Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

LỒNG GHÉP GIÁO DỤC GIỚI TÍNH VÀ SỨC KHỎE SINH SẢN TRONG GIẢNG DẠY SINH HỌC 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.33 KB, 57 trang )

Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

SKKN: KINH NGHIỆM LỒNG GHÉP GIÁO DỤC GIỚI TÍNH VÀ SỨC
KHỎE SINH SẢN TRONG GIẢNG DẠY SINH HỌC 8

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I.1. Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết
Lứa tuổi vị thành niên là một giai đoạn ngắn nhưng lại ảnh hưởng rất lớn tới
sự phát triển toàn diện của cuộc đời mỗi người. Giai đoạn này được thể hiện bằng
sự phát triển nhanh chóng khác thường về cả thể chất lẫn trí tuệ, tâm sinh lí, quan hệ
xã hội và tinh thần. Các em học sinh trung học đang ở độ tuổi vị thành niên có
nhiều bỡ ngỡ trước sự thay đổi của bản thân khi bước vào tuổi dậy thì và có nhiều
tò mò, thắc mắc về vấn đề giới tính nhưng lại không được giải đáp thỏa đáng. Mặt
khác, hiện nay, sự phát triển nhanh chóng các mặt của đời sống xã hội, sự phát triển
một cách ồ ạt các hệ thống truyền tải thông tin như internet, điện thoại di động…đã
làm ảnh hưởng đến những quan điểm, nhận thức về quan hệ tình dục, tình yêu, hôn
nhân ở thanh thiếu niên. Nhiều thanh thiếu niên bắt đầu quan hệ tình dục trong khi
chưa hiểu biết đúng đắn về sức khỏe sinh sản. Sự thiếu hiểu biết này có thể dẫn đến
những hậu quả trầm trọng : mang thai ngoài ý muốn dẫn đến nạo phá thai ở độ tuổi
vị thành niên; sinh con và nuôi con khi độ tuổi còn quá trẻ, làm dở dang việc học
tập; mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và
đời sống tinh thần sau này. Cung cấp thông tin về giới tính, giáo dục sức khỏe sinh
sản cho vị thành niên là việc làm cần thiết nhưng đến nay vẫn còn một số người cho
là vấn đề tế nhị, không nên đem ra rao giảng, bên cạnh đó, ở nhà trường, công tác
giáo dục giới tính vẫn còn bỏ ngõ, rất hiếm có giáo viên nào chuyên trách về vấn đề
này. Ở gia đình, một số phụ huynh còn rất e dè hoặc thiếu quan tâm đến việc giáo
dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho con em mình, một số khác có quan tâm nhưng
không đủ trình độ kiến thức để giải đáp hết các thắc mắc của con em mình về vấn
đề này. Trước những hậu quả nghiêm trọng từ sự thiếu hiểu biết về giới tính và sức
khỏe sinh sản của các em ở độ tuổi vị thành niên trong đó có học sinh trung học cơ
sở mà chưa có giải pháp nào ngăn chặn hữu hiệu. Muốn thực hiện được điều đó thì


việc mang lại phổ biến các kiến thức chuyên môn về cơ thể học, sinh lý học, tâm lý
học và các quan điểm về đời sống tình dục phải trình bày một cách công khai.
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

1


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

Trong giảng dạy sinh học ngoài việc truyền thụ những kiến thức cơ bản, đồng
thời phải lồng ghép việc giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học sinh có ý
thức bảo vệ cơ thể khỏe, sống lành mạnh ….
Với mong muốn giúp học sinh tích cực và chủ động trong việc tiếp thu chủ
đề này, từ đó các em có thể tự giải đáp những tò mò, thắc mắc của bản thân đồng
thời có những hành trang cần thiết cho việc chăm sóc sức khỏe bản thân ,tôi đã
mạnh dạn thực hiện tìm hiểu thu thập thông tin, một số phương pháp dạy học lồng
ghép nhằm khai thác có hiệu quả nội dung giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản
cho học sinh qua một số bài ở sách giáo khoa sinh 8
Đó là lý do tôi chọn đề tài này: KINH NGHIỆM LỒNG GHÉP GIÁO DỤC GIỚI
TÍNH VÀ SỨC KHỎE SINH SẢN TRONG GIẢNG DẠY SINH HỌC 8.
I.2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
Hiện nay, trong chương trình đào tạo của Việt Nam, vấn đề giáo dục giới tính
cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Chưa hề có môn giáo dục giới tính
được đưa vào nội dung giảng dạy. Vấn đề này được lồng ghép vào một số nội dung
trong môn sinh học hay một số bài trong môn Giáo dục công dân, địa lí. Tuy nhiên,
những nội dung đó vẫn còn chung chung, chưa đáp ứng được nhu cầu hiểu biết và
sự cần thiết phải nắm vững các kiến thức về giới tính của các em học sinh.
Thái độ của các em khi nói đến những vấn đề liên quan đến giới tính còn
khá dè dặt, các em chưa hề mạnh dạn trong quá trình tìm hiểu hay tiếp thu những
kiến thức đó. Trong khi có khoảng 95,7% các em học sinh khi được hỏi đều cho

rằng cần được trang bị đầy đủ các kiến thức về tâm - sinh lí và giao tiếp ứng xử
ngay trong giai đoạn THCS. Bên cạnh đó, đội ngũ giáo viên chuyên trách về những
vấn đề này hầu như chưa trường nào có. Các hoạt động giáo dục của nhà trường chỉ
dùng lại ở một số buổi nói chuyện với các chuyên gia về một số vấn đề sức khoẻ
giới tính, phòng chống HIV/AIDS...Các giáo viên giảng dạy các bộ môn khi đề cập
đến việc dạy các kiến thức về giới tính cho các em, một số người còn nói rằng: Giáo
viên nói ra những vấn đề đó còn cảm thấy ngượng nữa là các em học sinh.
Hậu quả của sự thiếu hiểu biết về giới tính không phải ai khác mà chính các
em phải chịu. Theo bệnh viện phụ sản Từ Dũ Hà Nội: Số sản phụ chưa đến tuổi 18
đến khám phá thai ngày càng tăng. Năm 2003 gấp 2 lần năm 2001, Riêng những
tháng đầu năm 2009, trung bình mỗi tháng có hơn 40 ca. Thực tế là tình trạng nạo
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

2


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

phá thai khi chưa lập gia đình xảy ra rất phổ biến, đến mức báo động. Theo một
nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường phát triển
(CGFED), Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế
giới (Đứng thứ 3 trên thế giới) với hơn 500.000 ca mỗi năm. Con số thực tế còn có
khả năng cao hơn do báo cáo và ghi chép không đầy đủ khi tình trạng phá thai
không an toàn tại các cơ sở y tế tư nhân rất khó kiểm soát…
Trong đó, 30% ca phá thai là ở lứa tuổi chưa lập gia đình. Đáng báo động có
tới 20% người nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên. Theo đó, những bà mẹ sinh con
trước 18 tuổi là khoảng 5% và khoảng 15% sinh con trước tuổi 20.
Chưa kể có khoảng 65% các ca nhiễm HIV là ở những người dưới 29 tuổi và
một phần không nhỏ rơi vào những đối tượng chưa lập gia đình,...
Theo báo cáo tổng kết của Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản TP HCM,

thời gian gần đây các ca nạo phá thai được ghi nhận ở các bệnh viện và cơ sở y tế
trong thành phố có xu hướng giảm, cụ thể năm 2008 là 116 nghìn ca, 2009 là 100
nghìn ca, 2010 là 89 nghìn, 2011 là 95 nghìn và 2012 là 89 nghìn nhưng số ca nạo
phá thai ở độ tuổi vị thành niên lại đang có xu hướng tăng lên.
Thống kê của Bệnh viện Từ Dũ trong sáu năm liên tiếp, tỷ lệ trẻ vị thành niên
phá thai trong tổng số những người phá thai tại viện này tăng nhanh qua từng năm.
Năm 2007, tỷ lệ này chiếm 3,1% thì đến 2011 là 6,8%, năm 2012 là 6,4%.
Trên cả nước, tỷ lệ phá thai vị thành niên năm 2012 là 2,3% trong tổng số
người đến làm thủ thuật. Số trẻ vị thành niên mang thai trong tổng số mang thai của
cả nước cũng tăng qua từng năm, năm 2009 là 2,9%, năm 2012 là 3,2%.
Cũng theo báo cáo, đây chỉ là số nổi, thực tế còn nhiều hơn vì các em không
khai đúng tuổi hay không dám đến bệnh viện để xử lí. Hậu quả của sự thiếu hiểu
biết về kiến thức giới tính làm các em dễ mang thai ngoài ý muốn, dễ mắc một số
bệnh như: Lậu, Giang mai, sùi mào gà, AIDS.
Xã hội hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề nên hay không
nên đưa chương trình giáo dục sức khoẻ giới tính vào chương trình giáo dục
THCS. Có ý kiến cho rằng: không nên vẽ đường cho hươu chạy, ý khác lại cho
rằng: Thà vẽ đường cho hươu chạy còn hơn để con em chúng ta lao xuống vực.
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

3


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

Vấn đề lớn được đặt ra ở đây là làm thế nào để lấp lỗ hổng trong công tác giáo
dục giới tính cho các em đang ở giai đoạn vị thành niên.
Theo ý kiến của cá nhân tôi, việc cần thiết phải trang bị cho các em các kiến
thức về vấn đề giới tính là không cần phải bàn cải. Với vai trò là một giáo viên
dạy môn sinh học THCS, tôi thấy có một số nội dung trong chương trình SGK có

đề cập đến một số vấn đề về dạng kiến thức GDGT. Nếu GV biết cách triển khai
tốt, khai thác bổ sung thêm một số vấn đề thì sẽ trở thành một bài dạy về giáo
dục giới tính rất tốt cho các em.
Trước đây, chúng ta áp dụng phương pháp dạy học vấn đề, trong đó lấy giáo
viên là trung tâm truyền đạt lại kiến thức cho Học sinh, do đó Học sinh học tập một
cách thụ động, thiếu sáng tạo dẫn đến hiệu quả giảng dạy không cao. Hiện nay,
công tác đổi mới phương pháp dạy học đang vận dung phương pháp dạy học khám
phá, lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên giữ vai trò tổ chức, giám sát, định hướng
các hoạt động của học sinh nhằm giúp các em tìm hiểu và lĩnh hội các kiến thức
mới.
Mục đích chung của môn Cơ thể người và vệ sinh ở THCS là cung cấp những
hiểu biết khoa học về đặc điểm cấu tạo và mọi hoạt động sống của con người. Trên
cơ sở đó, đề ra các biện pháp vệ sinh, rèn luyện thân thể, bảo vệ và tăng cường sức
khỏe, nâng cao năng suất, hiệu quả trong học tập,góp phần thực hiện mục tiêu đào
tạo những con người lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Những hiểu biết về cơ thể người giúp học sinh hiểu rõ cơ sở khoa học của các
biện pháp vệ sinh, phòng bệnh, cách sử lý các tình huống gặp phải trong đời sống
và sức khỏe của con người,trong đó có sức khỏe sinh sản.
Qua các phương pháp dạy mà hình thành cho học sinh phương pháp học tập bộ
môn nói riêng và phương pháp học tập tích cực và tự lực nói chung,tạo cho các em
có cách nhìn một cách có hệ thống về sự tiến bộ khoa học và công nghệ của xã hội
mới đối với người lao động.

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

4


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8


Giải pháp này giúp học sinh tích cực và chủ động trong việc tiếp thu kiến
thức về chủ đề này, từ đó các em có thể tự giải đáp những tò mò, thắc mắc của bản
than. Đồng thời có những hành trang cần thiết cho việc chăm sóc sức khỏe bản thân,
biết tự bảo vệ cơ thể, từ đó ý thức bảo vệ sức khỏe cho người thân cũng như gia
đình ở hiện tại cũng như tương lai sau này.
Vận dụng giải pháp này, học sinh sẽ có cái nhìn sáng suốt hơn về giới, về giới
tính, và có tình bạn trong sáng, học tập tiến bộ. Bên cạnh đó giúp các em có thể tự
bảo vệ mình trước những sự hiểu biết sai lầm.
Xã hội hiện nay đầy rẫy những cám dỗ, những thói hư tật xấu, những tệ nạn
xã hội. Như vậy, để có thể đứng vững và có lối sống lành mạnh thì đây chắc hẳn sẽ
là giải pháp rất thiết thực và hữu ích cho học sinh tuổi vị thành niên nói chung và
học sinh trường THCS Mỹ An nói riêng.
I.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Thực trạng về nhận thức giới tính và sức khỏe sinh sản của học sinh khối 8
trường THCS Mỹ An từ năm 2012 đến năm 2015.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
II.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
II.1.1. Cơ sở lý luận
Hiện nay với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, khoa học hiện đại, hàng
loạt phát minh mới ra đời đã tác động mạnh mẽ, làm thay đổi hầu hết các lĩnh vực
đời sống xã hội. Cùng theo chiều hướng đó, đất nước ta đang bước vào thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngành giáo dục đã có những đổi mới, nhất là nội dung và
phương pháp giảng dạy để đào tạo những con người tự chủ, năng động, sáng tạo, có
năng lực và biết vận dụng những thành tựu khoa học, công nghệ vào các lĩnh vực
trong đời sống.
Tuổi vị thành niên được định nghĩa là giai đoạn chuyển tiếp của sự tăng
trưởng và phát triển từ cuối trẻ em đến bắt đầu tuổi trưởng thành, từ 13-19 tuổi.
Tuổi dậy thì, nói chung có thể chia làm ba giai đoạn( bắt đầu, trung gian và cuối) ,
hoặc tiền dậy thì, dậy thì và sau dậy thì.


Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

5


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

Suốt lứa tuổi vị thành niên có nhiều thay đổi về mặt thể chất, cảm xúc và xã
hội diễn ra ở mỗi cá nhân. Những thay đổi này xảy ra đồng thời hoặc từng đợt nối
tiếp nhau trong tất cả ba lĩnh vực nói trên. những thay đổi đó liên quan tới nhau ảnh
hưởng lẫn nhau.Tuy vậy, để nhận biết và hiểu biết các thay đổi quan trọng đó, ta
xem xét riêng từng phương diện, song bao giờ cũng cần nhớ rằng trong cuộc sống
thực, chúng không hoàn toàn diễn ra đúng như vậy.
Những biến đổi về tâm sinh lý ảnh hưởng mạnh đến lối sống, nếp sinh hoạt,
quan hệ xã hội và sự phát triển nhân cách.Tuy nhiên, đây cũng là những vấn đề
chưa được nhiều bậc phụ huynh quan tâm. Phim ảnh, báo chí, những nếp sống, hoạt
động không lành mạnh, ăn chơi, ma túy... làm cho các em dễ bị lôi cuốn, bị sa ngã,
bị xâm hại tình dục.....
Vậy nên tôi chọn đối tượng nghiên cứu là học sinh khối lớp 8 thông qua
giảng dạy bộ môn sinh hoc lớp 8 để giáo dục cho học sinh ý thức bảo vệ sức khỏe
của mình. Bởi vì đây là lứa tuổi giao thời giữa thiếu niên và thanh niên , do vậy các
em có nhiều chuyển biến về nhận thức. Trong thực tế cho thấy đa số các em có ý
thức tốt , nhưng bên cạnh đó vẫn có những em nhận thức sự việc còn thiên về cảm
tính, bắt chước, chưa có sự chọn lọc nhưng các em lại không nhận thức được điều
đó. Trong những trường hợp như vậy giáo viên và phụ huynh cần có biện pháp giúp
đỡ, chỉ bảo, giáo dục cho các em để các em nhận thức được sự việc, sự tác hại của
những trò, những việc làm, từ đó các em có ý thức cao hơn trong mọi hành vi, việc
làm của mình đối với cơ thể mình.
Với biện pháp vừa truyền thụ tri thức, vừa giáo dục cho học sinh có ý thức

đối với bản thân, để hình thành nhân cách, ý thức cho học sinh, để các em trở thành
một con người vừa có tri thức vừa có đạo đức. Đạo đức có thể nói là cái gốc của
con người. Người Trung Quốc có câu “ Nhân chi sơ tính bổn thiện” nghĩa là con
người khi sinh ra ai cũng hiền, ai cũng thiện cả còn về sau có thể trở thành người
tốt hay xấu đều do môi trường và giáo dục. Chính vì thế khi các em bước chân vào
ghế nhà trường ngoài việc truyền thụ kiến thức các thầy cô giáo cần phải dạy các
em những cái hay, cái đẹp cái tốt trong cuộc sống. Đối với bộ môn sinh học trong
trường trung học cơ sở góp phần cho học sinh có được những kiến thức cơ bản và
cung cấp những hiểu biết khoa học về đặc điểm cấu tạo và mọi hoạt động sống của
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

6


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

con người. Trên cơ sở đó, đề ra các biện pháp vệ sinh, rèn luyện thân thể, bảo vệ và
tăng cường sức khỏe.
Dạy sinh học 8 nhằm hình thành ở học sinh những hiểu biết về đặc điểm cấu
tạo, các bộ phận và chức năng của cơ thể con người. Nhằm giúp học sinh trong việc
tìm hiểu cơ thể của con người qua các bài học, đặc biệt trên mô hình thực tế. Từ đó
có thể nhận biết các cơ quan, bộ phận trên cơ thể mình, rèn luyện kỹ năng nghiên
cứu bộ môn, giáo dục cho học sinh ý thức bảo vệ cơ thể,vệ sinh một cách hợp lý,
đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục trung học cơ sở.
II.1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong những năm gần đây, tình trạng học sinh - sinh viên nạo phá thai hay vì
tình mà làm những việc không tốt ảnh hưởng tới việc học và tương lai của mình xảy
ra rất là nhiều. Những dấu hiệu đầu tiên của giai đoạn dậy thì thường xảy ra ở lứa
tuổi vị thành niên. Đó là khoảng thời gian tốt nhất để giáo dục các em về sự phát
triển giới tính. Nói chuyện với các em một cách cởi mở về những thay đổi tâm sinh

lý có thể xảy ra trong suốt thời kỳ quan trọng này.
Nhưng hiện nay không ít phụ huynh do bận kiếm sống, ít có thời gian gần gũi
các em, để các em tự tò mò về tình yêu, tình bạn và quá thơ ngây trước mối quan hệ
khác giới. Để rồi những "dại dột" của lứa tuổi này phần nhiều là những hậu quả
đáng buồn hoặc do bố mẹ không quan tâm hoặc ngại trao đổi, nên khiến con cái mất
"khả năng đề kháng". Khi rơi vào những hoàn cảnh khó nói, trẻ chỉ biết làm theo
bản năng. Cũng chính vì lý do này mà không may có thai, hay lỡ quan hệ với bạn
trai, các cô gái cũng không dám hé răng nói với cha mẹ mà tự tìm cách "giải quyết".
Cái khó nhất khi nói chuyện hay giáo dục chuyên về giới tính với các em
không phải sợ các em không nhiệt tình tham gia, mà chính là ở các thầy cô giáo, họ
rất e ngại khi nói về vấn đề này. Thuyết phục các thầy cô giáo trong trường giáo dục
về giới tính còn khó hơn các em. Trong khi đó các em lại có rất nhiều thắc mắc và
không phải chuyện gì cũng có thể tâm sự với cha mẹ.
Dễ nhận thấy rằng mối quan hệ lỏng lẻo giữa cha mẹ và con cái đôi khi đưa
các em vào mối quan hệ yêu đương sớm. Trong khi nhiều bậc cha mẹ vẫn tồn tại
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

7


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

những suy nghĩ, phong kiến như trao đổi, cung cấp cho trẻ những kiến thức về giới
tính là "vẽ đường cho hươu chạy". Vì thế họ không bao giờ trao đổi với các em về
những vấn đề này.
Có muôn vàn lý do để những đứa trẻ mới lớn đưa ra để "biện minh" cho
những việc làm đã lỡ của mình. Một điều đáng nói là, với trẻ em bây giờ, dậy thì
thường xảy ra sớm, rồi bắt nguồn từ sự tò mò trẻ con, từ thôi thúc của bản năng khi
có tác động ngoại cảnh, phim ảnh và biểu hiện thì muôn hình vạn trạng. Rồi bị ép
chứ không đồng ý, cả hai đều yêu nhau không kiềm chế được, bạn van xin phải

chứng minh tình yêu, gặp chuyện buồn trong gia đình không vượt qua được....
Chuyện gán ghép nhau rồi trở thành chuyện yêu như thật trong các em tuổi vị thành
niên là chuyện "thường ngày ở huyện", trong đó không loại trừ các em đang ngộ
nhận tình bạn khác với tình yêu.
Ở lứa tuổi vị thành niên lứa tuổi được xem trẻ con không ra trẻ con người lớn
không ra người lớn thì nhu cầu tìm hiểu về giới tính là rất lớn, thông tin bên ngoài
thì nhiều mà suy nghĩ của các em thì còn chưa chín chắn vì thế các bậc cha mẹ, các
bậc thầy cô giáo cần phải làm gì để giúp các em có những hiểu biết và suy nghỉ chín
chắn hơn, giúp các em tránh xa các sai lầm, nhất là các vấn đề liên quan tới giới
tính, để các em trưởng thành 1 cách toàn diện và tương lai tốt đẹp hơn đến với các
em.
Theo tôi, trong thời đại phát triển như hiện nay, việc đưa nội dung giáo dục
giới tính vào giảng dạy cho học sinh là vấn đề rất cần thiết, nhất là bậc học THCS
và cả THPT.
Không nhất thiết phải đưa “ giáo dục giới tính” thành một môn học chính
khóa mà nên lồng ghép nhiều hơn nữa kiến thức giới tính vào một số môn như Giáo
dục công dân hay sinh học… hoặc là nội dung, chủ đề chính của nhiều tiết học hoạt
động ngoài giờ…
Việc giảng dạy về nội dung giáo dục giới tính đòi hỏi người giảng dạy phải
nắm rõ thực tiễn và các kiến thức giới tính chính xác, hình ảnh hay ví dụ minh họa
rõ ràng gần gũi với đối tượng cần giảng dạy vì thế việc tổ chức một tiết dạy đòi hỏi
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

8


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

sự chuẩn bị trước. Giáo viên có thể dần một buổi truyền đạt kiến thức, thông tin về
giới tính rồi sau đó cho các em tạo nhóm, tìm hiểu một số tình huống trong đời sống

và tạo dựng các vở kịch trình diễn ở những tiết sau, cho các nhóm khác đặt các câu
hỏi tình huống để nhóm trình diễn trả lời, kết thúc các tiết mục thì giáo viên sẽ nhận
xét và tư vấn những thiếu sót cho các em rút kinh nghiệm.
II.2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp mới
II.2.1. Các biện pháp tiến hành
* Biện pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Dựa vào các tài liệu tham khảo liên quan từ đó tìm hiểu các khái niệm, thông
tin và số liệu về vấn đề giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản vị thành niên.
- Thực hiện soạn và dạy lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản đối
với môn sinh 8.
- Tham khảo các tài liệu chuyên môn.
* Biện pháp thực nghiệm:
- Tiến hành nghiên cứu thực trạng về sự nhận thức của học sinh về giới tính và
sinh sản. Tìm ra được những hạn chế, đồng thời thấy rõ những hiểu biết sai lầm của
học sinh trong trường, đặc biệt là khối 8 để đưa ra các biện pháp khắc phục hạn chế.
- Phát phiếu thăm dò ý kiến trước và sau khi nghiên cứu.
- Tổng hợp và rút kinh nghiệm.
* Tổ chức các buổi ngoại khóa tuyên truyền giáo dục giới tính và sức khỏe
sinh sản.
II.2.2. Thời gian tạo ra giải pháp
Từ năm học 2011-2012 đến năm học 2015-2016, tại Trường THCS Mỹ An.
Cụ thể:
- Từ năm học 2011 – 2012 đến năm học 2012 – 2013 tiến hành nghiên cứu,
tìm hiểu thực trạng về vấn đề giáo dục giới tính trong trường.

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

9



Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

- Năm học 2013 – 2014: tìm hiểu sự nhận thức về giới tính và sức khỏe sinh
sản của học sinh, cụ thể là học sinh khối 8. Trong năm học này, bản thân tôi được
nhà trường phân công đảm nhiệm nhiệm vụ tư vấn tâm sinh lí cho học sinh.
- Đầu năm học 2014-2015 thực hiện buổi tuyên truyền về giáo dục giới tính
cho học sinh khối 9
- Viết thô sáng kiến kinh nghiệm từ 2013 đến 2015.
- Hoàn thiện sáng kiến vào tháng 1/2016 để tham dự cuộc thi sáng kiến kinh
nghiệm cấp huyện, năm học 2015 - 2016

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

10


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

I.MỤC TIÊU
Giúp học sinh tích cực và chủ động trong việc tiếp thu chủ đề này, từ đó các
em có thể tự giải đáp những tò mò, thắc mắc của bản thân đồng thời có những hành
trang cần thiết cho việc chăm sóc sức khỏe bản thân, biết tự bảo vệ cơ thể từ đó ý
thức bảo vệ sức khỏe cho người thân cũng như gia đình ở hiện tại cũng như tương
lai sau này.
- Trang bị trí thức, hình thành ở HS những kiến thức cơ bản có hệ thống về
đặc điểm hình thái cấu tạo, chức năng các cơ quan cơ thể người.
- Phát triển năng lực nhận thức, rèn luyện các kĩ năng, nhận thức cảm tính, kĩ
năng quan sát, chú ý ghi nhớ nhận thức lí tính, kĩ năng so sánh, phân tích, tổng hợp,
khái quát hóa, trừu tượng hóa, cụ thể hóa, hệ thống hóa. Đây là những kĩ năng cần
thiết cho việc tự học và học tập liên tục sau này.

- Giáo dục giới tính và SKSS cho lứa tuổi HS khối 8 để phòng được một số
vấn đề nhạy cảm của lứa tuổi này. Giáo dục thế giới quan khoa học, vạch rõ mối
quan hệ giữa các cơ quan trong cơ thể. Giáo dục tình cảm đạo đức cho HS , bảo vệ
thiên nhiên, bảo vệ vẻ đẹp là góp phần giáo dục thẩm mỹ.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
II.1. Thuyết minh tính mới của đề tài
Qua các năm học, dưới sự quan sát của bản thân, tôi rút ra được một số biện
pháp để khắc phục thực trạng đã nêu trên:
II.1.1. Giải pháp chung để giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học
sinh 8:
Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy tại trường trung học, tôi nhận thấy
việc giáo dục giới tính cho học sinh là việc làm rất cần thiết. Vì giáo dục giới tính là
quá trình tác động hướng vào việc vạch ra những phẩm chất, nhân cách của con
người.

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

11


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

Ngày nay, do chất lượng cuộc sống ngày càng nâng lên, sự bùng nổ công
nghệ thông tin với nhiều phương tiện nghe, nhìn, sách, báo, phim ảnh về cuộc sống
gia đình, tình bạn, tình yêu, quan hệ nam nữ… là nguyên nhân dẫn đến sự phát triển
sớm về giới tính ở trẻ, đặc biệt là học sinh THCS.
Học sinh THCS thuộc lứa tuổi thanh niên mới lớn, đây là giai đoạn đẹp nhất
trong cuộc đời của mỗi con người nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp. Do
vậy, để học sinh THCS có kiến thức và hiểu biết về giới tính thì vấn đề giáo dục
giới tính cho các em là “nhu cầu” cần thiết. Giáo dục giới tính trong trường THCS

sẽ trang bị cho các em có thái độ, hành vi đúng đắn trong giải quyết các mối quan
hệ với bạn bè khác giới đặc biệt sẽ làm chủ trong việc giải quyết các vấn đề liên
quan đến tình yêu, hôn nhân và gia đình để góp phần xây dựng cuộc sống lành
mạnh, tốt đẹp.
Thực tế nhìn nhận việc giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản ở nước ta trong
những năm qua đã được đưa vào nhà trường phổ thông nhưng mới chỉ dừng lại ở
chương trình tích hợp, lồng ghép qua một số môn học như Sinh học, Văn học, Địa
lí, Giáo dục công dân… và một số hoạt động ngoại khoá của một số trường chỉ
mang tính thí điểm mà chưa thực sự thường xuyên, tự giác, tích cực chưa trở thành
nội dung bắt buộc. Bên cạnh đó đội ngũ giáo viên chưa được đào tạo một cách bài
bản, chuyên sâu về kiến thức cũng như kỹ năng… nên hiệu quả giáo dục giới tính,
sức khoẻ sinh sản trong nhà trường còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu hiểu biết của
học sinh cũng như yêu cầu đặt ra của xã hội. Đây là một trong những nguyên nhân
cơ bản, cùng với sự thiếu quan tâm, chăm sóc, giáo dục của gia đình cùng với
những luồng thông tin thiếu lành mạnh đã dẫn đến sự lệch lạc, thiếu hiểu biết trong
nhận thức, thái độ, hành vi của không ít thanh thiếu niên về sức khoẻ sinh sản. Để
khắc phục tình trạng này, cần đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa công tác giáo dục giới
tính và sức khoẻ sinh sản trong nhà trường phổ thông.
Trên cơ sở đó tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả và chất lượng công tác giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản cho học sinh
THCS là:
- Một là, cần xậy dựng lại nội dung giáo dục giới tính ở trường THCS một
cách bài bản có tính khoa học, logíc chặt chẽ và đầy đủ hơn.
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

12


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8


- Hai là, cần tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo về chủ đề “giáo dục
giới tính” trong đó có sự tham gia của các giáo viên, nhất là giáo viên dạy môn Giáo
dục công dân để họ có thể tiếp cận một cách khoa học, có tính hệ thống để vận dụng
vào quá trình giảng dạy. Đồng thời, họ có thể là những nhà tư vấn cho học sinh
THCS khi các em có nhu cầu trợ giúp.
- Ba là, cần tổ chức các diễn đàn, các hoạt động giao lưu giữa học sinh, giáo
viên trường THCS với các chuyên gia về lĩnh vực giáo dục giới tính để giúp học
sinh và giáo viên hiểu được vị trí, vai trò và sự cần thiết giáo dục giới tính ở trường
THCS.
- Bốn là, các trường nên thành lập các phòng tham vấn, tư vấn học đường
trong đó sẽ cộng tác với các chuyên gia về lĩnh vực này để giúp học sinh thoả mãn
nhu cầu được tư vấn về vấn đề giới tính và giải đáp được những băn khoăn, trăn trở
của tuổi học trò trước các vấn đề tế nhị muốn biết nhưng ngại hỏi.
- Năm là, nhà trường, đặc biệt là các giáo viên chủ nhiệm cần phải phối hợp
chặt chẽ và có hiệu quả với gia đình trong việc giáo dục học sinh, trong đó có vấn
đề giáo dục giới tính.
- Sáu là, cần tăng cường và phát huy vai trò của tổ chức Đoàn thanh niên
trong trường THCS tổ chức các hoạt động xoay quanh vấn đề giáo dục giới tính
nhằm tuyên truyền, tạo sức lan toả rộng rãi và hiệu quả.
- Bảy là, thành lập Câu lạc bộ “sức khoẻ sinh sản” ở các trường THCS để
giúp học sinh giao lưu, chia sẻ những thắc mắc về vấn đề giới tính.
Tóm lại, việc giáo dục giới tính nói riêng, giáo dục sức khoẻ sinh sản cho học
sinh THCS nói chung không chỉ là vấn đề nên làm mà đã trở thành việc phải làm và
thực hiện đồng bộ sâu sắc. Nhất là hiện nay chưa có một môn học chuyên về giáo
dục giới tính và sức khỏe sinh sản, các môn học có nhiệm vụ tích hợp giáo dục nội
dung này như môn Giáo dục công dân cần thực hiện một cách nghiêm túc tránh làm
hình thức. Để làm tốt việc này cần chung tay của toàn xã hội.
* Về phía giáo viên bộ môn:
- Thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn để giải thích một cách cặn kẽ,
chính xác và khoa học cho học sinh hiểu rõ những thắc mắc về bản thân.

- Tự tin và tự nhiên khi giải đáp thắc mắc cho các em.
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

13


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

- Khi được học sinh hỏi về những vấn đề liên quan giới tính cần giải đáp ngay,
tránh bỏ qua vấn đề, bỡi vì các em cần có câu trả lời để hiểu rõ. Một khi đã rõ sự
việc, các em không còn tò mò và sẽ không dẫn đến những hậu quả sai lầm.
* Về phía nhà trường:
- Bổ sung kịp thời những tài liệu mới, thiết thực có liên quan về vấn đề giáo
dục giới tính và sức khỏe sinh sản vị thành niên.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên và học sinh về phòng tư vấn, bỡi vì có
những điều tế nhị học sinh cần có khoảng không gian riêng để chia sẻ.
- Các giáo viên bộ môn khác cũng phải cố gắng lồng ghép giáo dục giới tính
cho học sinh, như giáo viên bộ môn GDCD…
- Nhà trường cần quan tâm đúng mức đến việc giáo dục giới tính cho học sinh,
bỡi vì điều đó sẽ giúp các em thấy được quan tâm hơn, và học tập tốt hơn.
* Về phía học sinh:
- Cần mạnh dạn đưa ra những câu hỏi, những thắc mắc của bản thân về giới,
giới tính và sức khỏe sinh sản.
- Trong các tiết học có liên quan tới giới tính, các em cần tập trung học, không
được ngại ngùng, và tự tin nêu những hiểu biết của mình về vấn đề đang học. Khi
được hỏi phải trả lời chân thật.
II.1.2. Giải pháp giúp học sinh nhận thức được vấn đề liên quan giới tính và
sức khỏe vị thành niên một cách đúng đắn và khoa học:
II.1.2.1. Định nghĩa các khái niệm liên quan đến giáo dục giới tính và sức
khỏe sinh sản:

Trẻ vị thành niên (VTN) từ 10-17 tuổi ở nước ta có khoảng 23,8 triệu người,
chiếm 31% dân số. Theo thống kê của Hội Kế hoạch hóa gia đình thì Việt Nam là
một trong ba nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới (1,2-1,6 triệu ca mỗi năm),
trong đó 20% thuộc lứa tuổi VTN, thậm chí có em mới 12 tuổi. Điều tra quốc gia về
VTN và thanh niên Việt Nam cho thấy, 7,6% trong độ tuổi này có quan hệ tình dục
trước hôn nhân. Đó là chưa kể tới rất nhiều ca nạo phá thai tại những cơ sở y tế tư
nhân nhưng không thể kiểm soát và thống kê được.
Tuổi vị thành niên được định nghĩa là giai đoạn chuyển tiếp của sự tăng
trưởng và phát triển từ cuối trẻ em đến bắt đầu tuổi trưởng thành từ 10-17 tuổi.
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

14


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

Tuổi dậy thì là giai đoạn chuyển tiếp của sự phát triển con người từ trẻ con
thành người lớn. Đặc trưng của giai đoạn này là sự phát triển đặc biệt mạnh mẽ cả
về thể chất, tâm lí, tình cảm và khả năng hòa nhập xã hội, cộng đồng. Tuổi dậy thì
nói chung có thể chia làm ba giai đoạn ( bắt đầu, trung gian và cuối), hay tiền dậy
thì, dậy thì và sau dậy thì.
Giới tính là một tập hợp những đặc điểm riêng biệt, tạo nên sự khác nhau
giữa nam và nữ, Ví dụ: đàn ông: to khoẻ, bộc trực, cứng rắn; phụ nữ: nhỏ yếu, kín
đáo, dịu dàng.
Sức khỏe sinh sản: Theo tổ chức Y tế thế giới, sức khỏe sinh sản (SKSS) là
trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội của tất cả những gì liên quan tới
bộ máy sinh sản chứ không phải là không có bệnh hay khuyết tật của bộ máy đó.
Như vậy SKSS bao hàm ý nghĩa là mọi người đều có thể có một cuộc sống
tình dục được thỏa mãn, có trách nhiệm và an toàn đồng thời họ phải có khả năng
sinh sản và sự tự do lựa chọn việc có sinh con hay không, thời điểm sinh con và số

con. Định nghĩa này cũng bao hàm cả quyền của phụ nữ và nam giới phải được
thông tin, tư vấn đầy đủ và được tiếp cận với các biện pháp kế hoạch hóa gia đình
an toàn, hiệu quả, phù hợp với khả năng và chấp nhận được theo sự lựa chọn của
bản thân họ, và quyền tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe phù hợp cho người
phụ nữ mang thai cũng như sinh đẻ an toàn.
Sức khỏe tình dục: Theo tổ chức Y tế thế giới, sức khỏe tình dục (SKTD) là
trạng thái thoải mái về thể chất, tình cảm, tinh thần và xã hội của tất cả những gì
liên quan tới hoạt động tình dục chứ không phải chỉ là không có bệnh, hoạt động bất
thường hay yếu ớt. SKTD đòi hỏi cách tiếp cận tích cực và tôn trọng đối với hoạt
động tình dục và các mối quan hệ giới tính, cũng như khả năng có được cuộc sống
tình dục an toàn và khoái cảm, không bị cưỡng bức, phân biệt và bạo lực. Để có và
duy trì SKTD, các quyền về tình dục của tất cả mọi người phải được tôn trọng, bảo
vệ và đảm bảo.
Trong suốt thời trẻ em, các cơ quan sinh dục không thay đổi bao nhiêu,
song trong giai đoạn vị thành niên, sự tăng trưởng từ dậy thì đến chín muồi diễn
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

15


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

ra theo một trình tự nhất định.Tuổi dậy thì được phát khởi từ vùng dưới đồi, nó
kích thích tuyến yên.Tuyến yên kiểm soát toàn bộ sự tăng trưởng, kích thích sự
sản xuất các hoocmon của buồng trứng, tinh hoàn và tuyến thượng thận. Các tác
nhân đặc hiệu của tuổi dậy thì là hoocmon giới tính Estrogen từ buồng trứng và
Testosteron từ tinh hoàn.Con gái thường đạt tới tuổi chín muồi sớm hơn con trai
2 năm. Tuổi dậy thì trung bình của trẻ gái là 11-14 tuổi, ở trẻ trai 13-16 tuổi. Mỗi
cá nhân có một thời gian biểu riêng, nam hay nữ cũng vậy thành thử có những
biến thiên lớn về thời gian, song trình tự chín muồi về giới tính thì như nhau.

Mặc dù chín muồi về chức năng sinh lý, người vị thành niên vẫn được xem
là trẻ em về mặt cảm xúc và xã hội . Người vị thành niên thấy sợ hãi bối rói vì
những cảm nghĩ mới mẻ về giơi tính này mà ngay cả bản thân,( và cả bậc cha
mẹ) , thường cho đó là “điều xấu xa”. Người ở lứa tuổi này cần có cơ hội bày tỏ
các cảm nghĩ đó và học cách là sao kềm chế và chuyển hướng các ham muốn tính
dục của mình. Đồng thời với sự tăng trưởng về giới tính,cũng diễn ra giai
đoạn”nước rút” của sự tăng trưởng toàn thân cơ rhể lớn lên từng ngày.Trong thời
kỳ dây thì, trung bình mỗi em cao thêm khoảng 9- 20 cm.Trong giai đoạn này, cơ
thể không chỉ lớn lên về mặt chiều cao và cân nặngmà còn cả về các kích thước
khác: đầu, ngực, mông, tay ,chân...tất cả các bộ phận cơ thể không lớn lên theo
cùng một tốc độ, nên người vị thành niên trông có phần không cân đối.
II.1.2.2. Lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản vào một số bài
học trong chương trình sinh học 8:
Ví dụ dạy Tiết 61 - Bài 58: TUYẾN SINH DỤC
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh.
Hoạt động 1 : Tìm hiểu chức năng của tinh hoàn và hooc môn sinh dục nam.
* Mục tiêu :
+ Nêu được chức năng kép của tinh hoàn.
+ Kể tên các hooc môn sinh dục nam và biết được ảnh hưởng của hooc môn sinh
dục nam đến những biến đổi cơ thể ở tuổi dậy thì.
* Yêu cầu HS nghiên cứu thông tin đầu * Đọc thông tin, trả lời:
bài trong SGK.
- Tại sao nói tinh hoàn là một tuyến - Tinh hoàn vừa sinh sản ra tinh trùng
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

16


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8


kép ?

(ngoại tiết) vừa tiết ra hooc môn sinh dục
có tác dụng đối với sự xuất hiện đặc điểm
giới tính nam (nội tiết) ,nên gọi là tuyến
kép.

* Yêu cầu HS quan sát thật kỹ tranh * Quan sát tranh, thảo luận nhóm, làm
H58.1 và 58.2 SGK, thảo luận nhóm, bài tập:
hoàn chỉnh thông tin mục I SGK

* Cho hs đọc lại đoạn thông tin đầy đủ

Các từ cần điền là:
1- FSH,LH;

2-Tế bào kẽ;

3-téstosteron
- Hooc môn F.S.H của tuyến yên gây - F.S.H của tuyến yên kích thích sự sinh
ảnh hưởng gì đến tinh hoàn ?

tinh trùng của tinh hoàn.

- Hooc môn LH của tuyến yên gây ra - L.H của tuyến yên kích thích tinh hoàn
tác dụng gì đối với sự hoạt động của tiết ra hooc môn Stestôstêrôn.
tinh hoàn ?
- Tinh hoàn có chức năng gì?


- Tinh hoàn sản sinh ra tinh trùng và tiết
hooc môn testôstêrôn gây biến đổi cơ thể
ở tuổi dậy thì của nam.

- GV chốt lại kiến thức.

* HS nam đọc kỹ nội dung bảng 58.1 ,

* Yêu cầu hs nam tự đánh dấu vào đánh dấu vào các ô lựa chọn trong phiếu
bảng 58.1 trong phiếu học tập, những học tập
dấu hiệu thấy xuất hiện ở bản thân
mình.
* GV thu lại đề phát hiện một số em
phát triển không bình thường để kịp
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

17


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

thời có lời khuyên thích hợp cho các
em
- Trong các dấu hiệu trên, dấu hiệu nào - Xuất tinh lần đầu là dấu hiệu của giai
là dấu hiệu của giai đoạn dậy thì chính đọan dậy thì chính thức.
thức ?
*GV lưy ý giáo dục ý thức giữ vệ sinh.
Hoạt động 2 : Tìm hiểu chức năng của buồng trứng và hooc môn sinh dục nữ.
* Mục tiêu :
- Nêu được chức năng kép của buống trứng.

- Kể tên các hooc môn sinh dục nữ và biết được ảnh hưởng của hooc môn sinh
dục nữ đến những biến đổi cơ thể ở tuổi dậy thì.
- Tại sao nói buống trứng là một tuyến - Buồng trứng vừa sản sinh ra trứng
kép ?

(ngoại tiết) vừa tiết hooc môn sinh dục có
tác dụng đối với sự xuất hiện các đặc
điểm giới tính nữ (nội tiết) , nên gọi là
tuyến kép.

* Yêu cầu HS quan sát H58.3 SGK, * Trao đổi trong nhóm lựa chọn từ cần
đọc thông tin tr58, làm bài tập điền từ.

thiết.

Các từ cần điền:
* Cho hs đọc lại đoạn thông tin hoàn

1/ Tuyến yên.

chỉnh.

2/ Nang trứng.
3/ Ơstrôgen
4/ Progesterôn

Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

18



Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

- Hooc môn FSH của tuyến yên gây - FSH của tuyến yên kích thích buồng
ảnh hưởng gì đến buồng trứng ?

trứng phát triển bao nõan và tiết
Ostrogen.

- Hooc môn LH của tuyến yên gây ra - LH kích thích buồng trứng gây sự rụng,
tác dụng gì đối với sự hoạt động của tạo và duy trì thể vàng.
buồng trứng ?
- Buồng trứng có chức năng gì ?

- Sản sinh trứng và tiết hooc môn sinh
dục nữ

- Hoocmôn dinh dục nữ có tên là gì?

- Hoocmôn Ơstrogen gây biến đổi cơ thể

chức năng gì?

ở tuổi dậy thì của nữ.

- Hoocmôn thể vàng có tác dụng gì ?

- Kìm hãm tuyến yên tiết LH

* Yêu cầu hs nữ tự đánh dấu vào bảng * HS nữ đọc kỹ nội dung bảng 58.2 ,

58.2 trong phiếu học tập, những dấu đánh dấu vào các ô lựa chọn.
hiệu thấy xuất hiện ở bản thân mình.
* GV thu lại đề phát hiện một số em
phát triển không bình thường để kịp
thời có lời khuyên thích hợp cho các
em
- Trong các dấu hiệu trên dấu hiệu nào - Xuất hiện kinh nguyệt lần đầu là dấu
là dấu hiệu của giai đoạn dây thì chính hiệu của giai đoạn dậy thì chính thức.
thức ?

*

* Kết luận về chức năng của buồng

Rút ra kết luận về chức năng của buồng

trứng?

trứng

 Lưu ý HS về việc giữ gìn vệ sinh
kinh nguyệt.
Qua tìm hiểu hai nội dung trên, giáo viên cần lưu ý cho học sinh: trong các dấu
hiệu biến đổi của cơ thể ở tuổi dậy thì , thì dấu hiệu quan trọng nhất là xuất tinh lần
đầu ở các em nam và sự hành kinh lần đầu ở nữ.Đây là dấu hiệu có khả năng sinh
sản, song các em chưa thể sinh sản được, Vì sao? Gv giải thích rõ cho các em vì sao
ở tuổi các em chưa sinh sản được.Đồng thời qua đó giáo dục các em cần có lối sống
trong sáng lành mạnh, trong quan hệ bạn bè, trong phim ảnh, vui chơi....
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương


19


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

Gv: giải thích một số thắc mắc của HS cũng như một sô hiện tượng thực tế:
“Pêđê” là do rối loạn hoạt động nội tiết ( các tê bào kẽ không tiết hoocmon
Testostêrôn hoặc tiết quá ít đối với các em nam, hoặc nang trứng không tiết ra
hoocmôn Ơstrrôgen hoặc quá ít với các em nữ) các đặc tính sinh dục phụ có thể
thay đổi do hoocmon phụ sinh dục song cơ quan sinh dục là yếu tố quyết định giới
tính không thể thay đổi.
Ví dụ dạy Tiết 63

CHƯƠNG IX: SINH SẢN

Bài 60,61: CƠ QUAN SINH DỤC NAM+ CƠ QUAN SINH DỤC NỮ
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh.
Hoạt động1: Tìm hiểu cơ quan sinh dục nam
* Mục tiêu: Nêu được các bộ phận của cơ quan sinh dục nam và vai trò của tinh
hoàn
* Yêu cầu hs nghiên cứu kĩ tranh H60.1, * HS quan sát tranh vẽ H60.1 , thảo luận
thảo luận nhóm, hoàn thành bài tập điền nhóm, làm bài tập.
từ

* Treo bảng phụ, gọi hs lên bảng điền từ. * Đại diện nhóm, lên bảng điền từ. Các
từ cần điền theo thứ tự: tinh hoàn, mào
tinh, bìu, ống dẫn tinh, túi tinh.
- Cơ quan sinh dục nam gồm những bộ - Cơ quan sinh dục nam gồm 1 đôi tinh
phận nào ?

- Chức năng của từng bộ phận là gì ?

hoàn, ống dẫn tinh, túi tinh, dương vật.
- Tinh hoàn là nơi sinh tinh trùng theo

* Dựa trên tranh, GV giới thiệu các bộ ống dẫn tinh về trữ ở túi tinh và được
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

20


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

phận và chức năng từng bộ phận.

phóng ra ngoài qua ống đái.

Qua đó giáo dục HS ý thức giữ gìn vệ
sinh cơ thể và đặc biệt vệ sinh sạch sẽ
cơ quan sinh dục.
2)
* Yêu cầu HS nghiên cứu thông tin mục * HS nghiên cứu thông tin và quan sát
II và quan sát tranh vẽ H60.2 SGK, trả tranh vẽ , nắm kiến thức, trả lời câu hỏi:
lời các câu hỏi sau:

1/ Tinh trùng được sản sinh ở đâu ? Khi 1/ Tinh hoàn là nơi sinh tinh trùng, sự
nào ?

sinh sản tinh trùng bắt đầu từ tuổi dậy thì.
2/ Tinh trùng là những tế bào rất nhỏ, dài


2/ Tinh trùng có đặc điểm về hình thái 0,06mm gồm: đầu, cổ và đuôi dài. Đầu
cấu tạo và hoạt động sống như thế nào ?

chứa nhân, nhờ sự chuyển động của đuôi
mà tinh trùng di chuyển được với tốc độ
3-4mm/phút trong âm đạo, tử cung vào
ống dẫn trứng. Tinh trùng sống được từ
3-4 ngày trong cơ quan sinh dục nữ.

.

3/ Có 2 loại tinh trùng: tinh trùng X và
tinh trùng Y

3/ Tinh trùng có mấy loại ?
* Gv bổ sung hoàn thiện kiến thức.
Tinh trùng chỉ được sản sinh bắt đầu từ
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

21


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

tuổi dậy thì và đây là dấu hiệu quan
trọng của tuổi dậy thì chính thức và đã
có khả năng sinh con. Tinh trùng được
sản sinh trong ống sinh tinh từ các tế bào
mầm trải qua phân chia giảm nhiễm ( bộ

nhiễm sắc thể đặc trưng giảm đi một
nửa). Tinh trùng nhỏ, vận chuyển nhanh,
khả năng sống lâu hơn trứng.
Qua đó giáo dục các em nếu trong giai
đoạn dậy thì mà có quan hệ tình dục quá
sớm thì nguy cơ có thai rất cao. Nhưng
giai đoạn này các em chưa thể sinh con
được vì rất nhiều lí do.
Hoạt động 2: Tìm hiểu cơ quan sinh dục nữ
* Mục tiêu: Nêu được các bộ phận của cơ quan sinh dục nữ và vai trò của buồng
trứng
* Yêu cầu HS quan sát và nghiên cứu kĩ * HS quan sát tranh vẽ H60.1 , thảo luận
tranh H61.1, thảo luận nhóm, hoàn thành nhóm, làm bài tập.
bài tập điền từ

* Treo bảng phụ, gọi hs lên bảng điền từ. * Đại diện nhóm, lên bảng điền từ. Các
từ cần điền theo thứ tự: Buồng trứng,
Phễu dẫn trứng.
Tử cung, Âm đạo, Cổ tử cung, Âm vật,
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

22


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

Ống dẫn nước tiểu, Âm đạo
- Cơ quan sinh dục nữ gồm những bộ - Gồm : 2 buồng trứng, 2 ống dẫn trứng,
phận nào ?


tử cung, âm đạo, các tuyến phụ sinh dục
nữ.

- Chức năng cơ bản của từng bộ phận là - Buồng trứng: sinh ra trứng; ống dẫn
gì ?

trứng: dẫn trứng xuống tử cung; tử cung:
là nơi phát triển của bào thai.

* Dựa vào tranh gv giới thiệu các bộ
phận của cơ quan sinh dục nữ và chức
năng của từng bộ phận. Qua đó giáo dục
HS ý thức giữ gìn vệ sinh cơ thể.
2)
* Yêu cầu HS nghiên cứu thông tin mục * Quan sát tranh, đọc thông tin, trả lời:
II và quan sát tranh vẽ H61.2 SGK, trả
lời các câu hỏi sau:

1/ Trứng được sinh ra ở đâu và bắt đầu từ 1/ Trứng được sinh ra từ buồng trứng và
khi nào?
2/ Trứng có đặc điểm gì về cấu tạo và
hoạt động sống ?

bắt đầu hoạt động từ tuổi dậy thì.
2/ Tế bào trứng có đường kính 0,15 –
0,25mm chứa nhiều tế bào chất . Trứng
được thụ tinh sẽ phát triển thành thai ở tử
cung

* Nhận xét và hoàn chỉnh nội dung câu

trả lời của học sinh.
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

23


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

* Đến tuổi dậy thì trứng bắt đầu hoạt
động. Trứng không được sản xuất liên
tục mà theo chu kì hằng tháng. Trứng
sống được 2 – 3 ngày và chỉ có khả năng
thụ tinh trong vòng 1 ngày nếu gặp tinh
trùng.
- Trong cuộc đời người phụ nữ, có bao - Có khoảng 400 trứng
nhiêu trứng trưởng thành ?
Ví dụ dạy Tiết 64 - Bài 62: THỤ TINH, THỤ THAI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
THAI
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh.
Hoạt động 1 : Tìm hiểu sự thụ tinh và thụ thai.
* Mục tiêu : Chỉ ra được điều kiện thụ tinh và thụ thai. Nêu được khái niệm thụ
tinh, thụ thai.
* HS nghiên cứu thông tin mục I * Đọc thông tin, quan sát tranh, thảo luận
SGK , quan sát hình 62.1, thảo luận nhóm, trả lời câu hỏi :
nhóm, trả lời các câu hỏi sau:

- Thế nào là sự thụ tinh ?

- Thụ tinh: là sự kết hợp giữa trứng và

tinh trùng tạo thành hợp tử

- Trứng và tinh trùng gặp nhau ở bộ - Thụ tinh trong ống dẫn trứng ( 1/3 phía
phận nào ?

trên)

- Thế nào là sự thụ thai ?

- Thụ thai: hợp tử phát triển thành bào
thai ở tử cung

- Điều kiện cần cho sự thụ tinh là gì ?
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

- Điều kiện: trứng rụng trong vòng 1
24


Kinh nghiệm lồng ghép giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản trong giảng dạy sinh học 8

ngày, tinh trùng có trong cơ quan sd nữ
trong vòng 3-4 ngày và gặp trứng ở 1/3
ống dẫn trứng ở phía trên
- Điều kiện cho sự thụ thai là gì ?

- Hợp tử phải bám được vào thành tử
cung

* GV liên hệ vận dụng vào thực hiện * HS chú ý lắng nghe

kế hoạch hóa gia đình và tác hại
của việc nạo phá thai.
* Khi trứng được thụ tinh bao noãn
biến thành thể vàng, thể vàng tiết
hoocmon duy trì ổn định tử cung và
còn kìm hãm tuyến yên không tiết
hooc mon kích thích trứng rụng nữa.
Hoạt động 2 : Tìm hiểu sự phát triển của thai và nuôi dưỡng thai.
*Mục tiêu: HS chỉ ra được sự nuôi dưỡng thai và điều kiện đảm bảo cho thai
phát triển bình thường
* Yêu cầu HS đọc thông tin mục II và * HS nghiên cứu thông tin và quan sát
quan sát hình H62.2, trả lời các câu hình H62.2, trả lời câu hỏi:
hỏi sau:

- Trong quá trình phát triển thai lấy - Thai thực hiện trao đổi chất với cơ thể
chất dinh dưỡng ở đâu ?

mẹ qua nhau thai.

- Quá trình phát triển của thai diễn ra - Trong tử cung, các tế bào của thai phân
như thế nào?
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thương

chia không ngừng hình thành 3 lớp tế
25


×