Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ trong chẩn đoán ung thư mũi xoang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.62 MB, 94 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư mũi –xoang (UTMX) là loại ung thư không thường gặp, chiếm
khoảng 0,2 – 0,8% tổng số các ung thư nói chung và khoảng 3% các ung thư
vùng đầu cổ [1]. UTMX là ung thư xuất phát từ niêm mạc xoang mũi hoặc
các xoang cạnh mũi. Về phân loại cổ điển, UTMX thường xuất phát từ một
trong ba tầng: tầng sàng, tầng hàm, tầng khẩu cái. Ở nước ta UTMX chiếm
một tỷ lệ khá cao trong ung thư đầu mặt cổ, đứng thứ ba sau ung thư vòm mũi
họng và ung thư hạ họng thanh quản, khoảng 92,7% các u có nguồn gốc biểu
mô [2]. Trên thế giới UTMX đã được nghiên cứu từ lâu và rộng rãi. Ở Việt
Nam, các nghiên cứu về UTMX chưa nhiều, đặc biệt rất ít các nghiên cứu về
hình ảnh học của UTMX.
Do đặc điểm về cấu trúc và vị trí giải phẫu của vùng sàng hàm rất phức
tạp và ở sâu, các triệu chứng lâm sàng thường kín đáo, tiến triển chậm không
có hạch hoặc hạch xuất hiện muộn, nên việc chẩn đoán giai đoạn sớm thường
gặp khó khăn, dễ bỏ qua và dễ nhầm lẫn với viêm mũi xoang. Tỷ lệ UTMX
được che đậy dưới dạng viêm mũi xoang mạn tính có thoái hoá cuốn giữa,
polyp khe giữa cũng hay thường gặp. Ở nước ta hiện nay một số tác giả đã lưu
ý có một tỷ lệ đáng kể UTMX trên những bệnh nhân có tiền sử này[1]. Giai
đoạn sau, UTMX không chỉ khu trú ở vùng sàng hàm mà xâm lấn ra xung
quanh như: các xoang lân cận, hốc mũi, hốc mắt, cơ chân bướm, nội sọ, gây
khó khăn cho phẫu thuật và có thể gây ra biến chứng nguy hiểm. Tuy nhiên
UTMX ít khi di căn xa và di căn chậm do đó có thể phẫu thuật được. Phẫu
thuật phối hợp với tia xạ và hoá chất có thể kéo dài cuộc sống đáng kể cho
bệnh nhân so với các ung thư đầu mặt cổ khác.
Để phẫu thuật triệt để hay xây dựng được chiến lược điều trị đúng đắn
thì vấn đề quan trọng là đánh giá chính xác vị trí và mức độ xâm lấn của u.


2



Tuy nhiên chẩn đoán UTMX ở nước ta chủ yếu dựa vào lâm sàng, XQ thường
quy và giải phẫu bệnh – những phương pháp này khó đánh giá được chính xác
vị trí, kích thước, liên quan của u. Ngày nay việc sử dụng cắt lớp vi tính
(CLVT) và cộng hưởng từ (CHT) trong chẩn đoán và đánh giá xâm lấn
UTMX có giá trị cao. Với hệ thống máy chụp ngày càng cải tiến, tái tạo và
thể hiện hình ảnh ở nhiều mặt phẳng khác nhau, kết hợp với tiêm thuốc cản
quang và thuốc đối quang từ cho phép đánh giá tốt hơn giới hạn u và sự xâm
lấn của u sang tổ chức phần mềm và xương lân cận[3].
Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc
điểm hình ảnh cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ trong chẩn đoán ung thư
mũi - xoang” với 2 mục tiêu:
1.

Mô tả đặc điểm hình ảnh chụp cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ của
ung thư mũi - xoang.

2.

So sánh khả năng phát hiện tổn thương trên hình ảnh chụp cắt lớp vi
tính và cộng hưởng từ trong đánh giá ung thư mũi - xoang.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1.Giải phẫu các xoang cạnh mũi.
Hệ thống xoang mặt có 10 xoang xếp thành 5 đôi, cân đối 2 bên hố mũi

gồm: xoang trán, xoang hàm, xoang sàng trước, xoang sàng sau, xoang bướm.
Các xoang được chia thành hai nhóm: nhóm xoang trước bao gồm xoang trán,
xoang hàm, xoang sàng trước.Nhóm xoang sau bao gồm xoang sàng sau,
xoang bướm. Các xoang cạnh mũi là các hỗng rỗng trong các xương đầu mặt,
thành xoang được lót bởi các tế bào biểu mô phủ có lông chuyển luôn luôn
chuyển động theo một chiều để quét các chất nhầy vào ổ mũi qua các lỗ
xoang đổ vào các ngách mũi. Do đó, bình thường các xoang đều rỗng, thoáng
và khô. Chức năng các xoang là góp phần làm ấm và ẩm không khí qua mũi,
cộng hưởng âm thanh và làm nhẹ các khối xương sọ và mặt.
1.1.1. Giải phẫu mũi và các xoang cạnh mũi.
Nguyên uỷ của các xoang chính là nguyên uỷ của hốc mũi tạo nên, do đó
còn gọi xoang là những hốc mũi phụ.
1.1.1.1. Giải phẫu khoang mũi
Ổ mũi đi từ lỗ mũi trước tới lỗ mũi sau:
-Lỗ mũi trước: tiền đình mũi
-Lỗ mũi sau: thông với tỵ hầu, được giới hạn ở trong là bờ sau vách mũi,
ở dưới là giới hạn đường khẩu cái cứng và khẩu cái mềm, ở ngoài là mảnh
trong chân bướm, ở trên là thân xương bướm.
-Thành trên: đoạn trước do xương sống mũi, xương trán; đoạn giữa tạo
nên bởi mảnh sàng và xương sàng; đoạn sau: thân xương bướm, cánh xương
lá mía và mỏm bướm xương khẩu cái.


4

-Thành dưới: tạo nên bởi mỏm khẩu cái xương hàm trên ở trước và mảnh
ngang xương khẩu cái ở sau.
-Thành ngoài: cấu tạo của nhiều xương: một phần của xương hàm trên,
xương lệ, xoắn mũi, mảnh thẳng xương khẩu cái, mảnh chân bướm trong.
-Thành trong: gồm 3 phần: phần xương ở sau cấu tạo bởi mảnh thẳng

xương sàng và xương lá mía; phần sụn ở trước tạo bởi sụn vách mũi và sụn cánh
mũi lớn; phần màng ở trước và dưới, cùng tạo nên bởi mô sợi và da; cơ quan lá
mía gồm 2 túi cùng nhỏ ở trong niêm mạc đổ vào phần trước vách mũi.
1.1.1.2. Giải phẫu các xoang cạnh mũi
Các xoang cạnh mũi là các hốc ở trong các xương ở xung quanh ổ mũi,
mở vào ổ mũi và được phủ bởi lớp niêm mạc cốt mạc liên tiếp với niêm mạc
vùng hô hấp của mũi. Nhiễm trùng của mũi có thể lan truyền tới xoang gây
viêm xoang.
- Xoang hàm trên: là một hốc xẻ trong xương hàm trên, là xoang lớn
nhất trong các xoang cạnh mũi, có hình tháp giống như xương: mặt trước giáp
má; mặt trên giáp với nền ổ mắt; mặt sau liên quan với hố chân bướm khẩu
cái; đỉnh liên quan với gò má; nền hay mặt trong liên quan với mũi và có lỗ
thông đổ vào ngách mũi giữa; bờ dưới xoang liên quan với răng hàm bé thứ 2
và chân răng hàm lớn thứ nhất.
- Xoang trán: có 02 xoang trán tương ứng của phần đứng xương trán.
Các xoang trán rất thay đổi về hình dáng, kích thước và hai xoang hai bên
cũng thường khác nhau. Mặt trước của xoang là mặt phẫu thuật có da che
phủ; mặt sau mỏng liên quan với não, màng não; mặt trong là một vách xương
mỏng ngăn cách 2 xoang ở hai bên; mặt dưới liên quan với trần ổ mắt và
xoang sàng. Lỗ thông xoang trán đổ vào ngách mũi giữa.
- Xoang sàng: gồm rất nhiều xoang nhỏ, có từ 4-17 xoang cho mỗi bên, nằm
trong mê đạo sàng.Dựa vào vị trí của xoang mà người ta chia làm 3 nhóm:


5

+ Các tiểu xoang sàng trước: đê mũi (nếp lồi ở cực trước xoăn mũi giữa)
là mốc để vào các tiểu xoang sàng trước.
+ Các tiểu xoang sàng giữa.
hai nhóm này đổ vào ngách mũi giữa.

+ Các tiểu xoang sàng sau: đổ vào ngách mũi trên.
- Xoang bướm: là một hốc xẻ trong thân xương bướm, kích thước rất thay
đổi, thường đổ vào phần trên ngách bướm sàng của ổ mũi. Lỗ đổ vào ổ mũi của
xoang bướm cao hơn sàn xoang 10 – 15mm, đường kính trung bình 5mm.
Có hai xoang (phải và trái), ngăn cách nhau bởi một vách xương, thường
lệch sang một bên.

Hình 1.1. Giải phẫu các xoang cạnh mũi [4]
1. vách ngăn, 2. mào gà, 3. ổ mắt, 4.xương giấy
5. cuốn mũi giữa, 6.cuốn mũi dưới, 7.khe mũi giữa,
8.khe mũi dưới, 9. xoang hàm, 10. xoang sàng.

1.1.1.3.Mạch máu và thần kinh mũi xoang


6

Động mạch: hệ thống mạch máu ở mũi rất phong phú. Mũi được cấp
máu bởi các nhánh của cả hệ thống cảnh trong (động mạch mắt) và hệ thống
cảnh ngoài (động mạch hàm trong).
Động mạch sàng trước (nhánh của động mạch mắt), đi trong một ống
xương sát nền sọ, nằm giữa các tế bào sàng trước và bóng sàng.Động mạch
sàng trước dễ bị tổn thương trong các phẫu thuật vào xoang sàng, vì vậy đây
được coi như giới hạn phẫu thuật mở xoang sàng trước.
Động mạch sàng sau (nhánh của động mạch mắt) và động mạch bướm - khẩu
cái (nhánh của động mạch hàm trong) nằm sâu trong xương nên ít bị tổn thương.
Động mạch bướm khẩu cái, tận cùng của động mạch hàm trong chui vào
hố mũi ở lỗ bướm khẩu cái rồi chia ra làm hai ngành: ngành trong cho vách
ngăn, ngành ngoài cho vách mũi xoang. Các động mạch này giao lưu với
nhau tại một điểm gọi là điểm mạch Kiesselbach ở phần trước và dưới của

vách ngăn mũi.
Động mạch khẩu cái trên: là nhánh của động mạch hàm trong đi xuống
dưới vào ống khẩu cái sau ở ngang mức xương cuốn dưới thì tách ra một hoặc
hai nhánh đi qua mảnh đứng xương khẩu cái để phân nhánh vào khe dưới và
xương cuốn dưới.
Động mạch chân bướm khẩu cái: là nhánh của động mạch hàm trong đi
qua ống chân bướm- khẩu cái và phân nhánh cho niêm mạc trần ổ mũi và
niêm mạc vòm mũi họng.
Động mạch cánh mũi và các động mạch chân vách ngăn: là nhánh động
mạch mặt tưới máu cho vùng đầu mũi và cánh mũi.
Tĩnh mạch: hệ thống tĩnh mạch đổ vào tĩnh mạch hàm trong, tĩnh mạch
mắt và tĩnh mạch mặt.


7

Thần kinh: Sự phân bố thần kinh ở mũi rất phong phú. Ở mũi có hai loại
thần kinh: thần kinh cảm giác và thần kinh khứu giác. Dây thần kinh cảm giác
là các nhánh của dây mắt và hạch bướm – khẩu cái. Hạch bướm khẩu cái cho
các dây thần kinh bướm khẩu cái trong, bướm khẩu cái ngoài, khẩu cái sau,
trước, giữa. Dây thần kinh mắt chia ra dây thần kinh sàng, dây này lại chia ra
dây thần kinh cánh mũi và dây thần kinh mũi trong.
Dây thần kinh khứu giác: bắt nguồn từ các tế bào khứu giác ở vệt vàng
của khe khứu giác. Các dây này chui qua mảnh sàng vào não và tập chung ở
hành khứu của vỏ não.
1.1.1.4. Mô học của khối sàng hàm [5]
- Niêm mạc khứu giác phủ mặt dưới mảnh sàng ở phía trước, phần trên
của vách ngăn và cuốn trên. Niêm mạc nhẵn, màu vàng nhạt gồm một lớp
biểu mô trụ tầng. Lớp này gồm ba loại tế bào: tế bào nhận cảm khứu giác, tế
bào đệm, tế bào đáy.

- Phần còn lại của xoang sàng và xoang hàm được phủ bởi lớp niêm mạc
thở (niêm mạc Schneider) là lớp niêm mạc đỏ hồng được lợp bởi lớp biểu mô
trụ có lông chuyển giả bè gồm có các tế bào khác nhau: tế bào trụ không có
lông chuyển, tế bào trụ có lông chuyển, tế bào đệm, tế bào đáy.
- Giới hạn sâu là màng đáy rất đàn hồi, phía dưới có những nhú bao gồm
sợi liên kết đàn hồi chứa nhiều hồ máu, đa số là hệ tĩnh mạch, ở giữa chúng là
tuyến tiết thanh dịch hoặc nhầy.
1.2. Chẩn đoán ung thư mũi xoang
1.2.1. Lâm sàng
Do cấu trúc giải phẫu phức tạp của mũi xoang và sự lan rộng của khối u
xâm lấn ra lân cận nên xuất hiện phối hợp nhiều dấu hiệu lâm sàng, thường
được phân chia thành 5 hội chứng chính [1 ] [6 ] [7]:


8

 Hội chứng mũi xoang: hay gặp nhất biểu hiện
- Triệu chứng đầu tiên là ngạt tắc mũi một bên, tổn thương tắc ngày càng
tăng dẫn đến ngạt tắc mũi hoàn toàn. Chảy mũi nhầy trong hoặc mầu hồng
thỉnh thoảng chảy mũi lẫn máu tươi.
- Giai đoạn muộn khi u phát triển to ra và xâm lấn vào mũi bệnh nhân sẽ
đau nhức nhiều vùng má hoặc dọc theo sống mũi kèm theo bệnh nhân có rối
loạn ngửi (giảm ngửi, mất ngửi).
 Hội chứng mắt:
- Ở giai đoạn u đã phá huỷ các thành xương lân cận hố mắt, phá vỡ
xương giấy (nếu u ở xoang sàng), phá vỡ sàn ổ mắt (nếu u ở xoang hàm) thì
sẽ có những biểu hiện ở mắt: đau nhức vùng hốc mắt, chảy nước mắt nhìn mờ
cùng phía bên tổn thương.
- Khám thực thể có thể thấy nhãn cầu bị đẩy lồi, lúc đầu nhãn cầu di
động được sau đó bị liệt và thị lực bị mất hoàn toàn, có thể thấy phù nề, xung

huyết kết mạc.
 Hội chứng thần kinh:
- Thường thấy ở giai đoạn muộn khi u đã phát triển và xâm lấn các tổ
chức lân cận chèn ép vào dây thần kinh V gây ra các biểu hiện: lúc đầu
thường đau chốc lát rồi hết, giai đoạn sau đau nửa đầu, đau vùng thái dương,
đau âm ỉ liên tục không thành cơn.
- Khám lâm sàng sẽ thấy tê bì nửa mặt, đau tê răng vùng bên tổn thương,
nặng hơn có thể mất cảm giác một bên bị tổn thương.
 Hội chứng biến dạng do u:
Tuỳ thuộc vào vị trí xuất phát của khối u và sự xâm lấn của nó vào các tổ
chức lân cận, ở giai đoạn muộn sẽ có các biểu hiện sau:
- Góc trong của mắt bị phồng đẩy lồi mắt.
- Gốc mũi bị biến dạng, mất rãnh mũi má, vùng má bị sưng nề.
- Đẩy rãnh lợi môi, phồng sàn hàm ếch.


9

 Hội chứng do di căn
- Di căn hạch: UTMX di căn thường xuất hiện ở giai đoạn muộn và ít
gặp hơn các ung thư khác ở vùng đầu mặt cổ. Trong UTMX khi có hạch là
biểu hiện xấu đối với tiên lượng và điều trị. Tính chất hạch di căn: rắn chắc, di
động kém vị trí cùng bên tổn thương và thường thấy ở dưới hàm, góc hàm và
ít thấy ở rãnh cảnh.
- UTMX hiếm gặp di căn xa, nếu có thì có thể di căn ở não, phổi, chi và
các xương dài.
1.2.2. Nội soi xoang [8]
Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán và điều trị
UTMX, nó có một số ưu điểm mà một số phương pháp khác không có được:
- Nhìn thấy trực tiếp được lớp niêm mạc trong xoang, có thể phát hiện

được nang, dịch nhầy, polyp, u trong xoang.
- Có thể làm được sinh thiết, thực hiện một số vi phẫu thông xoang.
Tuy vậy nội soi xoang cũng có một số hạn chế:
- Gây chảy máu và đau
- Một số bệnh nhân có thể bị shock do tác dụng phụ của thuốc tê
- Không đánh giá được các tổn thương ở sâu như xoang sàng, xoang
bướm, hốc mắt và nội sọ.
1.2.3. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh
1.2.3.1. Chụp XQuang thường quy [8 ] [9].
- Phim Blondeau: có đám mờ đậm lan toả trong xoang hàm, cá biệt có
thể thấy hình ảnh khối u trong xoang khi u xâm lấn vào hốc mũi, thấy mờ đặc
trong hốc mũi, các thành xoang bị mờ, mất nét do thâm nhiễm u. Thành
xoang bị vỡ do u xâm lấn, hay gặp nhất là vách ngăn mũi xoang, sàn và thành
ngoài ổ mắt.


10

- Phim Hirtz: thấy các xoang sàng trước và sàng sau mờ hoặc giãn rộng một
bên. Có thể thấy vùng cánh xương bướm: các nét xương mờ không rõ nét như
bên kia.
- Phim tư thế sọ nghiêng cho thấy thành trước của xoang hàm bị phá vỡ,
có thể thấy tổn thương ung thư xâm lấn xương nền sọ.
Các dấu hiệu trên phim XQuang chỉ có ý nghĩa định hướng tổn thương
do chồng các tổ chức phần mềm, xương của nhiều xoang nên hạn chế trong
chẩn đoán: không đánh giá chính xác được vị trí, kích thước, số lượng của u
và mức độ lan rộng của tổn thương sang lân cận.
1.2.3.2. Chụp cắt lớp vi tính [8 ] [10]
Chụp được tiến hành trên 02 lớp cắt : lớp cắt trục (Axial) - lớp cắt song
song với đường thẳng nối lỗ tai ngoài tới điểm ngoài hố mắt (đường OM) và

lớp cắt theo mặt phẳng trán (Coronal) – lớp cắt vuông góc với đường OM.
Tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch được sử dụng trong chụp CLVT góp phần
đánh giá tình trạng mạch máu và tính chất ngấm thuốc cản quang của u, mức
độ xâm lấn của u sang lân cận như: hốc mắt, hố chân bướm, lỗ mũi sau – vòm
họng, đặc biệt có giá trị trong chẩn đoán u xâm lấn nội sọ, giúp sơ bộ chẩn
đoán phân biệt. Ngoài ra còn có giá trị trong lập kế hoạch tia xạ trước mổ và
đưa ra phương pháp phẫu thuật tối ưu.
Chụp CLVTcó thể đánh giá hình ảnh tổn thương là khối có tỷ trọng tổ chức
trong xoang sàng, xoang hàm, kèm theocó hình ảnh phá huỷ thành xoang.
Khối u nhỏ: trên phim chụp CLVT có thể thấy sự khác nhau giữa lớp
niêm mạc và dưới niêm mạc bị thâm nhiễm ở thì tiêm thuốc cản quang và sự
dày niêm mạc xoang khu trú.
Khối u lớn hơn: u thâm nhiễm niêm mạc xoang, phá huỷ cấu trúc xương
thành xoang làm biến dạng xoang và xâm lấn vào các tổ chức lân cận.


11

- Hay gặp u xoang hàm xâm lấn vào hốc mũi, phá huỷ các cuốn mũi,
vách ngăn mũi.
- U xoang hàm phát triển ra phía sau vào lỗ mũi sau – vòm họng, hố chân
bướm hàm và hố dưới thái dương, khối u được nhận ra như là một khối xâm
lấn làm lớp mỡ bao bọc giữa các cơ bị mất do sự lan tràn của các tế bào có tỷ
trọng cao hơn mỡ trên cửa sổ mỡ, u phá huỷ mảnh chân bướm hàm.
- U mũi - xoang xâm lấn vào nền sọ xuyên qua trần sàng, mảnh sàng lúc đó
sẽ có hình ảnh đẩy phồng hoặc khuyết xương tại trần sàng, u có thể xâm lấn vào
thuỳ trán, hình ảnh nhu mô não bị xâm lấn ngấm thuốc cản quang mạnh.
- U mũi - xoang xâm lấn phá huỷ xương giấy hoặc rãnh dưới hốc mắt,
sàn hốc mắt xâm lấn vào hốc mắt: hình ảnh khối tỷ trọng mô mềm lan vào
chiếm chỗ, thâm nhiễm các thành phần trong hốc mắt như thần kinh thị giác,

cơ vận nhãn gây lồi mắt.
1.2.3.3. Cộng hưởng từ
Nhờ đặc điểm đối quang của tổ chức phần mềm rất cao và có thể tạo
hình ảnh trên nhiều mặt phẳng khác nhau nên hình ảnh của CHT ưu thế hơn
nhiều kỹ thuật khác trong chẩn đoán UTMX.
Chẩn đoán mô bệnh học của khối u mũi - xoang thì sử dụng hình ảnh là
không thể. Thay vào đó, các nhà chẩn đoán hình ảnh xác định chính xác giới
hạn giải phẫu của một khối u nhất định. Sự kết hợp giữa CLVT và CHT là cần
thiết, trong đó CLVT được sử dụng để xác định ảnh hưởng của khối u với các
xương liền kề, còn CHT là cần thiết để đánh giá sự xâm lấn xung quanh các
dây thần kinh, nền sọ, hốc mắt và xâm lấn nội sọ.
Quy trình chụp khối u xoang cạnh mũi bao gồm sự kết hợp hình ảnh giữa
T1W axial và coronal với T2W axial và coronal. Thông thường T1W axial,
T1W coronal và T2W coronal bão hoà chất béo (xoá mỡ) là cần thiết.T1W
sagital cũng thường được sử dụng để đánh giá vòm mũi họng.Gadolinium


12

được dùng thường xuyên và hình ảnh axial và coronal xoá mỡ có tiêm thuốc
đối quang từ. Độ dày lát cắt không quá 3mm là cần thiết.
Một trong những khó khăn trong xác định mức độ lan tràn của khối u là
cùng tồn tại tổn thương viêm. Chụp CHT là vượt trội hơn CLVT trong việc đưa
ra sự phân biệt giữa khối u và tổn thương viêm lân cận. Hàm lượng nước cao
hơn trong chất tiết do viêm niêm mạc chuyển đổi thành tăng tín hiệu trên T2W.
Các khối u có mật độ tế bào dày đặc và lượng nước nội bào và khoảng gian bào
ít nên chúng thường có tín hiệu trung gian trên hình ảnh T2W [11]. Tuy nhiên
tăng tín hiệu trên T2W là đặc điểm đặc trưng của u tuyến nước bọt đa hình, các
khối u vỏ dây thần kinh, u mạch và u nhú đảo ngược [12]. Chú ý rằng cường
độ tín hiệu của dịch tiết phụ thuộc vào hàm lượng protein trong nó.Khi hàm

lượng protein trong dịch tiết tăng lên, cường độ tín hiệu sẽ tăng trên T1W và
giảm trên T2W. Khi nồng độ protein vượt quá 28%, thì chất tiết sẽ giảm tín
hiệu trên cả T1W và T2W và có thể như một xoang chứa khí [13].

Hình 1.2: Ung thư biểu mô tế bào vảy của khoang mũi trái giảm tín hiệu trên
T1W, tăng tín hiệu trên T2W. Khối này chèn ép ngách bướm sàng và ngách
xoang hàm trái gây tắc nghẽn lưu thông dịch xoang (dấu sao)[14].


13

1.2.3.4. Mô hình xâm lấn và đánh giá trên cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ
UTMX có khả năng lan tràn, xâm lấn vào các cấu trúc lân cận bằng cách
phát triển trực tiếp hoặc tạo các u nhầy xâm lấn.
a)Phá huỷ xương
Sự phá huỷ xương liền kề là thường thấy trong UTMX. Huỷ xương
thường được quan sát thấy trong ung thư biểu mô tế bào vẩy, di căn, sarcom,
ung thư biểu mô không biệt hoá. Tuy nhiên, u tuyến nước bọt ác tính,
lymphoma tế bào lớn, melanoma, ung thư thần kinh khứu giác có xu hướng
tái tạo xương. Cần chú ý rằng sự thay đổi xương thường là phản ánh sự phát
triển của khối u. Lymphoma và melanoma – tổn thương tái tạo xương, tiên
lượng xấu hơn ung thư bểu mô tế bào vảy [12]. Mặt khác bệnh lý viêm nhiễm
xoang có thể liên quan đến sự phá huỷ xương rộng nên cần chẩn đoán phân
biệt, đánh giá sự thay đổi xương này trên CHT tốt hơn trên CLVT.

Hình 1.3: Lymphoma xoang hàm trái (mũi tên đỏ) xâm lấn phá huỷ thành
xoang (mũi tên vàng), tiêu huỷ và tái tạo xương bướm (mũi tên xanh), xâm
lấn mô mềm trong khoang cơ cắn (dấu sao)[15].
b)Xâm lấn nền sọ
Sự xâm lấn có thể từ xói mòn xương đơn thuần đến xâm lấn theo các dây

thần kinh sọ qua các lỗ nền sọ vào các ngăn nội sọ. Xie và cộng sự đã quan


14

sát thấy hình ảnh CHT tốt hơn CLVT trong đánh giá xói mòn xương nền sọ
của 63 bệnh nhân ung thư vòm [16]. Thay thế cường độ tín hiệu cao bình
thường của tuỷ xương trên T1W, xói mòn xương thể hiện bằng hình ảnh xoá
mỡ sau tiêm thuốc và tăng tín hiệu của phù tuỷ khi có xâm lấn đáy sọ.Tuy
nhiên trong một số bệnh máu, thiếu máu mạn tính, HIV và loãng xương có
quá trình tái tạo tuỷ xương, làm giảm tín hiệu trên T1W. Chuỗi xung khuếch
tán được sử dụng để phân biệt ung thư với thâm nhiễm tuỷ không do ung thư,
điều này đã được áp dụng trong chẩn đoán bệnh lý cột sống [17].

Hình 1.4: Ung thư biểu mô xoang sàng trái xâm lấn phá huỷ xương giấy,
nền sọ [15].
c)Xâm lấn nhu mô não, màng não.
Xâm lấn màng cứng là bước cuối cùng trước khi xâm lấn vào nhu mô
não chức năng. Mức độ xâm lấn màng cứng là một chỉ số quan trọng.Theo dõi
21 bệnh nhân có xâm lấn tầng trước sọ mặt, chỉ 22% bệnh nhân xâm lấn màng
cứng sống sót sau 3 năm. Xâm lấn màng cứng cũng ảnh hưởng đến phương
pháp phẫu thuật và quyết định sửa chữa lắp mảnh xương sọ hay cấy mô ghép
[18]. Xâm lấn nhu mô não không phải chống chỉ định tuyệt đối của phẫu
thuật. Tuy nhiên có một phương pháp điều trị tích cực với cắt bỏ rộng một
phần nhu mô với người già hoặc người đã từng điều trị chiếu xạ [19].


15

CHT là tốt hơn CLVT trong đánh giá xâm lấn màng cứng. Trên CHT,

màng cứng tăng ngấm thuốc là không đủ để chẩn đoán xâm lấn, nó có thể
trong bệnh cảnh của chảy máu, viêm, hay dày màng cứng đơn thuần. Những
nốt ngấm thuốc thì 100% là tổn thương xâm lấn màng cứng. Khi mà màng
cứng dày >5mm và ngấm thuốc thì chẩn đoán xâm lấn có độ nhạy, độ đặc
hiệu, độ chính xác lần lượt là 75%, 100% và 91% [20]. Nhu mô não tăng tín
hiệu là chắc chắn có sự xâm lấn màng não.

Hình 1.5: Ung thư biểu mô vảy kém biệt hoá của khoang mũi và xoang sàng
xâm lấn nhu mô não thuỳ trán trái[14].
d) Xâm lấn ổ mắt
Bảo tồn hốc mắt trong suốt quá trình phẫu thuật là vấn đề còn nhiều
tranh cãi. Hai điểm chính của vấn đề là cắt bỏ toàn bộ khối u và bảo tồn chức
năng của hốc mắt.Tuy nhiên nhiều bệnh nhân chấp nhận rủi ro khi phẫu thuật
cắt bỏ tối thiểu để bảo toàn chức năng ổ mắt. Một nghiên cứu ở đại học
Virginia với kế hoạch điều trị xạ trị trước phẫu thuật, mắt có thể được bảo tồn
ở hầu hết phẫu thuật các khối u xoang cạnh mũimà vẫn đảm bảo lấy hết tổ
chức khối u ở mức an toàn [21-23].
Tất cả 4 xoang cạnh mũi đều nằm liền kề với ổ mắt. Nhiều những lỗ nhỏ
trên thành ổ mắt cho mạch máu và thần kinh đi vào hốc mắt, chính những


16

đường này dẫn truyền cho khối u lan vào ổ mắt. Các xương của tuyến lệ là
mỏng và thường dễ dàng bị các khối u gốc mũi xoang xâm nhập. Xương giấy
cũng là một cấu trúc xương mỏng. Tuy nhiên, cấu trúc quanh hốc mắt và
màng xương hốc mắt khá kiên cố, do đó có thể chưa có sự xâm lấn hốc mắt
dù đã có sự phá huỷ xương của thành ổ mắt.
CLVT và CHT đều được sử dụng để đánh giá sự xâm lấn ổ mắt. Một vài
dấu hiệu như thay đổi chất béo, mối quan hệ giữa khối u và thành ổ mắt (tiếp

xúc, đẩy phồng), bất thường cơ vận động nhãn cầu (phì đại, tín hiệu bất
thường, thay đổi vị trí), các nốt của khối u trên thành xương ổ mắt, sự toàn
vẹn của thành ổ mắt... đã được sử dụng để đánh giá xâm lấn. Trong số các tiêu
chí này, có giá trị tiên lượng dương tính cao nhất là tăng tín hiệu cơ vận động
nhãn cầu (100%) và xâm lấn lớp mỡ ổ mắt (80% với CHT, 86% với CLVT).
Chụp CLVT có thể chính xác hơn CHT do nó có khả năng đánh giá xương và
chất béo ổ mắt tốt, trong khi CHT thì cả hai cùng giảm tín hiệu trên tất cả các
chuỗi xung [17 ] [24 ] [25].

Hình 1.6: Ung thư biểu mô tế bào vảy xoang hàm trái là khối tỷ trọng hỗn
hợp ngấm thuốc không đều sau tiêm, phá huỷ xương thành xoang, xâm lấn ổ
mắt (mũi tên hình A), cơ chân bướm trong bên trái (mũi tên hình B)[14].


17

e)Lan tràn u theo dây thần kinh ngoại biên
Các phân tử kết dính tế bào ung thư vào các tế bào thần kinh cho phép tế
bào u lan dọc theo các dây thần kinh. Có nhiều loại khối u đầu mặt cổ, trong đó
đáng kể nhất là ung thư tế bào tuyến nang và ung thư tế bào biểu mô vảy là có sự
lan tràn mạnh mẽ nhất xấp xỉ 93% [17 ] [26 ] [27]. Ung thư tế bào biểu mô tuyến
nang là ung thư thường gặp nhất lây lan theo các dây thần kinh ngoại biên
(60%). Một số loại khác có thể lan tràn như vậy như ung thư tế bào đáy, ung thư
biểu mô niêm mạc, lymphoma, melanoma, sarcom cơ vân, di căn.
Phát hiện bệnh lý thần kinh sọ não trên một bệnh nhân UTMX có thể là
tổn thương thứ phát do lan tràn theo các dây thần kinh ngoại vi. Nó có thể
không có triệu chứng gì. Hiếm khi phát hiện các triệu chứng thứ phát (dị cảm
trên khuôn mặt) trước khi phát hiện khối u nguyên phát.
Hiểu biết chắc chắn về giải phẫu đầu mặt cổ là rất quan trọng trong đánh
giá sự xâm lấn theo các dây thần kinh. Tổn thương sọ não có thể là sự xâm lấn

qua hố chân bướm khẩu cái. Hố này nằm giữa thành sau của xoang hàm và
mỏm chân bướm của xương bướm. Mỗi hố liên tiếp với xoang hang qua lỗ
tròn cho dây thần kinh sinh ba hàm trên (V2) đi qua và khuyết hay ống chân
bướm cho các dây thần kinh chân bướm đi qua. Hố này thông với khoang
miệng qua khe bướm hàm. Thần kinh hàm trên chi phối cơ nhai nên có thể lan
truyền tế bào ung thư theo đường này xuống hố chân bướm- khẩu cáithông
qua lỗ bầu dục đến các khoang Meckel. Các hố này liên tiếp với ổ mắt qua
khe ổ mắt dưới, liên tiếp với tầng giữa với khoang mũi thông qua lỗ chân
bướm. Ở phía dưới là các lỗ cho các dây thần kinh khẩu cái lớn và nhỏ đi qua.
CHT có tiêm thuốc trên xung xoá mỡ là đánh giá tốt nhất sự lan tràn theo
các dây thần kinh. Các dấu hiệu này bao gồm thâm nhiễm mỡ của hố chân bướm
khẩu cái, ngấm thuốc và dày các dây thần kinh, thâm nhiễm mỡ đáy sọ, ngấm
thuốc của các mô mềm trong xoang hang và hang Meckel, mất dẫn truyền cơ
nhai (teo cơ nhai). Khi bệnh lan tràn rộng, phá huỷ cấu trúc xương đáy sọ có thể


18

thấy rõ trên CLVT. Có nhiều tổn thương có thể cùng tồn tại nhưng không liên
tiếp nhau, những xâm lấn nhỏ là khó có thể đánh giá trên hình ảnh, chẩn đoán
hình ảnh phát hiện khoảng 70% các trường hợp [28 ] [29].

Hình 1.7: Ung thư biểu mô tế bào hình thoi xâm lấn lỗ tròn bên phải, phá huỷ các
cấu trúc xương lân cận (mũi tên xanh), bên trái bình thường (mũi tên vàng) [15].

Hình 1.8: Ung thư tuyến nang có sự xâm lấn vào hố chân bướm khẩu cái
và dây thần kinh V2 (dây thần kinh dầy lên và ngấm thuốc mạnh sau tiêm)
trong lỗ tròn [14].



19

f) Xâm lấn hạch (Lymph Node Spread)
Di căn hệ thống mô liên kết là một dấu hiệu để tiên lượng. Khám lâm
sàng có thể phát hiện khoảng 70% hạch bất thường. CLVT và CHT phát hiện
di căn hạch trong khoảng 38% - 67% trường hợp không sờ thấy được [30].
Khối u xâm lấn rộng đến da, nếp má lợi, hệ thống cơ chân bướm, liên quan
đến di căn hạch. Xấp xỉ 15% bệnh nhân UTMX phát triển dạng nốt.
Dẫn lưu bạch huyết của các xoang theo hệ thống tĩnh mạch. Bạch huyết
của nửa trước khoang mũi dẫn về nhóm IB. Bạch huyết từ nửa sau khoang
mũi đến họng mũi đổ vào các hạch bạch huyết sau hầu và vào các nhóm hạch
từ nhóm II đến nhóm V. Bạch huyết từ xoang trán và xoang sàng đổ vào nhóm
I, xoang bướm đổ vào hạch sau hầu, xoang hàm trên đổ vào nhóm IB, II, III,
IV và các hạch bạch huyết phía bên sau hầu. Chú ý rằng các hạch phía sau
hầu có thể không còn cấu trúc bình thường do những nhiễm trùng tái phát khi
còn nhỏ; hạch nhóm I và II thường là những trạm đầu cho tổn thương di căn
xa từ khối u nguyên phát ở các xoang cạnh mũi.
Tiêu chuẩn đánh giá di căn hạch từ khối u nguyên phát vùng đầu mặt cổ
cũng giống như từ khối u nguyên phát của nơi khác với các đặc điểm: kích
thước lớn trên 10mm, có hoại tử, xâm lấn ra ngoài vỏ và cấu trúc mạch máu
bất thường…là những đặc điểm có thể đánh giá trên hình ảnh. Tuy nhiên cần
chú ý rằng hạch có kích thước bình thường vẫn có thể chứa các tế bào ung
thư hoặc ngược lạiphản ứng tăng sản của hạch từ nguyên nhân khác không
phải di căn.
Một số kỹ thuật CHT đã được phát triển với mục tiêu phát hiện sự thâm
nhập tế bào u vào hạch trước khi có sự phát triển thay đổi hình thái. Oxid sắt
siêu thuận từ và siêu nhỏ siêu thuận từ đã được sử dụng làm tác nhân tương
phản âm tính. Các oxid sắt này đi qua màng trong tế bào được thực bào bởi
các đại thực bào trong các hạch bình thường và các tế bào sẽ trở nên giảm tín



20

hiệu mạnh trên T2W và T2*. Các hạch bạch huyết có chứa các tế bào ung thư
có một lượng rất ít các đại thực bào và do đó không làm giảm tín hiệu trên các
xung trên. Với các khối u vùng đầu mặt cổ, độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính
xác của kỹ thuật này đã được báo cáo khá là cao với 96%, 87% và 93% [31].
Tuy nhiên kỹ thuật này chưa được phổ biến rộng rãi và đòi hỏi phải theo dõi
trong thời gian dài là những vấn đề còn khó khăn.
Trong 27 bệnh nhân nghiên cứu, Fischbein và cộng sựthấy rằng sử dụng
CHT có tiêm thuốc có thể phân biệt hạch bệnh lý và hạch bình thường ở những
bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào vảy. Họ thấy rằng cần một thời gian lâu hơn
để ngấm thuốc hoàn toàn, đỉnh ngấm thuốc cũng thấp hơn vàrửa trôi chậm
hơntrong ung thư hạch bạch huyết sau khi tiêm thuốc đối quang từ. Họ đưa ra
giả thiết để giải thích là do giảm thành phần vận chuyển trong mô hạch và giảm
thể tích ngoại bào, giảm mạch máu trong hạch chứa ung thư [32].
1.2.4. Chẩn đoán phân biệt
Chẩn đoán phân biệt được đặt ra với các tổn thương lành tính. Các tổn
thương lành tính hay gặp nhất vùng mũi – xoang là u nhú đảo ngược và u xương,
theo sau là loạn sản xơ và u có nguồn gốc thần kinh (VD: Schwannomas…)
- U xương: là tổn thương lành tính hay gặp nhất, thường phát hiện tình cờ
trên CLVT. Vị trí thường gặp nhất là xoang trán sau đến xoang sàng và xoang
hàm [33 ] [34]. Phát triển kích thước lớn mà không gây triệu chứng cho tới khi
chèn ép gây tắc nghẽn các xoang. Chẩn đoán trên CLVT: khối tỷ trọng xương,
bờ viền rõ, đôi khi là tổn thương kính mờ khó phân biệt với loạn sản xơ.
- Loạn sản xơ: là tình trạng tuỷ xương bình thường được thay thế bởi mô
xơ tạo hình ảnh kính mờ trên CLVT. Loạn sản xơ xuất hiện ở nền sọ, các
xoang cạnh mũi với các cấu trúc bao quanh chúng phức tạp. Có thể cùng tồn
tại 3 loại mô hình: đặc xương, tiêu xương và hỗn hợp, trong đó loại hỗn hợp



21

(cả đặc xương và tiêu xương) là hay gặp nhất. CLVT thường cho thấy hình
ảnh đặc trưng, trong khi đó hình ảnh CHT có thể gây nhầm lẫn do tín hiệu
phụ thuộc vào số lượng của các thành phần nang và mô xơ. Mô xơ có hoạt
tính chuyển hoá và mạch máu cao nên ngấm thuốc mạnh trên T1W sau tiêm
và do đó dễ bị hiểu nhầm là khối u ác tính [35].
- U nhú: là tổn thương lành tính hay gặp thứ 2, tuy nhiên vẫn hiếm với tỷ
lệ chỉ chiếm 0,5± 4,4%các khối u nguyên phát [36]. U nhú tổn thương lớp
niêm mạc mà không làm thay đổi cấu trúc màng đáy. Thường tổn thương khối
đơn độc trên CLVT, tổn thương ở một bên và đẩy phồng thành xương, vách
ngăn mũi lân cận. Trên hình ảnh CHT hình ảnh màng nhầy đặc trung với các nếp
gấp rãnh cuộn não trên T2W và T1W sau tiêm thuốc [37] [38]. Tổn thương u
nhú đảo ngược có khả năng tái phát và chuyển dạng ác tính. Kim và cộng sự đã
phát hiện thấy 16/228 bệnh nhân u nhú đảo ngược có liên quan đến ung thư
xoang cạnh mũi, gặp ác tính nhiều hơn ở nam giới, có nguồn gốc từ xoang trán.
Hơn nữa có báo cáo 1/3 số bệnh nhân có di căn xa sau điều trị ban đầu. Nguy cơ
tái phát cũng tăng cao trong những người hút thuốc lá [39] [40].
- Schwannoma: là tổn thương lành tính, hiếm gặp, xuất phát từ vỏ bọc
dây thần kinh, thường đơn độc, phát triển chậm. Chúng có thể phát triển từ cả
nhánh mắt, nhánh hàm của dây thần kinh sinh ba, hoặc từ các nhánh tự chủ.
Các dây thần kinh khứu giác không có vỏ bọc Schwann. Hình ảnh CLVT,
schwannomas có đường bờ ranh giới rõ, lan rộng và xâm lấn xương, khi kích
thước lớn xâm lấn các cấu trúc lân cận. Trên hình ảnh CHT, chúng tăng tín
hiệu trên T2W, đồng tín hiệu và có vỏ giảm tín hiệu trên T1W, ngấm thuốc
mạnh và đồng nhất sau tiêm thuốc đối quang từ [41].
- U xơ mạch: là tổn thương tiến triển lành tính, chiếm khoảng 0,05% các
khối u vùng đầu mặt cổ với tỷ lệ báo cáo là 1/5000 – 1/6000. Những khối u
này có đặc điểm của tổn thương dị dạng mạch hơn là một khối u và phát triển



22

từ các tế bào nhạy cảm testosterone ở mảnh chân bướm trong hố chân bướm
khẩu cái [38]. Hình ảnh CLVT điển hình là hình mở rộng hố chân bướm –
khẩu cái, lỗ chân bướm hàm và kênh Vidian phía sau. Hình ảnh trên MRI, do
có mật độ dòng chảy cao nên thấy các dấu hệu “flow voids” và ngấm thuốc
mạnh sau tiêm.
1.2.5. Giải phẫu bệnh
Trong các phương pháp chẩn đoán ung thư nói chung, chẩn đoán UTMX
nói riêng, bộ ba chẩn đoán gồm chẩn đoán hình ảnh, chẩn đoán nội soi và
chẩn đoán mô bệnh học thì chẩn đoán mô bệnh học có ý nghĩa tiêu chuẩn
vàng. Phân loại mô bệnh học UTMX của tổ chức y tế thế giới năm 2005 [42]
chia ung thư biểu mô mũi xoang ra làm các dạng:
- Ung thư biểu mô vẩy
+ Ung thư biểu mô vảy typ nhú
+ Ung thư dạng mụn cơm
+ Ung thư biểu mô vảy typ dạng đáy.
+ Ung thư biểu mô vảy typ tế bào hình thoi.
+ Ung thư biểu mô vảy tuyến
+ Ung thư biểu mô vảy tiêu gai.
- Ung thư dạng biểu mô lympho
- Ung thư biểu mô không biệt hóa
- Ung thư biểu mô tuyến
+ Ung thư biểu mô tuyến typ ruột.
+ Ung thư biểu mô tuyến không phải typ ruột.
- Ung thư typ tuyến nước bọt
+ Ung thư biểu mô dạng tuyến nang
+ Ung thư biểu mô nang

+ Ung thư dạng biểu bì nhầy


23

+ Ung thư biểu mô – cơ biểu mô
+ Ung thư biểu mô tế bào sáng cổ điển.
+ Ung thư cơ biểu mô.
+ Ung thư biểu mô với thành phần u tuyến đa hình
+ Ung thư biểu mô tuyến đa hình độ ác tính thấp.
- U thần kinh nội tiết
1.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về ung thư mũi – xoang
1.3.1. Một số nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam UTMX đã được quan tâm nghiên cứu từ thập niên 60. Năm
1969, Lê Văn Bích và Phạm Khánh Hoà đã báo cáo 60 ca UTMX [43]. Đến
năm 1978, Nguyễn Mạnh Cường nghiên cứu những biểu hiện lâm sàng, tổ
chức bệnh học, Xquang của 52 trường hợp ung thư biểu mô khối sàng
hàm[44].
Năm 1991 Nguyễn Công Thành qua nghiên cứu 46 trường hợp UTMX
tại khoa ung thư, Viện Tai Mũi Họng từ năm 1986 – 1990, nhận thấy UTMX
hay gặp trong các khối u ác tính vùng đầu cổ, trung bình mỗi năm 9-10 ca,
bằng 1/3 số lượng ung thư vòm trung bình hàng năm, tỷ lệ bệnh nhân được
chẩn đoán giai đoạn T4 là 47,8%. Hình ảnh trên phim Blondeau và Hirtz có
17/19 bệnh nhân (89,4%) hình mờ đều xoang hàm, xoang sàng và phá vỡ
vách ngăn mũi 14/19 bệnh nhân (73,7%) [6].
Năm 1996 Vũ Công Trực nghiên cứu 96 ca UTMX được chẩn đoán và
điều trị tại Viện Tai Mũi Họng thấy UTMX chiếm >6% các u ác tính đường
hô hấp trên. UTMX đứng thứ 3 sau ung thư vòm họng và ung thư thanh
quản. Phim Blondeau và Hirtz ít có giá trị và chỉ rõ khi bệnh đã ở giai đoạn
muộn [7].

Năm 2001 Ngô Ngọc Liễn và cộng sự qua tổng kết 277 trường hợp
UTMX tại Viện Tai Mũi Họng từ năm 1986 – 2001. CLVT cho phép đánh giá


24

được đầy đủ tổn thương và nhất là sự lan tràn của khối u. Phim chụp CLVT
giúp cho chỉ định phẫu thuật được chuẩn xác nhất là với trường hợp các khối
u đã lan tràn ra ngoài xoang [1].
1.3.2. Một số nghiên cứu trên thế giới
Những nghiên cứu về UTMX đã có từ lâu. Công trình đầu tiên được ghi
nhận trên y văn là của Morgagni, Bichat [45]. Năm 1906: Sébileau đã mô tả,
phân loại khối u 3 tầng: tầng trên, tầng giữa, tầng dưới. Năm 1920: Hautant và
Manod đã đặt vấn đề xếp loại và đưa ra hướng điều trị UTMX[46].
Năm 1979, Colin Pason, Neil Hodson đã mô tả tỷ trọng khối UTMX tăng
lên sau khi tiêm thuốc cản quang không có giá trị phân biệt các khối tân tạo ở
mặt, tuy nhiên khi UTMX xâm lấn nội sọ làm cho hàng rào máu não bị tổn
thương thì hình ảnh u ngấm thuốc tăng tỷ trọng lại rất có giá trị[47].
Năm 1984, Anton. N.Hasso đã dùng máy CT Scanner có độ phân giải
cao, chụp trước và sau tiêm thuốc cản quang. Có thể phát hiện nguyên uỷ của
khối UTMX, đánh giá mức độ phá huỷ xương và lan tràn của khối ung thư ra
lân cận. Ngoài ra CT Scanner còn cho phép đánh giá giai đoạn phát triển của
khối UTMX [48].
Năm 1998, Yuan.Y và cộng sự qua nghiên cứu 13 trường hợp u nguyên
bào thần kinh khứu giác bằng CT Scanner phát hiện 6 trường hợp có u tăng
tỷ trọng, 3 trường hợp tỷ trọng không đồng đều và 3 trường hợp có vôi hoá
trong u[49].
Năm 1998, Wolfgang Dahnert nhận thấy tần suất carcinoma mũi - xoang
chiếm 5-6% của carcinoma xoang cạnh mũi, 90% là carcinoma tế bào vẩy,
sau đó là sarcoma, carcinoma tuyến ống, carcinoma tuyến kén và thường thứ

phát từ carcinoma xoang hàm [50].
Năm 2000, Glyn Lloyd và cộng sự đã nghiên cứu hình ảnh tối ưu cho
các khối u ác tính vùng mũi – xoang để thấy được sự cần thiết của CLVT và


25

CHT trong đánh giá trước và sau phẫu thuật cũng như theo dõi sau điều trị.
Nghiên cứu này cho kết quả giá trị đánh giá xâm lấn của CLVT và CHT đạt
tới 98% [51].
Năm 2013, Mohammed A. Gomaa và cộng sự đã so sánh hình ảnh của
CLVT và CHT trong chẩn đoán các khối u mũi xoang có đối chiếu với kết quả
giải phẫu bệnh [52].
1.4. Xếp loại TMN và phân loại giai đoạn bệnh
* Phân loại kinh điển:[6 ] [44] Sébileau, Hautan và Monod dựa vào
vị trí xuất phát của u và hướng lan tràn của nó chia ung thư mũi xoang
thành 3 loại sau:
- Ung thư tầng trên: u xuất phát từ xoang sàng lan tràn về phía hốc mũi,
hốc mắt và phần trước nền sọ.
- Ung thư tầng giữa: u xuất phát từ 1 trong các mặt của xoang hàm theo
các hướng khác nhau và phá huỷ thành xoang hàm.
- Ung thư tầng dưới: u xuất phát từ cung răng, lồi củ xương gò má, sàn
xoang hàm, vòm khẩu cái. Đây là những u có xu hướng xâm lấn xuống thấp.
* Phân loại theo tổ chức chống ung thư thế giới (UICC) và uỷ ban ung
thư Mỹ (AJCC) [53 ] [54]:
- T (khối u)
+ Khối u xoang sàng:
T1: U<1cm2, không phá huỷ xương.
T2: U>1cm2, không phá huỷ xương.
T3: U phá huỷ xương một cấu trúc nhưng chưa vượt quá giới hạn mũi xoang.

T4: U phá huỷ xương từ hai cấu trúc trở lên hoặc vượt quá giới hạn mũi xoang.
+ Khối u xoang hàm:
T1: U trong niêm mạc xoang hàm không phá huỷ xương.


×