Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Hướng dẫn học và trả lời trắc nghiệm môn vật lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.14 KB, 2 trang )

Hướng dẫn học và trả lời trắc nghiệm môn vật lý
I - Các loại câu trắc nghiệm và những điểm lưu ý khi trả lời.
Câu trắc nghiệm vật lý có nhiều loại khác nhau: câu trắc nghiệm đúng sai, câu trắc nghiệm
nhiều lựa chọn, câu trắc nghiệm đối chiếu cặp đôi, câu trắc nghiệm điền khuyết… Trong các
kỳ thi tốt nghiệp và thi tuyển sinh hiện nay đều dùng loại câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa
chọn, trong đó có cả câu trắc nghiệm lý thuyết và câu trắc nghiệm bài tập.
Câu trắc nghiệm lý thuyết là loại câu không yêu cầu thí sinh tính toán mà chỉ cần nắm chắc lý
thuyết, và biết vận dụng nó vào trường hợp cụ thể để chọn phương án trả lời.
Ví dụ: Trong một đoạn mạch không phân nhánh, nếu dòng điện trễ pha đối với hiệu điện thế giữa
hai đầu đoạn mạch thì trong đoạn mạch đó:
A. không có cuộn cảm
B. không có tụ điện
C. có điện trở thuần và cuộn cảm nối tiếp.
D. cảm kháng lớn hơn dung kháng.
Học sinh nắm vững tính chất của đoạn mạch RTC nối tiếp sẽ tìm thấy phương án A không thỏa
mãn vì trong đoạn mạch này dòng điện cùng pha hoặc sớm pha đối với hiệu điện thế. Trong các
đoạn mạch nêu ở phương án B và C, dòng điện có thể trễ pha đối với hiệu điện thế nhưng chúng
chỉ là các trường hợp riêng, không thể khẳng định chắc chắn trường hợp riêng này sẽ xảy ra.
Phương án cần chọn là D.
Câu trắc nghiệm bài tập là loại yêu cầu thí sinh phải vận dụng công thức hoặc lập phương trình để
tính toán chọn đáp số cần tìm. Khác với toán trong câu tự luận, bài toán trong câu trắc nghiệm
thường không dẫn đến hệ phương trình phức tạp, mà chỉ một hoặc vài ba phép tính là có thể tìm
được đáp số hoặc khẳng định được đáp số là sai hay đúng.
Ví dụ: Một vật sáng nhỏ đặt vuông góc với trục chính của một thấu kính mỏng, cho ảnh ảo bằng 3
lần vật và cách vật 20 cm. Tiêu cự thấu kính là:
A. -15cm. B. 10cm. C. 15cm. D. 30cm.
Học sinh có thể nhận xét ảnh lớn hơn vật nên thấu kính phải là thấu kính hội tụ, tiêu cự có giá trị
dương, do đó loại được phương án A, nhưng ba phương án còn lại đều là đáp số dương nên phải
áp dụng công thức thấu kính để chọn đáp số đúng. Để tìm tiêu cự thấu kính ta cần tính d và d từ
các phương trình: k = -d/d = 3; -d – d = 20cm. Sau đó tính được d = 10cm; d = -30cm, thay vào
phương trình: 1/f = 1/d + 1/d sẽ tìm được f = 15cm. Ta chọn phương án C.


Trong các đề thi tốt nghiệp và tuyển sinh, số câu trắc nghiệm bài tập thường nhiều hơn số câu trắc
nghiệm lý thuyết.
Mỗi loại câu trắc nghiệm đều có thể có mức độ khó dễ khác nhau: nhận biết, thông hiểu, vận dụng.
Với các câu hỏi ở mức nhận biết, học sinh chỉ cần nhận ra một công thức, một định nghĩa, một
định luật hoặc chỉ thay số liệu đơn giản là đã tìm được phương án trả lời. Tuy nhiên vẫn có một số
học sinh không được điểm khi làm loại câu này do không nắm vững lý thuyết hoặc chủ quan
không đọc kỹ câu hỏi. Các câu hỏi trắc nghiệm thường rải ra nhiều phần khác nhau của chương
trình, không có trọng tâm, trọng điểm. Do vậy nếu học tủ và không rèn luyện để có một trí nhớ tốt,
học sinh sẽ bị mất điểm ngay ở một số câu dễ.
Đối với câu trắc nghiệm ở mức độ thông hiểu, học sinh muốn chọn phương án đúng phải nắm
được ý nghĩa của khái niệm hoặc sự kiện hiện tượng để suy luận, hoặc chuyển dịch nó từ mức độ
trừu tượng này sang mức độ trừu tượng khác. Để làm được câu này, học sinh không chỉ nhớ và
thuộc lòng máy móc mà cần có thói quen nhận xét sự vật, hiện tượng ở các trường hợp khác nhau.
Ví dụ: khi học công thức thấu kính: 1/f = 1/d + 1/d cần tự biến đổi để làm quen với công thức đó ở
các dạng khác nhau như: d = df/ d-f; d = df/ d-f; f = dd/ d+d và các trường hợp đặc biệt: khi d = ∞
thì d = f; khi d = f thì d = ∞; khi d = 0 thì d = 0. Như vậy học sinh sẽ không ngỡ ngàng mà nhận ra
ngay công thức này dù nó không được viết tường minh như ở sách giáo khoa.
Đối với câu trắc nghiệm ở mức độ vận dụng, học sinh muốn trả lời đúng phải nắm được bản chất
sự vật hiện tượng và thường xuyên có thói quen áp dụng nó vào các trường hợp cụ thể, qua đó
nắm được phương pháp vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã học được. Vấn đề đặt ra trong câu trắc
nghiệm ở mức vận dụng có thể là tình huống mới hoặc nhiệm vụ mới. Học sinh cần bình tĩnh, đọc
kỹ câu hỏi để khai thác giả thiết cho ở phần dẫn của câu trắc nghiệm để suy ra các kết quả, rồi từ
đó phát hiện mối liên hệ giữa giả thiết và kết luận.
Vật lý là môn khoa học thực nghiệm nên nhiều câu trắc nghiệm vật lý liên quan đến vấn đề nảy
sinh trong thực nghiệm hoặc trong thực tế. Sẽ rất có lợi nếu hằng ngày học sinh có thói quen vận
dụng kiến thức đã học vào đời sống. Ví dụ khi học về gương cầu, hãy quan sát ảnh qua gương lắp
ở xe máy, xem ảnh ở gương này khác nhau thế nào khi vật ở xa, khi vật ở gần, từ đó nhận xét về
tính chất ảnh và điều kiện tương điểm đối với gương cầu.
Khi học về thấu kính, hãy thử tìm cách ước lượng xem tiêu cự của kính đeo mắt mà em có hoặc
người thân của em có là bao nhiêu. Những thói quen đó giúp học sinh dần dần nâng cao khả năng

vận dụng kiến thức, giúp đạt điểm cao khi làm loại câu ở mức vận dụng.
(Còn tiếp)

×