Tải bản đầy đủ (.docx) (119 trang)

Đánh giá hiệu quả điều trị đau thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm bằng tiêm corticoid ngoài màng cứng dưới hướng dẫn của siêu âm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 119 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đau thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng là một chứng bệnh
hết sức phổ biến. Theo thông báo của Hội cột sống học Hoa Kỳ năm 2005 bệnh
TVĐĐ CSTL chiếm 2-3% dân số, thường gặp ở lứa tuổi 30 – 50 [1]. Theo thống
kê của Nguyễn Văn Chương và CS (2004-2013), TVĐĐ CSTL chiếm tỉ lệ cao
nhất 26,9% trong tổng số bệnh nhân điều trị nội trú tại khoa Nội Thần kinh
bệnh viện 103 [2]. Tuy phần lớn các trường hợp không gây nguy hiểm đến
tính mạng nhưng đau thần kinh tọa ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt, công việc
cũng như chất lượng sống của người bệnh. Bệnh thường xảy ra ở lứa tuổi lao
động, đang có nhiều đóng góp cho xã hội, từ đó gây ảnh hưởng nhiều đến nền
kinh tế xã hội. Vì vậy, việc chẩn đoán và điều trị TVĐĐ CSTL có hiệu quả
luôn là một vấn đề thời sự.
Đau là yếu tố chính ảnh hưởng đến công việc và hoạt động hàng ngày
của người bệnh. Cơ chế đau trong thoát vị đĩa đệm phức tạp, trong đó có phần
đau nhận cảm tại chỗ và đau do cơ chế thần kinh [3-6].
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và tiến bộ trong y học, đã
có nhiều phương pháp điều trị đau thần kinh tọa do TVĐĐ CSTL, được ứng
dụng theo ba hướng: điều trị bảo tồn, can thiệp tối thiểu và phẫu thuật [2-3],
[7-11]. Tuy nhiên, theo các tác giả trong và ngoài nước, phương pháp điều trị
bảo tồn vẫn là chỉ định hàng đầu cho hầu hết các trường hợp và đạt kết quả
điều trị cho 90% bn TVĐĐ, trong đó phương pháp tiêm corticoid NMC được
xem là phương pháp điều trị bảo tồn chủ đạo.
Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam
đánh giá hiệu quả của phương pháp tiêm ngoài màng cứng trong điều trị đau
dây thần kinh tọa do TVĐĐ [2],[3],[12-24]. Tại khoa Cơ Xương Khớp Bệnh
viện Bạch Mai hiện nay đang áp dụng kỹ thuật tiêm ngoài màng cứng tại vị trí


2



khe cùng cụt và khe liên đốt L4-L5 không có sự hỗ trợ của kỹ thuật hình ảnh
như huỳnh quang, siêu âm [3], [7], [12], [13].
Đã có các nghiên cứu chỉ ra rằng kỹ thuật tiêm ngoài màng cứng không
có hướng dẫn của kỹ thuật hình ảnh, tỉ lệ kim không đúng khoang ngoài màng
cứng từ 25-38% [25-27], thậm chí trên 50% [28,29]. Điều này có thể làm ảnh
hưởng đến hiệu quả điều trị và tăng tỉ lệ tai biến của kỹ thuật.
Tiêm NMC có thể thực hiện dưới hướng dẫn của màn huỳnh quang,
nhưng kỹ thuật này đặt người bệnh và nhân viên y tế vào nguy cơ nhiễm
phóng xạ đặc biệt ở những người trong độ tuổi sinh đẻ và nó cũng không
thuận tiện trong thực hành hàng ngày [30-32], trong khi đó tiêm NMC có siêu
âm hướng dẫn được đánh giá là hiệu quả, dễ tiến hành [25-35].
Bởi vậy, để làm rõ thêm liệu tiêm corticoid ngoài màng cứng qua khe
cùng cụt dưới hướng dẫn của siêu âm có thuận tiện trong thực hành, có làm tăng
hiệu quả điều trị và sự an toàn cho người bệnh hay không chúng tôi tiến hành
nghiên cứu: “Đánh giá hiệu quả điều trị đau thần kinh tọa do thoát vị đĩa
đệm bằng tiêm corticoid ngoài màng cứng dưới hướng dẫn của siêu âm”
nhằm hai mục tiêu sau:
1. Đánh giá hiệu quả điều trị đau thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm bằng
tiêm corticoid ngoài màng cứng theo đường cùng cụt dưới hướng dẫn
của siêu âm.
2. Đánh giá tính an toàn, khả năng thực hiện kỹ thuật và
mối liên quan giữa một số yếu tố lâm sàng, hình ảnh
cộng hưởng từ với hiệu quả điều trị.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Đặc điểm giải phẫu, sinh lý cột sống thắt lưng, cùng
Cột sống gồm 33-35 đốt sống được chia thành các đoạn theo chức năng
bao gồm: đoạn cột sống cổ, đoạn cột sống ngực, đoạn cột sống thắt lưng và
đoạn cột sống cùng cụt. Trong từng đoạn đốt sống lại có nhiều đơn vị chức
năng gọi là đoạn vận động (đơn vị vận động) được tạo bởi đốt sống, đĩa đệm,
ống sống, khoảng gian đốt, dây chằng, phần mềm [dẫn lại 36], [37].

Hình 1.1. Sơ đồ đoạn vận động của cột sống
1.1.1. Hình thể chung của các đốt sống thắt lưng [dẫn lại 13], [38].
Cột sống thắt lưng: Gồm 5 đốt sống, 4 đĩa đệm và hai đĩa đệm chuyển
đoạn (T12-L1; L5-S1). Kích thước đĩa đệm càng xuống dưới càng lớn; trừ đĩa
đệm L5-S1 chỉ bằng 2/3 chiều cao đĩa đệm L4-L5.
Mỗi đốt sống gồm các thành phần chính là thân đốt sống, cung đốt sống,
mỏm đốt sống và lỗ đốt sống:


4

Hình 1.2. Hình thể đốt sống thắt lưng
Đây là đoạn cột sống đảm nhiệm chủ yếu các chức năng của cả cột sống,
đó là chức năng chịu tải trọng và chức năng vận động. Các quá trình bệnh lý
liên quan đến yếu tố cơ học thường hay xảy ra ở đây, do chức năng vận động
bản lề, nhất là ở các đốt cuối L4, L5.
1.1.2. Đĩa đệm
Bình thường cột sống có 23 đĩa đệm, trong đó CSTL có 4 đĩa đệm và hai
đĩa đệm chuyển tiếp (lưng – thắt lưng, thắt lưng – cùng). Đĩa đệm hình thấu
kính hai mặt lồi, cấu tạo bởi cấu trúc liên kết, bản chất là sụn và sợi, gồm 3
phần: nhân nhầy, vòng sợi và hai tấm sụn.
-Nhân nhầy: Nhân nhày chiếm khoảng 40% thể tích của khoang liên đốt
sống, chứa khoảng 1ml chất đệm gelatin có đường kính nhỏ hơn 50% đường

kính ngang của đĩa đệm và nằm hơi lệch ra sau. Chính các cấu trúc gelatin
cho phép nhân đệm hoạt động như một cấu trúc hấp thu lực. Cùng với tuổi
tác, các thành phần protein của đĩa đệm thay đổi, từ đó thay đổi các đặc tính
của đĩa đệm. Ở người trẻ, nhân nhày và vòng sợi có ranh giới rõ, trái lại ở
người già do tổ chức đĩa đệm mất tính thuần nhất ban đầu nên khó xác định.
-Vòng sợi: Gồm nhiều vòng xơ sụn đồng tâm, được cấu tạo bằng những
sợi sụn rất chắc và đàn hồi, đan ngoặc với nhau kiểu xoắn ốc. Phía sau và sau


5

bên, vòng sợi mỏng và chỉ gồm một số ít những bó sợi tương đối mảnh, nên
đấy là “ điểm yếu nhất của vòng sợi”. Đó là một yếu tố làm cho nhân nhầy lồi
về phía sau nhiều hơn [13].
- Mâm sụn: là một hợp chất chứa sụn hyaline cho các chân bám vào mặt
xương của thân đốt sống. Mâm sụn là thành phần cấu trúc thuộc về thân đốt sống
nhưng có liên quan trực tiếp với đĩa đệm, bao phủ mặt trên và mặt dưới thân đốt
sống và tham gia vào sự trao đổi chất lỏng giữa đĩa đệm và thân đốt sống.
1.1.3. Các dây chằng cột sống thắt lưng
Cột sống được bao phủ phía trước và phía sau theo chiều dài của nó bởi
dây chằng dọc trước và dây chằng dọc sau. Các dây chằng đều đóng góp vào
nhiệm vụ bảo vệ, tăng độ vững chắc của cột sống và đảm bảo chức năng di
động và mềm dẻo của cột sống.
Các dây chằng chính là dây chằng dọc trước, dọc sau, bao khớp, dây
chằng vàng.
- Dây chằng dọc trước: Chạy dọc mặt trước các thân đốt sống, dính chắc
vào mép trước và mép bên của thân đốt sống với nhau.
- Dây chằng dọc sau: nằm ở mặt sau thân đốt L2 đến xương cùng. Dây
chằng này dính chặt vào bờ thân xương, khi tới thân đốt sống thắt lưng dây
chằng này chỉ còn là một dải nhỏ không phủ kín giới hạn sau của đĩa đệm. Do

đó, phần sau bên của đĩa đệm được tự do nên thoát vị đĩa đệm thường xảy ra
nhiều nhất ở vùng này.
- Dây chằng vàng: Dây chằng vàng phủ phần sau của ống sống và bám
từ cung đốt này đến cung đốt khác và tạo nên một bức vách thẳng ở phía sau
ống sống để bảo vệ tủy sống và các rễ thần kinh. Sự phì đại của dây chằng
vàng cũng là một nguyên nhân gây đau kiểu rễ vùng thắt lưng cùng.


6

- Ngoài ra còn có các dây chằng khác như dây chằng trên gai, dây chằng
liên gai, dây chằng liên mấu ngang, bao khớp góp phần vào làm bền vững cấu
trúc cột sống.

1.1.4. Vai trò và phương thức hoạt động của đĩa đệm [dẫn lại 1]
Đĩa đệm hoạt động như một vật thể hấp thụ lực, khi tác động lên đốt
sống. Các đĩa đệm có hai chức năng chính:
-Phân tán lực nén, khả năng biến dạng cho phép đĩa đệm phân tán lực
trên toàn bộ mặt khớp của thân sống chứ không tập trung trên vùng ngoại vi
của thân sống.


7

- Cho phép sự chuyển động đa mặt phẳng giữa các thân sống kế tiếp
nhau. Nhờ vào khả năng biến dạng đặc biệt của mình, đĩa đệm rất khó bị nén
ép. Bất cứ lực nào tác động lên nó đều được phân tán đến vòng sợi và mặt
khớp của thân sống. Hoạt động này chủ yếu dựa trên nguyên lý của sự tương
quan giữa áp lực thủy tĩnh và áp lực thể tích giữa môi trường bên trong và
môi trường bên ngoài của đĩa đệm.

1.1.5. Rễ thần kinh [dẫn lại 1]
Mỗi tầng đĩa đệm có một đôi rễ thần kinh đi ra từ bao màng cứng qua lỗ
liên hợp. Các rễ phía sau dẫn truyền các sợi cảm giác từ thần kinh sống đến
tủy sống, rễ phía trước chủ yếu mang các sợi vận động và dọc theo đó có
những sợi cảm giác, từ tủy sống đến rễ thần kinh. Các rễ phía sau và phía
trước ở hai bên được bao bọc bởi bao rễ trong ống thần kinh. Các thụ thể của
rễ trước nằm ở phần trước của tủy sống trong khi đó các thụ thể của các rễ
phía sau nằm ở vùng hạch rễ phía sau. Vùng hạch phía sau thường nằm ở
phần tận của rễ sau trong phần đỉnh của bao rễ, hướng xuống dưới đến chân
cung và gần đến nách rễ. Các rễ thần kinh được bao bọc bởi màng cứng và
màng nhện được gọi là bao rễ .
1.1.6. Đặc điểm giải phẫu xương cùng và khe cùng cụt [39-43]
Xương cùng được hình thành nên từ sự kết hợp của 5 đốt sống cùng và
tạo nên phần thấp của cột sống. Những biến thể giải phẫu, hình thái và các số
đo hình thái của xương cùng nói chung, đặc biệt của khe cùng cụt nói riêng có
vài trò rất quan trọng trong thực hành lâm sàng: như gây tê hoặc tiêm
corticoid ngoài màng cứng...
Những hiểu biết đầy đủ về giải phẫu của khe cùng và những cấu trúc
xung quanh nó có vai trò rất quan trọng trong việc làm tăng tỉ lệ thành công
cho thủ thuật tiêm NMC và giảm thiểu nguy cơ tai biến của thủ thuật.


8

Hình 1.3: Xương cùng mặt sau
- Sừng cùng: là vết tích còn sót lại của quá trình hình thành đốt cùng 5
(S5), nổi lên như 2 nhú xương ở phần cuối của xương cùng. Việc sờ thấy 2
sừng cùng là cần thiết để định vị khe cùng trong kỹ thuật dựa trên các mốc
giải phẫu bình thường. Tuy nhiên việc này sẽ khó khăn khi chiều cao của sừng
cùng thấp hơn 3mm. Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy khoảng 55% sờ thấy

2 sừng cùng, 24% sờ thấy 1 sừng cùng và 21% không sờ thấy cả 2 sừng cùng.
Việc không xác định được 2 sừng cùng góp phần làm tỉ lệ thất bại tăng cao
trong các kỹ thuật tiêm NMC “mù”[39, 42].
- Khe cùng: là kết quả sự kết hợp khuyết thiếu các tấm sống trong quá
trình tạo thành ống sống của các đốt sống cùng ở thấp, là phần kết thúc của
ống cùng. Khe cùng được bao ở hai bên bởi 2 sừng cùng và có thể được sờ
thấy như một chỗ lõm xuống ở giữa. Ở phía sau, khe cùng được bao phủ bởi
da, lớp mỡ dưới da và dây chằng cùng cụt. Đường kính ống cùng đo tại đỉnh
khe cùng từ 4.6 ± 2mm đến 6.1 ± 2mm và giảm dần theo tuổi. Trong thực
hành lâm sàng, đường kính khe cùng nhỏ hơn 3.7mm liên quan đến việc khó
thực hiện kỹ thuật tiêm NMC mù. Các nghiên cứu cũng báo cáo đường kính
khe cùng nhỏ hơn 3mm gặp khoảng 9%, và không có khe cùng gặp khoảng
3% khi khảo sát các xương cùng khô ở người [39],[41],[42].


9

- Đỉnh khe cùng: Đỉnh của khe cùng thường nằm ở đốt cùng 4 (S4), khoảng
65-68%, ở mức S3, S5 khoảng 15% mỗi mức và ở mức S1 và S2 khoảng 35% các trường hợp. Khi đỉnh khe cùng ở mức cao có thể làm tăng nguy cơ
đâm kim vào túi màng cứng, ngược lại nếu ở mức thấp có thể làm dây chằng
cùng cụt ngắn lại. Độ dài của dây chằng cùng cụt ngắn hơn 17,6mm có liên
quan tới khó thực hiện tiêm NMC với kỹ thuật tiêm mù [39].

Hình 1.4: Một số hình ảnh biến thể giải phẫu của xương cùng[43]
1.2. Đặc điểm giải phẫu, sinh lý dây thần kinh tọa
1.2.1. Giải phẫu dây thần kinh tọa [36],[37]
Dây thần kinh tọa là dây thần kinh hỗn hợp, to nhất trong cơ thể, xuất
phát từ đám rối cùng do những sợi của rễ L4, L5, S1, S2, S3 tạo nên, mà chủ
yếu là rễ L5 và S1 [37].
Ở trong chậu hông dây thần kinh tọa đi qua khuyết hông to của xương

chậu để vào mông.Ở mông dây thần kinh tọa nằm giữa ụ ngồi và mấu chuyển
lớn xương đùi. Ở sau đùi, dây thần kinh tọa nằm chính giữa đùi và chạy theo


10

một đường vạch từ một điểm cách đều ụ ngồi và mấu chuyển lớn đến giữa
nếp lằn khoeo [37].
Đến đỉnh trám khoeo, dây thần kinh tọa chia ra hai nhánh cùng là dây
thần kinh mác chung (dây thần kinh hông khoeo ngoài) và dây thần kinh chầy
(dây thần kinh hông khoeo trong). Có khi dây thần kinh tọa phân chia ngay từ
đùi, có khi ngay ở mông.
Khi các rễ thắt lưng V và rễ cùng I hợp thành dây thần kinh tọa để đi ra
ngoài ống sống, phải qua một khe hẹp gọi là khe gian đốt đĩa đệm-dây chằng.
Khe này có cấu tạo phía trước là thân đốt sống, đĩa đệm, phía bên là cuống
giới hạn lỗ liên hợp, phía sau là dây chằng. Khi các thành phần này bị tổn
thương đều có thể gây đau thần kinh tọa do chèn ép hoặc dầy dính [36].

Hình 1.5. Đường đi của dây thần kinh tọa
1.2.2. Chức năng của dây thần kinh tọa trong cơ thể [13]
Mỗi dây thần kinh tọa phân chia ở chân có vai trò riêng:
Rễ thắt lưng L5 (nhánh hông khoeo ngoài) chịu trách nhiệm chi phối vận
động các cơ ở cẳng chân trước ngoài: thực hiện các động tác như gấp bàn chân,


11

duỗi các ngón chân, đi trên gót chân) và chi phối cảm giác một phần mặt sau
đùi, mặt trước ngoài cẳng chân và các ngón chân cái và các ngón lân cận.
Rễ cùng S1 (nhánh hông khoeo trong) chi phối vận động các cơ ở cẳng

chân sau (thực hiện các động tác như duỗi bàn chân, gấp các ngón chân, đi
trên đầu các ngón chân); và chi phối cảm giác mặt sau đùi, mặt sau cẳng chân,
bờ ngoài bàn chân và 2/3 ngoài gan chân.

Hình 1.6. Chi phối của dây thần kinh tọa [36]
1.3. Bệnh căn, bệnh sinh của thoát vị đĩa đệm và hội chứng chèn ép rễ
1.3.1. Cơ chế bệnh sinh của thoát vị đĩa đệm [36]
Trên cơ sở lão hóa của đĩa đệm theo thời gian (thoái hóa sinh lý) và do
bệnh lý của bản thân đĩa đệm (chấn thương, miễn dịch chuyển hóa…) dẫn đến
tình trạng thoái hóa đĩa đệm (thoái hóa sinh học và thoái hóa bệnh lý). Đĩa
đệm bị thoái hóa khi chịu lực tác động của chấn thương (đột ngột cấp tính, từ
từ mạn tính hoặc một cử động bất thường của cột sống ở tư thế bất lợi…)
cũng có thể gây thoát vị đĩa đệm cột sống. Một đĩa đệm bình thường chưa
thoái hóa cũng có thể thoát vị nếu như nó chịu tác động nặng nề của một chấn
thương cấp tính [36].


12

Thoát vị đĩa đệm thường xảy ra ở đĩa đệm thắt lưng L4-L5 và đĩa đệm
thắt lưng cùng L5-S1 do hai đĩa đệm này nằm ở vùng bản lề vận động chủ yếu
của cột sống nên thường xuyên chịu áp lực trọng tải lớn
Như vậy thoái hóa đĩa đệm là nguyên nhân cơ bản bên trong, tác động cơ
học là nguyên nhân khởi phát bên ngoài. Sự phối hợp hai yếu tố đó là nguồn
gốc phát sinh thoát vị đĩa đệm.
1.3.2. Sinh lý bệnh của hội chứng chèn ép rễ [1]
Bệnh lý rễ thần kinh do chèn ép cơ học rễ thần kinh và do viêm. Đặc biệt
khối thoát vị tạo nên một khối choán chỗ ngang lỗ liên hợp nơi rễ thần kinh đi
ra và chèn ép vào rễ. Mặt khác gai xương ở vùng Uncus và ở vùng mấu khớp,
dây chằng vàng và mô xơ quanh rễ cũng gây ra sự chèn ép này. Giảm chiều

cao đĩa đệm có liên quan đến tuổi làm giảm độ rộng của lỗ liên hợp. Phì đại
khối khớp cũng là một nguyên nhân chèn ép rễ thần kinh.
Theo Furman và Yumashev [1], rễ thần kinh rất nhạy cảm với đau. Khi
khối TVĐĐ chèn ép vào bao rễ gây kích thích hoặc kéo căng rễ, kèm theo
phản ứng viêm xung quanh rễ làm tổn thương mạch máu gây phù nề, thiếu
máu thứ phát, làm cho rễ nhạy cảm với sự va chạm. Do đó các rối loạn cảm
giác xuất hiện trước các rối loạn vận động. Mặc dù phần đĩa đệm thoát vị nằm
phía trước rễ và chạm vào các sợi vận động, nhưng do áp lực phản hồi các sợi
cảm giác sẽ bị đè ép vào dây chằng vàng. Đè ép rễ mạn tính dẫn đến xơ hóa
bao rễ, lâm ngày dẫn đến tổn thương sợi trục, gây rối loạn dẫn truyền, dẫn đến
liệt các mức độ và rối loạn cảm giác. Ngoài ra TVĐ Đ còn chèn ép hoặc
xuyên qua dây chằng dọc sau, nơi có các tận cùng cảm giác đau của dây thần
kinh quặt ngược Lucshka, cũng gây ra triệu chứng đau trong hội chứng rễ.


13

1.4. Đại cương đau dây thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm [13]
1.4.1. Lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng của đau dây thần kinh tọa TVĐĐ cột sống thắt
lưng được biểu hiện bằng hai hội chứng: hội chứng cột sống và hội chứng rễ
thần kinh [13].
1.4.1.1. Hội chứng cột sống
Hội chứng cột sống bao gồm các triệu chứng và dấu hiệu sau:
• Đau CSTL kiểu cơ học: thường khởi phát sau một chấn thương hoặc
vận động cột sống quá mức. Đau lúc đầu cấp tính sau tái phát thành mạn tính.
• Biến dạng cột sống:
+ Mất ưỡn thắt lưng (mất đường cong sinh lý), gù, vẹo cột sống, thường
kèm theo co cứng các cơ cạnh sống.
+ Dấu hiệu chống đau của DeSeze, người bệnh nghiêng người về phía

không đau.
+ Có điểm đau trên cột sống hoặc cạnh cột sống.
+ Hạn chế tầm vận động của CSTL như gấp, duỗi, nghiêng, xoay.
1.4.1.2. Hội chứng rễ thần kinh
Theo Mumentheler và Schilack (1973), hội chứng rễ thuần túy có những
đặc điểm sau [13]:
• Đau dọc theo đường đi của rễ thần kinh chi phối.
• Rối loạn cảm giác lan theo dọc các dải cảm giác.
• Teo cơ do rễ thần kinh chi phối bị chèn ép.
• Giảm hoặc mất phản xạ gân xương.
* Đặc điểm đau rễ: đau dọc theo vị trí tương ứng rễ thần kinh bị chèn ép
chi phối, đau có tính chất cơ học và xuất hiện sau đau thắt lưng cục bộ, cường
độ đau không đồng đều giữa các vùng ở chân.


14

Có thể gặp đau cả hai chi dưới kiểu rễ, cần nghĩ đến khối thoát vị ở trung
tâm nhất là khi kèm theo ống sống có hẹp dù ít. Còn khi đau chuyển từ chân
nọ sang chân kia một cách đột ngột, hoặc đau tiến triển vượt qua định khu của
rễ, hoặc gây hội chứng đuôi ngựa cần nghĩ đến sự di chuyển của mảnh thoát
vị lớn bị đứt rời gây nên.
* Các dấu hiệu kích thích rễ: có giá trị chẩn đoán cao.
• Dấu hiệu Lasegue: Khi nâng từng chân lên cao dần, gối để duỗi thẳng
bệnh nhân sẽ thấy đau và không thể nâng lên cao tiếp. Mức độ dương tính
được đánh giá bằng góc tạo giữa trục chi và mặt giường, khi xuất hiện đau.
Dấu hiệu Lasegue chéo còn có giá trị hơn: Khi nâng chân bên lành gây đau
bên thoát vị.
• Dấu hiệu “bấm chuông”: Khi ấn điểm đau cạnh cột sống thắt lưng
(cách cột sống khoảng 2 cm) xuất hiện đau lan dọc xuống chân theo khu vực

chi phân bố của rễ thần kinh tương ứng.
• Điểm đau Walleix: Dùng ngón tay cái ấn sâu vào các điểm trên đường
đi của dây thần kinh, bệnh nhân thấy đau chói tại chỗ ấn. Gồm các điểm sau:
giữa ụ ngồi – mấu chuyển lớn, giữa nếp lằn mông, giữa mặt sau xương đùi,
giữa nếp khoeo, giữa cung cơ dép ở cẳng chân.
• Một số nghiệm pháp khác cũng có giá trị chẩn đoán tương tự nhau:
Bonnet, Néri…
* Có thể gặp các dấu hiệu tổn thương rễ:
• Rối loạn cảm giác: Giảm hoặc mất cảm giác kiểu rễ hoặc dị cảm (kiến
bò, tê bì, nóng rát…) ở da theo khu vực rễ thần kinh chi phối.
• Rối loạn vận động: Khi chèn ép rễ L5 lâu ngày các cơ khu trước ngoài
cẳng chân sẽ bị liệt làm cho bệnh nhân không thể đi bằng gót chân được (gấp
bàn chân), còn với rễ S1 thì các cơ khu cẳng chân sẽ bị liệt làm bệnh nhân
không thể đi kiếng chân được (duỗi bàn chân).


15

• Giảm phản xạ gân xương: Giảm phản xạ gân cơ tứ đầu của rễ L4 và
gân gót của rễ S1.
• Có thể gặp teo cơ và rối loạn cơ tròn (bí đại tiểu tiện, đại tiểu tiện
không tự chủ hoặc rối loạn chức năng sinh dục) khi tổn thương nặng, mạn
tính, có chèn ép đuôi ngựa [13].
1.4.1.3 Sinh lý bệnh học và vai trò yếu tố viêm trong đau thần kinh tọa [4;19;44]
Nhiều bằng chứng nghiên cứu cho rằng có vai trò hỗn hợp của yếu tố
viêm, miễn dịch và chèn ép rễ liên quan đến hiện tượng đau theo rễ thần kinh
(đau thần kinh tọa) do thoát vị đĩa đệm.
Đau thần kinh tọa thường là hậu quả của viêm rễ thần kinh với có hoặc
không có các kích thích cơ học. Các nghiên cứu và thực hành lâm sàng đã
chứng minh, chèn ép cơ học rễ thần kinh đơn độc chỉ là nguyên nhân gây ra

các thiếu hụt vận động và thay đổi cảm giác nhưng không đủ để gây ra đau.
Các yếu tố viêm bên trong khoang ngoài màng cứng và rễ thần kinh, được
kích động bởi đĩa đệm thoát vị, là yếu tố quan trọng gây ra đau kiểu rễ.
Những bằng chứng trong lịch sử về viêm rễ thần kinh đã được chứng
minh trong khi phẫu thuật cho những bệnh nhân đau thần kinh tọa do thoát vị
đĩa đệm cột sống. Những nghiên cứu trên động vật cũng cho thấy tình trạng
viêm nặng tại chỗ trong khoang NMC và rễ thần kinh sau khi tiêm chất nhân
đĩa đệm tự thân vào khoang NMC. Một nồng độ cao của Phospholipase A2
(PLA2), một enzym giúp điều hòa các yếu tố viêm khởi đầu đã được chứng
minh có trong chất nhân của đĩa đệm thoát vị trên các phẫu thuật ở người.
Ngoài ra Leukotrien B4, thromboxane B2 và các sản phẩm viêm cũng được
phát hiện trong nhân đĩa đệm của người sau phẫu thuật.
Các thí nghiệm trên động vật chứng minh rằng, khi tiêm PLA2 vào
khoang NMC làm xuất hiện hủy myelin tại chỗ của rễ thần kinh và hậu quả


16

dẫn đến dẫn truyền thần kinh lạc chỗ, điều này gợi ý cơ chế sinh lý bệnh của
đau thần kinh tọa (đau rễ thần kinh).
Các Cytokine cũng được thấy là có liên quan đến nguồn gốc các đáp ứng
viêm này. Khi phân tích dịch mô từ các đĩa đệm được lấy ra trong phẫu thuật
của các bệnh nhân đau thần kinh tọa thấy sự có mặt của IL-1α, IL-1β, IL-6,
IL-8, TNF- α
Đau thần kinh tọa gây ra bởi hẹp, chèn ép tủy sống có thể liên quan đến
ức chế dòng máu bình thường tới rễ thần kinh làm giảm nuôi dưỡng, phù nề và
bất thường chức năng rễ. Chèn ép rễ mạn tính có thể gây thiếu máu sợi trục, cản
trở lưu thông tĩnh mạch, thoát protein huyết tương và gây viêm tại chỗ.

Hình 1.7: Cơ chế sinh bệnh học của đau thần kinh tọa do TVĐĐ [4]

1.4.2. Cận lâm sàng
1.4.2.1. Chụp X – quang quy ước
- Thường chụp 3 tư thế: Chụp thẳng, chụp nghiêng và chếch ¾, cho phép
đánh giá được trục cột sống (đường cong sinh lý), so sánh được kích thước và
vị trí của các đốt sống, khoang gian đốt và đĩa đệm, kích thước lỗ tiếp hợp,
đánh giá được mật độ và cấu trúc xương, các dị tật bẩm sinh.
- Trên phim X quang đĩa đệm là phần không cản quang, đánh giá gián
tiếp qua sự thay đổi khoang gian đốt sống và các đốt sống kế cận [13].


17

Trong TVĐĐ Mixter X và Barr lưu ý tới 3 dấu hiệu:
+ Giảm chiều cao khoang gian đốt sống, mất ưỡn thắt lưng và vẹo cột sống
+ Dấu hiệu gập góc
+ Dấu hiệu góc mở chọn lọc.
1.4.2.2. Chụp bao rễ thần kinh
Là phương pháp chụp X quang sau khi đưa chất cản quang vào khoang
dưới nhện của tủy sống đoạn thắt lưng bằng con đường chọc dò ống sống. Nó
đã trở thành phương pháp chẩn đoán xác định thoát vị đĩa đệm thắt lưng và
xét chỉ định phẫu thuật đĩa đệm, tuy vậy chỉ định chụp bao rễ cần cân nhắc
thận trọng do những tai biến mà độc tính của chất cản quang gây ra.
1.4.2.3. Chụp cắt lớp vi tính cột sống thắt lưng
Phương pháp này có giá trị chẩn đoán chính xác cao đối với nhiều thể
TVĐĐ (ra sau, thành khối lớn, trên một thoái hóa đĩa đệm…) và chẩn đoán phân
biệt với một số bệnh lý khác như: hẹp ống sống, u tủy…với độ chính xác cao.
1.4.2.4. Chụp cộng hưởng từ hạt nhân [13].
Đây là phương pháp rất tốt để chẩn đoán TVĐĐ vì cho hình ảnh trực tiếp
của của đĩa đệm cũng như rễ thần kinh trong ống sống và ngoại vi. Phương
pháp này cho phép chẩn đoán chính xác thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng từ

95 – 100%. Tuy nhiên, đây vẫn còn là phương pháp chẩn đoán đắt tiền.
Trên phim: hình ảnh đĩa đệm là hình ảnh tổ chức đồng nhất tín hiệu ở
giữa các thân đốt sống với mật độ khá đồng đều, xu hướng tăng dần cân đối
từ trên xuống dưới và hơi lồi ở phía sau. Trên ảnh T1 đĩa đệm là tổ chức giảm
tín hiệu và tăng tín hiệu trên ảnh T2. Trên phim MRI được chí thành phình lồi
đĩa đệm và thoát vị đĩa đệm. Ngoài ra còn quan sát được tất cả hình ảnh của
các tổ chức lân cận như: thân đốt sống, hình ảnh ống sống,các sừng trước,
sừng sau và một số cấu trúc khác như: khối cơ, da, và các tổ chức dưới da…


18

1.4.3. Chẩn đoán xác định đau dây thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm
- Lâm sàng: Theo Saporta năm 1970 trên lâm sàng có 4 triệu chứng trở
lên trong 6 triệu chứng sau đây là có thể chẩn đoán đau dây thần kinh tọa do
thoát vị đĩa đệm [13]
• Có yếu tố vi chấn thương, chấn thương.
• Đau CSTL lan theo rễ, dây thần kinh hông to.
• Đau tăng khi ho, hắt hơi, rặn.
• Có tư thế chống đau: nghiêng người về một bên
• Có dấu hiệu bấm chuông.
• Dấu hiệu Lasègue (+)
- Cận lâm sàng: Chụp phim cộng hưởng từ có hình ảnh TVĐĐ.
1.4.4. Chẩn đoán phân biệt
- Thoái hóa cột sống thắt lưng.
- Viêm cột sống: viêm cột sống dính khớp, viêm khớp cùng chậu, viêm
cột sống do lao, viêm cột sống do vi khuẩn khác.
- Dị dạng bẩm sinh ở cột sống: cùng hóa thắt lưng L5 - S1
- Dị dạng ống sống: hẹp ống sống thắt lưng.
- Chấn thương cột sống thắt lưng.

- Khối u cột sống.
1.5. Điều trị đau thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm
1.5.1. Điều trị nội khoa và phục hồi chức năng [1]
Mục đích điều trị bảo tồn trong đau thần kinh tọa trong TVĐĐ là giảm
đau, hết dị cảm, phục hồi chức năng vận động và tạo điều kiện thời gian cho
phần đĩa đệm bị thoát vị có thể co bớt lại, giảm hoặc hết chèn ép thần kinh.
Trong TVĐĐ, nếu điều trị đúng, theo Hồ Hữu Lương [1], kết quả tốt đạt tới
95%. Cho tới nay, trên thế giới, điều trị nội khoa và phục hồi chức năng vẫn là
chủ yếu, chiếu 90% trong tổng số các bệnh nhân TVĐĐ. Trong hoàn cảnh của


19

nước ta hiện nay thì đây vẫn là phương pháp chủ đạo. Chỉ khi nào điều trị nội
khoa thất bại sau 3-6 tháng hoặc các trường hợp TVĐ Đ đã vỡ thì mới có chỉ
định điều trị phẫu thuật.
1.5.2. Phương pháp điều trị can thiệp [13]
* Các phương pháp làm giảm áp lực nội đĩa đệm:
- Tiêm thuốc làm tiêu đĩa đệm.
- Giảm áp lực nội đĩa đệm bằng laser qua da.
* Phương pháp điều trị phẫu thuật.
Mục đích: lấy bỏ nhân nhầy thoát vị chèn ép vào tủy hoặc rễ thần kinh mà
không gây tổn thương cấu trúc thần kinh và đảm bảo sự vững chắc của cột sống.
• Chỉ định tuyệt đối: hội chứng đuôi ngựa hoặc hội chứng chèn ép rễ
thần kinh một hoặc hai bên gây liệt và gây đau nhiều.
• Chỉ định tương đối: sau điều trị nội 3-6 tháng nhưng không cải thiện
hoặc TVĐĐ CSTL có biểu hiện yếu vận động tương ứng với rễ bị chèn ép.
1.6. Một số NC giải phẫu vùng cùng cụt và tiêm corticoid khoang NMC
điều trị đau thần kinh tọa
1.6.1. Những nghiên cứu giải phẫu vùng cùng cụt đánh giá bằng siêu âm

liên quan đến kỹ thuật tiêm corticoid NMC [45-47]
Gi-young Park và cộng sự (2015),[45] thực hiện nghiên cứu trên 237 bệnh
nhân đau vùng thắt lưng có hoặc không có kèm theo đau thần kinh toạ, bằng siêu
âm, để xác định rõ sự khác nhau về cấu trúc giải phẫu của khe cùng cụt và góc
luồn kim khi tiêm corticoid NMC theo đường cùng cụt theo tuổi và giới.
Kết quả cho thấy: có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ
về khoảng cách giữa 2 sừng cùng (17.7 vs 16.5mm, p <0.01), đường kính ống
cùng (5.0 ± 1.6mm) và độ dày dây chằng cụt (4.3 vs 3.9 mm, p = 0.02). Ở tất
cả bệnh nhân, độ dày của dây chằng cùng cụt và đường kính ống cùng có mối


20

tương quan chặt chẽ với góc luồn kim. Góc luồn kim vào khoang NMC trong
nghiên cứu là 19.5 ± 6.20.
Nghiên cứu cho thấy khe cùng cụt có sự khác nhau về cấu trúc giải
phẫu ở những bệnh nhân khác nhau về tuổi và giới.
Young Hoon Kim và cộng sự (2014) [46] sử dụng các phép đo trên siêu
âm nghiên cứu trên 146 bệnh nhân để phân tích, đánh giá những yếu tố (biến
số) giải phẫu gây khó khăn trong tiêm NMC đường cùng cụt. Nghiên cứu cho
thấy các biến số như đường kính của ống cùng, chiều dài của dây chằng cùng
cụt là các yếu tố có giá trị tiên lượng việc khó khăn khi thực hiện tiêm NMC
đường cùng cụt. Điểm cắt giá trị tiên lượng tiêm khó khăn tương ứng với 2
biến số trên lần lượt là 3.7mm và 17.6mm.
Kim DH và cộng sự (2016) [47] Đánh giá những biến đổi giải phẫu có
liên quan đến tiêm NMC đường cùng cụt của khe xương cùng dựa trên hình
ảnh siêu âm, được thực hiện trên 339 bệnh nhân, cho thấy kết quả: khoảng
cách trung bình giữa 2 sừng cùng là 18.1 ± 3.2mm, độ rộng trung bình của
dây chằng cùng cụt là 10.5 ± 2.6mm. Đường kính trung bình của ống cùng là
6.8 ± 2.5mm, nhưng có 6/339 bệnh nhân (1.8%) có đường kính ống cùng nhỏ

hơn 2mm. Khoảng cách trung bình đo từ điểm khe cùng xuất hiện đến đỉnh
khe cùng là 29.3 ± 12.3 mm. Tác giả cho rằng những biến đổi về chiều dài
của khe cùng có ý nghĩa đối với tiêm NMC đường cùng cụt.
1.6.2. Các nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của đường tiêm corticoid NMC
đoạn cột sống thắt lưng cùng trong điều trị đau thần kinh toạ [9,10],[1316],[35,36]
Faaiz Ali Shah và cộng sự (2011),[14] nghiên cứu vai trò của tiêm
corticoid NMC qua khe cùng cụt trong kiểm soát đau thần kinh toạ. Nghiên
cứu được tiến hành trên 42 bệnh nhân đau thần kinh toạ, được tiêm corticoid
NMC qua khe cùng cụt. Hỗn hợp thuốc tiêm gồm: 80mg methylprednisolone


21

phối hợp với 3ml plain xylocaine 2% và 3 ml nước muối sinh lý. Hiệu quả
điều trị được xác định bởi sự tiến triển của điểm ODI và VAS đánh giá và
theo dõi sau 3,6,10 và 12 tuần sau tiêm. Những bệnh nhân điểm ODI>40% và
VAS>=5 sau theo dõi 3 tuần được tiêm thêm mũi thứ 2. Kết quả: Sau 12 tuần
theo dõi có 24 bn(57.1%) đáp ứng tốt với chỉ 1 mũi tiêm, kết quả tiến triển
lớn nhất của điểm ODI là 10.4% và VAS là 1 (trung bình). Có 18 bệnh nhân
(42.8%) cần tiêm mũi thứ 2 trong đó 13bn(30.9%) tiến triển ODI là 10.8%,
VAS 1.5 và 5 bệnh nhân không có tiến triển. Kết quả nc cho thấy tiêm
corticoid NMC đường cùng cụt là một biện pháp hiệu quả trong điều trị đau
thần kinh toạ.
V G Murakibhavi và cộng sự (2011),[18] tiến hành một thử nghiệm lâm
sàng ngẫu nhiên có đối chứng để đánh giá và cập nhật hiệu quả của tiêm
corticoid ngoài màng cứng đường cùng cụt trong điều trị đau thần kinh toạ và
đau vùng thắt lưng mạn tính. Nghiên cứu được tiến hành trên 102 bệnh nhân,
chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm:
Nhóm A (Nhóm điều trị bảo tồn): được điều trị bởi các thuốc giãn cơ
(Tizanidine 6-12mg/24h), thuốc giảm đau (diclofenac 50-100mg/24h), thuốc

giảm đau thần kinh Amitriptyline 10-50mg đồng thời với các phương pháp
vật lý trị liệu.
Nhóm B (Nhóm NC): được tiêm corticoid NMC đường cùng cụt với hỗn
hợp thuốc gồm: 20ml nước muối sinh lý, 2 ml Xylocain 2% và 2 ml(40mg)
triamcinelone acetate.
Từ kết quả nghiên cứu tác giả kết luận: Tiêm steroid NMC theo đường
cùng cụt điều trị hiệu quả cho những bệnh nhân đau thắt lưng và thần kinh
tọa. Nó là một kỹ thuật dễ tiến hành, không yêu cầu nhiều kỹ thuật và tỉ lệ
biến chứng thấp khi so với các biện pháp điều trị bảo tồn khác.


22

Steven P. Cohen và cộng sự (2013), [19] thực hiện một báo cáo đánh giá
tổng quan toàn diện dựa trên bằng chứng về tiêm corticoid ngoài màng cứng,
trên các khía cạnh sau:
- Cơ chế hoạt động: Những cơ chế mà steroid tác động để có hiệu quả
giảm đau đã được bàn cãi trong nhiều năm nay. Corticoid ức chế enzyme
phospholipase A2, là enzym thủy phân chuyển đổi phopholipids thành axit
arachidonic và lysophospholipid, là cơ chất cho nhiều enzym để tạo ra nhiều
chất chuyển hóa khác nhau như Prostaglandins. Prostaglandins cùng với
những chất khác được tạo ra từ acid arachidonic có thể gây đau hoặc làm đau
tăng thông qua tác dụng gây viêm của chúng hoặc khả năng làm tăng nhậy
cảm của bộ phận nhận cảm thần kinh ngoại biên. Phospholipase A2 bản thân
nó được tìm thấy có nồng độ cao ở vị trí các đĩa đệm bị thoát vị và thoái hóa.
Ngoài tác dụng ức chế phản ứng viêm, các steroid có thể ức chế đau thông
qua sự ngăn chặn sự phóng thích tín hiệu lạc chỗ từ những sợi thần kinh bị tổn
thương và làm chậm sự dẫn truyền trong những sợi thần kinh C không có
myelin bình thường. Một vài cơ chế được đề xuất cho những ảnh hưởng có lợi
không liên quan đến tác dụng của các steroid như: tiêm thuốc gây tê tại chỗ có

thể làm tăng dòng máu đến những rễ thần kinh bị thiếu máu và tương tự như
steroid, nó chặn sự phóng thích lệch vị trí từ các tế bào thần kinh bị tổn
thương và làm chậm hoặc dừng sự dẫn truyền của các bộ phận nhận cảm.
Thêm nữa, sự cho thêm các dung dịch muối sinh lý, thuốc gây tê tại chỗ hoặc
các thuốc không steroid có thể có hiệu quả giảm đau nhờ việc rửa trôi những
yếu tố viêm và gỡ dính của mô sẹo. Hiệu quả của những dung dịch không
phải steroid đã được chỉ rõ trong một báo cáo tổng quan hệ thống thực hiện
bởi Rabinovitch và cộng sự (2009), có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa
thể tích tiêm ngoài màng cứng với giảm đau mà không phụ thuộc vào liều
steroid trong giai đoạn cấp và bán cấp.


23

- Tính hiệu quả và các loại tiêm NMC: Tính hiệu quả của tiêm steroid
NMC trên bệnh nhân rất khó xác định, vì những yếu tố phức tạp và không
đồng nhất liên quan đến tiêm corticoid NMC. Những sự khác nhau về đường
tiêm, vùng tiêm, nhóm chứng, đặc điểm của thuốc tiêm, tình trạng bệnh lý của
người bệnh đều góp phần làm biến đổi kết quả điều trị và đặt ra những thách
thức trong việc làm sáng tỏ các nghiên cứu hiện có về tiêm steroid NMC.
Tiêm steroid NMC có thể thực hiện theo những đường khác nhau, nhưng
thường là 3 đường chính: Lỗ liên hợp (TF), khe liên đốt (IL) và khe xương cùng.
+ Đường xương cùng: Khe cùng là đường trực tiếp nhất để vào khoang
NMC và tiếp đó tiêm dung dịch steroid để điều trị bệnh lý vùng thắt lưng.
Những thuận lợi của đường tiêm này bao gồm: tỉ lệ biến chứng đâm thủng
màng cứng rất thấp do khoảng cách xa màng cứng, nó cũng an toàn đối với
những bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật-những người có nguy cơ cao đâm
thủng màng cứng và biến chứng thần kinh liên quan đến việc tiêm steroid
dạng hạt vào mạch máu. Tuy nhiên một số báo cáo tổng quan hệ thông đã cho
thấy những bằng chứng tốt (mức độ I) với những lợi ích trong việc điều trị

đau thắt lưng và đau chân do thoát vị đĩa đệm. Nhìn tổng thể, tiêm steroid
NMC đường cùng cụt được ủng hộ nhất trong điều trị hội chứng rễ thần kinh
do thoát vị đĩa đệm và có tiền sử phẫu thuật cột sống.
-Tác động của liều và thể tích tiêm NMC: Cả liều lượng và thể tích
steroid có thể rất thay đổi phụ thuộc vào đường tiêm, tổng số tăng dần tương
ứng khi tiến hành tiêm NMC lần lượt theo đường TF, IL và C.
+Ảnh hưởng của liều lượng corticoid đã được chứng minh trong 2
nghiên cứu ngẫu nhiên. Owlia và cộng sự (2007) cho thấy tiêm corticoid qua
khe liên đốt với liều 40 mg methylprednisolon có hiệu quả giảm đau tương tự
và ít ảnh hưởng có hại hơn khi so với liều 80 mg.
+Về thể tích tiêm NMC, Rabinovitch và cộng sự (2009) đã kết luận có
một hiệu quả độc lập và lợi ích giảm đau khi tiêm steroid với một thể tích cao
hơn. Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên được thực hiện bởi Revel và cộng sự


24

(1996) cho thấy steroid được tiêm cùng với nước muối sinh lý có thể tích
40ml mang lại hiệu quả giảm đau cao hơn khi so với tiêm liều lượng corticoid
tương tự với thể tích của chính nó, theo dõi trong 18 tháng.
-Ảnh hưởng của loại steroid: cho rằng depo-steroid đem đến một mức
giảm đau cao hơn khi so sánh với nondepo-steroid, tuy nhiên bằng chứng còn
mâu thuẫn và cấp độ thấp.
-Số lần tiêm lý tưởng? Không có các thử nghiệm lâm sàng để khảo sát
số lần tiêm lí tưởng. Rất nhiều hướng dẫn đã xác định là không có cơ sở để
tiến hành một loạt cố định tiêm nhắc lại mà không liên quan đến sự đáp ứng
điều trị, tuy nhiên, một vài hướng dẫn cho rằng số lần tiêm ESI nên điều
chỉnh theo từng bệnh nhân dựa vào đáp ứng lâm sàng. Trong hướng dẫn được
xuất bản bởi Viện hàn lâm Mỹ về Dược lý và Phục hồi chức năng, nói rõ nếu
việc tiêm thêm được chứng thực, thì các lần tiêm cũng nên cách nhau ít nhất

là 2 tuần để có thể đánh giá đáp ứng điều trị một cách đầy đủ và giảm thiểu
những tác dụng có hại như ức chế tuyến thượng thận. Ngoài ra, trong báo cáo
tổng quan hệ thống được thực hiện bới MacVicar và cộng sự (2013) đã cho
thấy 94% bệnh nhân đạt được kết quả điều trị tốt sau 1 lần tiêm và chỉ có 4%
người bệnh yêu cầu nhiều hơn 1 lần điều trị.
-Biến chứng: Những biến chứng liên quan đến tiêm corticoid ngoài
màng cứng không thường gặp, nhưng gần đây những cảnh báo ở Mỹ về nguy
cơ làm tăng viêm màng não do nấm.
+ Một nghiên cứu hồi cứu thực hiện gần đây, khảo sát 4265 lượt tiêm
corticoid NMC được tiến hành trên 1857 bệnh nhân trong hơn 7 năm, cho
thấy: không có biến chứng trầm trọng được nhận biết. Có 103 biến chứng nhỏ
được ghi nhận, chiếm tỉ lệ 2.4%. Biến chứng thường gặp nhất là đau tăng
chiếm 1.1%, đau tại vị trí tiêm 0.33%, tình trạng tê dai dẳng 0.14% và những
biến chứng khác 0.8%.
+Hiệp hội những nhà gây mê của Mỹ, trong một nghiên cứu đã chỉ rõ
hơn về một số biến chứng nghiêm trọng ít gặp. Báo cáo dựa trên 114 biến


25

chứng gây ra do tiêm steroid NMC mà hậu quả dẫn đến những kiện tụng do
sai sót chuyên môn. Những biến chứng được trích dẫn trong báo cáo đó gồm:
tổn thương thần kinh (28), nhiễm trùng (24), chết hoặc tổn thương não (9),
đau đầu (20), đau tăng, không giảm (10).
+Những biến chứng được báo cáo xảy ra sau khi tiêm corticoid NMC
bao gồm: tính độc hại thần kinh, tổn thương thần kinh, những ảnh hưởng do
tính chất dược lý của corticoid (Ưu năng tuyến thượng thận và ức chế tuyến
thượng thận, biến đổi dung nạp Glucose) và một vài vấn đề ít gặp khác như
thủng màng cứng, những biến chứng liên quan đến chảy máu, những biến
chứng liên quan đến nhiễm trùng

Tóm lại:
+ Tiêm corticoid NMC đã cho thấy có kết quả trong giảm đau và cải
thiện chức năng ở người bệnh trong ít nhất là 6 tuần.
+ Những bằng chứng về lợi ích lâu dài hơn hoặc làm giảm tỉ lệ phẫu
thuật còn mâu thuẫn.
+ Tiêm corticoid NMC theo đường cùng cụt điều trị hội chứng rễ thần
kinh được khuyến cáo mạnh nhất.
+ Các depo steroid được cho là có tác dụng giảm đau kéo dài hơn so với
những công thức không depo
+ Thể tích lớn có thể liên quan đến kết quả điều trị tốt hơn.
1.6.3. Tiêm corticoid khoang NMC có hướng dẫn của chẩn đoán hình ảnh
Carl P. C. Chen và cộng sự (2004),[25] thực hiện nghiên cứu trên 70
bệnh nhân đau thắt lưng và thần kinh tọa để tìm hiểu về tính tiện lợi của việc
sử dụng siêu âm như là một công cụ hình ảnh để xác định chính xác khe
xương cùng dùng cho việc tiêm corticoid NMC đường cùng cụt. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng Siêu âm dễ sử dụng, không bị ảnh hưởng bởi tia xạ, có
thể cung cấp những hình ảnh theo thời gian thực trong việc hướng dẫn kim đi
vào trong khoang NMC vùng xương cùng.


×