hiểu bài giảng trên lớp - Giáo viên liên kết
các nội dung một cách logic và hệ thống. - Giáo viên dùng tốt các ví dụ đã được chọn
để phân ra các điểm mũi nhọn - Giáo viên tóm tắt các điểm chính - Giáo viên làm
sáng tỏ các ý trừu tượng và làm rõ ràng các học thuyết - Giáo viên khuyến khích sinh
viên gặp mình để hỏi khi gặp các vấn đề khó - Giáo viên sẵn sàng cùng với sinh viên
trao đổi ý kiến ngoài giờ học - Giáo viên tận tâm duy trì việc gặp mặt với sinh viên Giáo viên mong muốn được góp phần giúp đỡ Đánh giá sinh viên công bằng; chất
lượng các bài kiểm tra - Nội dung nhấn mạnh trên lớp chính là những nội dung được
nhấn mạnh trong bài kiểm tra - Bài thi bao quát tài liệu mà GV đã hướng dẫn đọc - Kỳ
thi đòi hỏi sinh viên làm nhiều hơn là nhắc lại những thông tin căn cứ theo sự thực
nhận thức chứ không phải tái hiện lại những điều GV nói 64 - Kỳ thi cho phép sinh
viên bày tỏ tương xứng những gì mình đã học - Kỳ thi yêu cầu sinh viên tổng hợp các
phần khác nhau của môn học - Giáo viên nói cho sinh viên cách đánh giá trong khoá
học - Điểm được đưa ra dựa trên cán cân công bằng các yêu cầu của môn học và nội
dung môn học - Sinh viên được thoả mãn với cách mà họ được đánh giá trên cơ sở họ
được tự đánh giá - Sinh viên bị kiểm tra vấn đáp thường xuyên - Giáo viên thông báo

trước bài kiểm tra và kiểm tra vấn đáp - Giáo viên sử dụng nhiều phương thức đánh
giá Những điểm trên đây có thể cùng lúc sử dụng cho việc đánh giá giữa kỳ trong khi
đó vẫn có thời gian đưa ra các sửa đổi. Lưa chọn những kiến thức thu được cuối khoá
học được sử dụng hữu ích như kiến thức thu được của mình và cho việc đánh giá,
nhưng đánh giá giữa kỳ thường hữu dụng hơn cho việc cải tiến việc dạy. 3.2.3 Nghiên
cứu và phục vụ cộng đồng Nghiên cứu được đánh giá là quan trọng đối với giáo viên
đại học theo 3 cách chủ yếu. Thứ nhất, nó giúp nâng cao trình độ giảng dạy. Một giảng


viên ít nghiên cứu hoặc không nghiên cứu thường dùng bài giảng trong nhiều năm.
Các vấn đề mới được đưa ra trong bài giảng như kết quả của việc nghiên cứu. Thành
quả nghiên cứu được đưa ra từ nền tảng cập nhật thông tin trong bài giảng và việc
thực hành bởi giảng viên hoặc những người khác trong lĩnh vực. Những hứa hẹn cho
nghiên cứu đảm bảo giáo viên có thể giám sát hiệu quả nghiên cứu bởi sinh viên của
mình. Giáo viên hàng năm được vận động để giám sát thực hiện nghiên cứu của sinh
viên năm cuối đại học hoặc học viên cao học. Những thay đổi trong phương pháp
nghiên cứu, tài liệu, thủ tục nghiên cứu và những tài liệu cập nhật có thể chỉ được biết
bởi giáo viên, những người luôn cập nhật nghiên cứu. Do đó, công việc của giảng viên
và những vấn đề của các sinh viên mà chúng ta đang quản lý sẽ giúp ích bởi các hoạt
động ràng buộc trong nghiên cứu. Việc xúc tiến nghiên cứu phần lớn dựa trên việc
đóng góp kiến thức qua nghiên cứu và các công bố về sản phẩm nghiên cứu. 65 Dưới
đây là một số đặc tính của một nhà nghiên cứu giỏi: - Khả năng xác định vấn đề:
Nghiên cứu về vấn đề cần giải quyết. Vì thế khả năng nhận biết, chỉ ra và xác định
ranh giới của vấn đề là một đặc tính quan trọng của người nghiên cứu. - Khả năng
phác thảo phương pháp giải quyết vấn đề hiệu quả Nhận biết vấn đề là một việc, còn
phương pháp để giải quyết vấn đề đó lại là một việc khác. Nhà nghiên cứu cần phải có
khả năng khai thác đề cương hiệu quả và chi tiết để xử lý vấn đề. - Tài tháo vát trong
quá trình thực hiện kế hoạch nghiên cứu Không một công trình nghiên cứu hoặc kế
hoạch nghiên cứu nào là rõ ràng cả. Qua việc thực hiện, một số sự kiện không lường
trước được có thể xảy ra mà cần được thay đổi hoặc cải biến so với kế hoạch đã đề ra.

Nhà nghiên cứu giỏi nên tháo vát trong việc đưa ra các hướng giải quyết tình thế như
cải biến hoặc có những thay đổi. Hy vọng thiết bị kỹ thuật cần được cải tiến hoặc các
phương pháp kỹ thuật được điều chỉnh. Nhà nghiên cứu giỏi là người có khả năng đáp
ứng nhanh nhạy với những biến đổi này. - Yếu tố khách quan: Nghiên cứu là sự đi tìm
sự thật để tìm ra kết quả của một câu hỏi khách quan. Trong sản phẩm của nhà nghiên
cứu, số liệu thu được và sự giải thích, người nghiên cứu phải sử dụng tính khách quan,
đây là khuynh hướng trong suốt thời gian thực hiện kế hoạch nghiên cứu. - Yếu tố
trung thực: Yếu tố trung thực luôn phải có trong một bản báo cáo điều nhận thấy trong
quá trình nghiên cứu của một người nghiên cứu. - Tính kiên nhẫn: Người nghiên cứu
phải giữ đúng tiến độ nghiên cứu trừ trường hợp hoãn kế hoạch và các khó khăn phát


sinh ngoài tầm với. - Mong muốn được cộng tác với cá nhân khác: Những cố gắng
quản lý nghiên cứu một mình là điều tốt. Những cố gắng hợp tác và chung sức thì tốt
hơn, hai người cùng làm thì vẫn tốt hơn là làm một mình. Một đặc tính tốt của nghiên
cứu là khả năng có thể làm việc theo nhóm. Một người có thẻ đưa ra kiến thức, kinh
nghiệm và ý kiến về chuyên môn liên quan tới mảng đề án nghiên cứu để bổ sung kiến
thức và các kĩ năng của các thành viên khác trong nhóm nghiên cứu. Điều này cho
thấy nhóm cộng tác nghiên cứu các đề án nhận được sự đánh giá tốt hơn các đề án
nghiên cứu cá nhân. 66 - Khả năng quản lý người khác: Một nhà nghiên cứu nên có
khả năng quản lý công việc nghiên cứu của học viên và tổ chức nghiên cứu hiệu quả. Kỹ năng viết kế hoạch đề xuất trợ cấp có sức thuyết phục: Hầu hết các đề án nghiên
cứu chất lượng cao được trợ cấp bởi tổ chức hoặc các đối tác. Chỉ một số đề xuất
trong hầu hết các đề xuất gửi đến được chấp nhận trợ cấp từ phía quỹ tài trợ. Sự cạnh
tranh phát sinh bởi cách thức yêu cầu, vấn đề là các nhà nghiên cứu có thể viết kế
hoạch đề xuất có tính khả thi và một bản đề nghị trợ cấp có sức thuyết phục hay
không. - Kỹ năng trình báo cho xuất bản: Nhìn chung kết quả nghiên cứu sẽ được báo
cáo. Kỹ năng viết một bài báo chuyên đề để được xem xét đăng báo là xác nhận tiêu
chuẩn quan trọng của một nhà nghiên cứu. +/ Vài lời kết luận Chúng ta đưa ra một vài
ý tóm tắt các chức năng chính của người giảng viên đại học trong lĩnh vực giảng dạy,
nghiên cứu và phục vụ cộng đồng. Đối với giảng dạy chúng ta cần xác định những

điểm sau: - Hiểu cách học của sinh viên; - Vấn đề liên quan đến sự phát triển của sinh
viên; Đối với nghiên cứu chúng ta cần chú ý đến các đặc tính sau: - Khả năng xác đinh
vấn đề - Khả năng thiết kế kế hoạch nghiên cứu hiệu quả - Khả năng quản lý nghiên
cứu - Kỹ năng viết báo cáo nghiên cứu có thể chấp nhận. Đối với phục vụ cộng đồng
chúng ta cần chú ý đến các đặc tính sau: - Khả năng nhận biết nhu cầu của công đồng
bên trong ( nhà trường và SV); bên ngoài (Các đối tác) - Kỹ năng giải quyết các vấn
đề đặt ra từ cuộc sống và thực tế Tóm lại : "ở đại học được giảng dạy chủ yếu bởi
những người gắn bó với nghiên cứu khoa học ". Như vậy để giảng dạy tốt ở đại học
người giảng viên phải thoả mãn đồng thời 2 năng lực: Năng lực nghiên cứu khoa học
và năng lực sư phạm. Nếu người dạy không có khả năng tìm kiếm, lựa chọn thông tin;
không có khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề 67 thì khó mà dẫn dắt người học
theo mục tiêu đã nêu ra ở trên, khó có thể dạy "Cách học " cho SV ở đại học được.


Muốn dạy tốt ở đại học người dạy phaỉ thoả mãn một số yêu cầu sau: - GV phải có
kiến thức về môi trường GD ĐH; - GV phải biết mục tiêu, tính chất, đặc điểm của
ngành học, trường học mà mình đang dạy; - GV phải nắm vững mục đích, nhiệm vụ,
nội dung dạy học; - GV phải hiểu rõ người học, biết khai thác động lực và tiềm năng
của người học và hạn chế nhiễu ; - GV phải biết vận dụng quy luật, nguyên tắc dạy
học ở đại học và biết hướng dẫn SV tự học, tự nghiên cứu; - GV Phải biết vận dụng
các hình thức dạy học, phương pháp dạy học, sử dụng phương tiện dạy học, biết cải
tiến việc dạy học. Theo khuyến cáo của UNESCO yêu cầu đối với một giảng viên đại
học trong thời đại hiện nay ( bên cạnh chức năng truyền thống là phải biết nghiên cứu
khoa học mới dạy tốt được ở bậc đại học ) là : - Hiểu biết công nghệ thông tin và có
khả năng ứng dụng chúng trong dạy học - Thấu hiểu cách học trong môi trường thông
tin và thông lưu để có thể hướng dẫn SV học và có khả năng làm tố vai trò cố vấn cho
họ. - Có kiến thức đo lường và đánh giá trong GD và dạy học để đánh giá chính xác
khách quan kết quả học tập của người học góp phần khảng định chất lượng sản phẩm
đào tạo của mình.


IV. Những yêu cầu về nhân cách của người giảng viên
1. Những yêu cầu đối với người giảng viên với tư cách là nhà sư phạm
* Các phẩm chất cần có của giảng viên:
Người giảng viên phải có các phẩm chất cơ bản: Tận tụy với nghề, chấp nhận
nghề dạy học; Quan hệ đúng mực và có tình cảm trong sáng đối với sinh viên; Có lý
tưởng nghề dạy học; Gương mẫu trong lối sống, trong hoạt động chuyên môn và trong
việc thực hiện các nghĩa vụ công dân.
- Nhóm kỹ năng giảng dạy: Kỹ năng lựa chọn, vận dụng nội dung dạy học,
phương pháp dạy học, các hình thức tổ chức dạy học …; Sử dụng thành thạo các
phương tiện dạy học hiện đại.
- Nhóm kỹ năng giáo dục: Bao gồm các kỹ năng xác định mục tiêu, hình thức
giáo dục sinh viên theo chức năng nhiệm vụ đã được quy định; thực hiện nhiệm vụ
giáo dục đạo đức nghề nghiệp, các kỹ năng sống cho sinh viên…
- Nhóm kỹ năng nghiên cứu khoa học: Kỹ năng lựa chọn vấn đề và tổ chức quá
trình thực hiện một đề tài khoa học; kỹ năng hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học.


- Nhóm kỹ năng hoạt động xã hội: Kỹ năng tổ chức các hoạt động xã hội, kỹ
năng hướng dẫn sinh viên tích cực tham gia các hoạt động phong trào …
- Nhóm kỹ năng tự học: Người giảng viên cần biết lựa chọn các bước đi cho
mình: Làm gì trước, làm gì sau? Học cái gì trước, học cái gì sau và học như thế nào?
Ngoài ra, người giảng viên cần có kỹ năng hướng dẫn sinh viên tự tổ chức hoạt động
học tập một cách có hiệu quả.
2. Những yêu cầu đối với người giảng viên với tư cách là nhà khoa học
Người giảng viên phải nắm vững các phương pháp khoa học về giảng dạy và
giáo dục, biết sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật trong giảng dạy, thường
xuyên rèn luyện để nâng cao trình độ nghiệp vụ, tham gia tích cực vào hoạt động
nghiên cứu khoa học phục vụ đào tạo và đời sống xã hội.
Người giảng viên phải vạch ra chân lý khoa học cho sinh viên. Các tri thức khoa
học được giảng dạy chính là kết quả nghiên cứu mà giảng viên thu được. Người giảng

viên phải nghiên cứu cả hai lĩnh vực khoa học: lĩnh vực chuyên môn và khoa học giáo
dục.
Người giảng viên phải có phẩm chất của nhà nghiên cứu như lòng say mê khoa
học, óc quan sát, sự trung thực và thẳng thắn, dám theo đuổi chân lý khoa học trong
những điều kiện khó khăn …
Người giảng viên vừa phải đưa được các tri thức khoa học vào bài giảng, vừa
phải biết cách tác động đến sinh viên, thuyết phục sinh viên thay đổi quan điểm, thái
độ, chấp nhận các tri thức mà giảng viên truyền thụ.
Giảng viên phải có khả năng giảng bài sinh động, có khả năng thể hiện các biểu
cảm bằng ngôn ngữ phù hợp với yêu cầu của nội dung bài dạy; tạo ra không khí bình
đẳng giữa sinh viên và giảng viên để sinh viên mạnh dạn thể hiện quan điểm của bản
thân.
3. Các kiểu nhân cách giảng viên đại học
Dựa vào sự kết hợp những phẩm chất nhất định của hai loại hoạt động sư phạm
và hoạt động nghiên cứu khoa học của người giảng viên, có thể chia thành bốn kiểu
nhân cách giảng viên đại học như sau:
- Kiểu 1: Là những giảng viên có khả năng kết hợp tốt các hoạt động của nhà
khoa học với hoạt động của nhà sư phạm. Đây là những giảng viên có trình độ chuyên
môn giỏi, trình độ nghiệp vụ sư phạm cao, vừa giảng dạy tốt, vừa có nhiều công trình
khoa học chất lượng.


- Kiểu 2: Là những giảng viên làm tốt công việc của nhà khoa học, rất có lợi cho
công tác hướng dẫn và nghiên cứu khoa học của sinh viên nhưng lại giảng dạy yếu vì
không hấp dẫn sinh viên ở giảng đường, không được đánh giá cao trong giảng dạy.
- Kiểu 3: Bao gồm các giảng viên thực hiện tốt các hoạt động sư phạm nhưng lại
không thực hiện tốt hoạt động nghiên cứu khoa học; trình độ chuyên môn tuy không
cao nhưng kiến thức chắc chắn; tuy không có sự sáng tạo xuất sắc trong nghiên cứu
nhưng khá thuần thục trong giảng dạy.
- Kiểu 4: Là những giảng viên yếu cả về hoạt động khoa học lẫn hoạt động sư

phạm. Có thể họ vẫn là giảng viên nhưng đã bị đào thải trong lòng sinh viên.

Có thể phân loại các phẩm chất của giảng viên ngày nay dựa vào cơ sở các tiêu chí
cụ thể theo lĩnh vực hoạt động của họ:
- Giảng dạy
- Giáo dục sinh viên
- Nghiên cứu khoa học
- Nâng cao tay nghề
- Quản lý Bộ môn, nhà trường và các hoạt động khác
- Cuộc sống và sự nghiệp cá nhân
Mô hình tích hợp chung các phẩm chất của nhà sư phạm có thể được xem như là
một hệ thống các phẩm chất nhân cách, mỗi một phẩm chất của nó dùng để hiện
thực hóa các lĩnh vực hoạt động đã nêu trên.
Theo nghiên cứu của TSKH C. D. Reznik (Nga), toàn bộ những phẩm chất cần thiết
của giảng viên đại học được thể hiện mô hình khái quát, gồm 5 block:
Tinh thông nghề nghiệp;
Phẩm chất đạo đức;
Năng lực tổ chức
Sự năng động
Kỹ năngđiều chỉnh bản thân
Đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong cấu trúc phẩm chất của người giảng viên là
Tinh thông nghề nghiệp, bao gồm 8 nhóm phẩm chất: Trình độ cao về kiến thức, kỹ
năng theo chuyên ngành, văn hóa phương pháp luận, văn hóa hoạt động khoa học,


văn hóa thông tin, văn hóa hoạt động giáo dục, văn hóa lời nói, văn hóa chính trị.
Mỗi nhóm trong số đó phải bám hoàn toàn vào những phẩm chất hàng đầu. Ví dụ:
Nhóm Trình độ cao về tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thì những phẩm chất hàng đầu phải
có là: Kiến thức về:tâm lý học và giáo dục; lịch sử và phương pháp luận dạy các
môn; phương pháp dạy học; phương pháp tổ chức hoạt động độc lập của sinh viên

và chẩn đoán các kiến thức của họ;cách thức tổ chức hoạt động học tập; các
nguyên tắc xây dựng kế hoạch và tóm tắt bài học; Kiến thức cao về môn mình dạy;
Biết vận dụng một cách sáng tạo những kiến thức tích lũy được; năng lực tư duy
cao; sự uyên bác…
Ngoài ra, để thực hiện tốt chức năng của mình, người giảng viên hiện đại cần có
những thành tố cụ thể của tài nghệ sư phạm: kỹ năng phối hợp với mọi người ở các
mức độ (sinh viên, đồng nghiệp, lực lượng hỗ trợ, nhóm khoa học, người đứng đầu,
v.v…; thiết lập các mối quan hệ công việc và sáng tạo với đồng nghiệp; biết sử dụng
ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết để tác động đến sinh viên và đạt được hiệu quả hiểu
biết lẫn nhau; trở thành người có năng lực tiếp nhận, chiếm lĩnh và sử dụng thông
tin.
Nhà sư phạm lỗi lạc Nga V.A. Slastionin, trong tham luận tại Hội thảo quốc tế “Sư
phạm giáo dục: tiếng gọi của thế kỷ XXI, tổ chức tại Moskva ngày 16-17 tháng 9
năm 2010, đề xuất 6 phẩm chất và đặc điểm của nhà sư phạm ngày nay, đó là:
- Tính tích cực công dân và trách nhiệm xã hội cao của nhà sư phạm. Theo ông, một
người thầy như thế này không bao giò thờ ơ, vô cảm với trẻ em, với số phận của
trẻ;. Định hướng quan trọng nhất hoạt động của họ - trách nhiệm nghề nghiệp cao
cả.
- Tình yêu đối với trẻ, có nhu cầu và khả năng hiến dâng trái tim cho trẻ
- Trí tuệ, văn hóa tinh thần, mong muốn và biết làm việc với người khác
- Tay nghề cao, phong cách sáng tạo tư duy khoa học sư phạm
- Có nhu cầu thường xuyên tự đào tạo và sẵn sàng đối với việc này
- Có sức khỏe tâm lý và tinh thần, năng lực nghề nghiệp.
Điều 24 Điều lệ Trường đại học Việt Nam (2010) quy định cụ thể về tiêu chuẩn
giảng viên như sau:
Có phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt
Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm.
Có bằng thạc sỹ đối với giảng viên giảng dạy các môn lý thuyết của chương trình
đào tạo đại học; có bằng tiến sỹ đối với giảng viên giảng dạy và hướng dẫn chuyên
đề, luận văn, luận án trong các chương trình đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ;

Có trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng yêu cầu công việc
Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp
Lý lịch bản thân rõ ràng.
Trên đây là những yếu tố cấu thành mô hình nhân cách giảng viên đại học trong xã
hội hiện đại mà những ai muốn tồn tại cần phải phấn đấu và hoàn thiện liên tục, như


một nhà sư phạm nổi tiếng đã từng ví “Người giáo viên như đứng trước dòng nước
ngược, nếu không cẩn thận sẽ bị nước cuốn trôi”. .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Điều lệ trường đại học (Việt Nam)
2. V.A. Slastionin, Sư phạm giáo dục - Tiếng gọi của thế kỷ XXI”
Tham luận Hội thảo quốc tế ”Sư phạm giáo dục - tiếng gọi của thế kỷ XXI”, ngày 1617 tháng 9 năm 2010 tại Moskva.
3. C.D Reznik, O.A. Vdovina (2010), Giảng viên đại học: Công nghệ và tổ chức hoạt
động, Moskva.

/> /> />


×