Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận Công Tác Vận Động Quần Chúng Trong Tín Đồ Tôn Giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.46 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

TIỂU LUẬN


MÔN: QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO

Đề Tài: Công tác vận động quần chúng
trong tín đồ tôn giáo ở xã ……………………….…………

Họ và tên: B
Lớp: QLXH- Khóa … - Tỉnh …..
Đơn vị công tác: Văn phòng Huyện ủy Cù Lao Dung

………., tháng 7 năm 201…..

MỤC


A. LỜI NÓI ĐẦU

Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn
năm nay. Quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc
đến đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống,
phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia.
Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định
công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng. Trong
suốt quá trình cách mạng, chính sách “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn
kết” do Chủ Tịch Hồ Chí Minh đề ra và tập hợp được đông đảo quần
chúng lao động của các tôn giáo gắn bó với chế độ, góp phần to lớn vào sự


nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Nghị quyết số 24-NQ/TW năm 1990 của Bộ Chính Trị về tăng cường
công tác tôn giáo trong tình hình mới xác định “tôn giáo là vấn đề còn tồn tại
lâu dài, tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Đạo đức
tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới, các giáo
hội và tổ chức tôn giáo nào có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có
tôn chỉ, mục đích, điều lệ phù hợp với pháp luật nhà nước, có tổ chức phù
hợp và bộ máy nhân sự đảm bảo tốt về cả hai mặt đạo, đời thì sẽ được nhà
nước xem xét trong từng trường hợp cụ thể để cho phép hoạt động”.
Để đánh giá về tình hình tôn giáo trong giai đoạn hiện nay, Nghị
quyết số 25-NQ/TW hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương khoá
IX, ngày 12 tháng 3 năm 2003 đã chỉ rõ:
Đồng bào tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhìn chung các tổ chức tôn giáo đã xây dựng
đường hướng hành đạo, hoạt động theo pháp luật, các tôn giáo được nhà
nước công nhận và hành đạo gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ
2


trong khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo, góp
phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Các ngành, các cấp đã chủ động tích
cực thực hiện các chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước,
phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững an ninh chính trị ở các vùng đồng
bào tôn giáo, đồng thời đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại những hoạt động
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động chống phá Đảng và nhà nước.
Tuy nhiên, tình hình trong hoạt động tôn giáo còn có những diễn biến
phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định, một số người
chưa tuân thủ pháp luật, còn tổ chức truyền đạo trái phép, còn lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan. Việc khiếu kiện và tranh

chấp liên quan đến đất đai và cơ sở vật chất tôn giáo ở một số nơi tăng lên,
có nơi gay gắt, phức tạp. Ở một số nơi nhất là vùng dân tộc thiểu số, một
số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành những hoạt động
chống đối, kích động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc
gây mất ổn định chính trị.
Nghị quyết đã xác định các nguyên nhân dẫn đến tình hình trên là do:
Công tác tôn giáo chậm đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, trong
khi các thế lực thù địch ráo riết tranh thủ, giành giật, lôi kéo quần chúng,
tín đồ chức sắc tôn giáo. Một số cấp uỷ, chính quyền các cấp, một số cán
bộ có trách nhiệm chưa nhận thức, quán triệt đầy đủ các chủ trương, chính
sách của Đảng và nhà nước về tôn giáo. Có nơi chủ quan, nóng vội, giản
đơn trong giải quyết nhiều vấn đề liên quan tới tôn giáo. Có nơi lại hữu
khuynh, thụ động, buông lõng quản lý. Các chủ trương, chính sách của
Đảng và nhà nước đối với tín ngưỡng và tôn giáo chậm được thể chế hoá.
Tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo của hệ thống chính trị, nhất là hệ
thống bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo chưa xác định rõ được mô hình,
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế phối hợp, thiếu sự quan tâm đầu tư
bảo đảm các điều kiện hoạt động. Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và

3


hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng đông tín đồ tôn giáo, vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số còn yếu, việc tập hợp quần chúng còn hạn chế.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau và đang có chiều hướng phát triển trên phạm vi cả nước. Vì vậy,
để tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới ở nước ta, trước hết đòi hỏi Đảng
phải đổi mới tư duy, nhìn nhận và đánh giá đúng những vấn đề lý luận và
thực tiễn, trong đó có vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo đang và sẽ có nhiều biểu
hiện mới, đa dạng, phức tạp, cần được giải quyết đúng đắn.

Chính vì những lý do trên, là một người cán bộ đảng viên bản thân
muốn dùng kiến thức Quản lý xã hội về Dân tộc- Tôn giáo đã được trang bị
trong thời gian học tập tại trường để vận dụng và phân tích đánh giá tình
hình thực hiện công tác tôn giáo của huyện nhà, từ đó mong có thể góp
phần thực hiện tốt hơn nữa công tác này. Chính vì thế em đã chọn đề tài:
“Công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo ở huyện ……., tỉnh
……..” để làm tiểu luận của mình.

4


B. NỘI DUNG
Chương1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN
CHÚNG TRONG TÍN ĐỒ TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

I- Các khái niệm:
1- Khái niệm Tín ngưỡng: là niềm tin của con người vào thế giới
siêu nhiên mà chính con người tưởng tượng và sáng tạo ra.
2- Khái niệm Tôn giáo: là hành vi, là hoạt động của con người để
thực hiện niềm tin vào một thế giới siêu nhiên.
3- Khái niệm Hoạt động tôn giáo: là việc truyền bá, thực hành giáo
lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.
4- Khái niệm Tổ chức tôn giáo: là tập hợp những người cùng tin
theo một hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu
nhất định được nhà nước công nhận.
5- Khái niệm Tổ chức tôn giáo cơ sở: là đơn vị của tổ chức tôn giáo
bao gồm ban hộ tự hoặc ban quản trị chùa của Đạo Phật, giáo xứ của đạo
Công giáo, chi hội của đạo Tinh lành, họ đạo của đạo Cao Đài, ban trị sự
xã, phường, thị trấn của Phật giáo Hoà hảo và đơn vị cơ sở của tổ chức tôn

giáo khác.
6 Khái niệm Cơ sở tôn giáo: là nơi thờ tự, tu hành, nơi đào tạo
người chuyên hoạt động tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và những cơ
sở khác của tôn giáo được nhà nước công nhận.
7- Khái niệm Tín đồ: là người tin theo một tôn giáo và được tổ chức
tôn giáo thừa nhận.
8- Khái niệm Nhà tu hành: là tín đồ tự nguyện thực hiện thường
xuyên nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo.
5


II- VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ QUAN ĐIỂM CỦA
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY.
1- Đặc điểm, tình hình tôn giáo ở Việt Nam:
- Hiện nay, ở nước ta có sáu tôn giáo lớn đã được Nhà nước thừa nhận
về tổ chức là: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao đài, Hoà Hảo
với khoảng 20 triệu tín đồ. Ngoài ra còn hàng chục triệu người khác vẫn
giữ tín ngướng dân gian, truyền thống và cả tín ngưỡng nguyên thuỷ.
Tín ngướng, tôn giáo ở nước ta chủ yếu ở cấp độ tâm lý tôn giáo.
Nhiều tín đồ tôn giáo tuy khá sùng đạo, nhưng hiểu giáo lý rất ít, gia nhập
đạo phần nhiều do lan truyền tâm lý, hoặc do vận động, lôi kéo; ý thức tôn
giáo ở phần lớn tín đồ không thật sâu sắc.
- Các tôn giáo, tín ngưỡng dung hợp, đan xen và hoà đồng,
không có kỳ thị, tranh chấp và xung đột tôn giáo. Các tín ngưỡng truyền
thống và tàn dư tôn giáo nguyên thuỷ in dấu ấn khá sâu đậm vào đời sống
tinh thần của người Việt Nam, theo suốt chiều dài lịch sử, đó là cái nền tâm
linh để dễ dàng đón nhận sự du nhập của các tôn giáo khác. Sự khoan
dung, lòng độ lượng, nhân ái của dân tộc Việt Nam, cùng với yêu cầu phải
đoàn kết toàn dân để bảo vệ nền độc lập, thống nhất lãnh thổ, nên người
Việt Nam tiếp nhận các tôn giáo khác nhau một cách tự nhiên, miễn là nó

không trái với lợi ích dân tộc - quốc gia và truyền thống văn hoá, tín
ngưỡng cổ truyền.
- Sự phân bố tôn giáo ở nước ta có đặc điểm nổi bật là giáo dân của
các tôn giáo thường sinh sống thành từng cộng đồng quy mô nhỏ, các cộng
đồng tôn giáo khác nhau có thể sống xen kẽ nhau. ở nhiều nơi, trong một
làng, xã cũng có các nhóm tín đồ của các tôn giáo khác nhau sống đan xen,
hoà hợp nhau, hoặc xen kẽ với những người không theo tôn giáo nào.
6


- Các tôn giáo từ bên ngoài vào Việt Nam vừa theo cách du nhập tự
nhiên qua giao lưu kinh tế, văn hoá như: Phật giáo, Hồi giáo; vừa có sự áp
đặt song hành với quá trình xâm lược của các đế quốc trong lịch sử như
Công giáo, Tin lành... Quá trình giao du, gặp gỡ các tôn giáo vừa thâm
nhập, bổ sung, vừa cải biến lẫn nhau, khiến cho mỗi tôn giáo đều có sự
biến đổi phù hợp với đặc điểm địa lý, lịch sử và văn hoá Việt Nam.
- Sự pha trộn phức tạp giữa ý thức tôn giáo với tín ngưỡng
truyền thống và tình cảm, phong tục tập quán và nhân dân.
Tín ngưỡng truyền thống dân gian mà nổi bật nhất là phong tục thờ
cúng tổ tiên, đã dung hợp với các tôn giáo, góp phần tạo nên đặc điểm
tình cảm, tâm hồn, tính cách người Việt Nam. Tuy vậy, sự pha trộn phức
tạp giữa ý thức tôn giáo với tín ngưỡng cổ truyền và tình cảm, phong tục
tập quán đã ăn sâu vào đời sống tinh thần người Việt Nam, làm cho một
bộ phận không nhỏ quần chúng lao động rất dễ dàng tiếp nhận tình cảm, ý
thức tôn giáo mới.
2- Tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay:
Mặc dù sự hình thành và phạm vi ảnh hưởng đối với số lượng tín đồ
và tác động chính trị - xã hội không giống nhau, đồng bào các tôn giáo đã
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, hàng chục vạn
thanh niên có đạo đã tham gia chiến đấu và nhiều người đã anh dũng hy
sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội, nhiều tín đồ và giáo sĩ đã nhận thức đúng chính sách, luật pháp của
Nhà nước, làm tốt cả "việc đạo" và "việc đời". Tình hình kinh tế, an ninh
chính trị và trật tự xã hội ở nhiều vùng tôn giáo khá ổn định. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân khác nhau, một bộ phận đồng bào có tín ngưỡng tôn
giáo còn băn khoăn, lo lắng cả phần đạo và phần đời.
7


Những năm gần đây, sinh hoạt tôn giáo có phần phát triển, nhà thờ,
đình chùa, miếu mạo, thánh thất được tu sửa và tôn tạo, xây cất lại, in ấn
tài liệu, đào tạo các chức sắc... Số người tham gia các hoạt động tôn giáo
gia tăng. Những hoạt động lễ hội gần gũi với tôn giáo nhiều, mang nhiều
màu sắc khác nhau, cũng xuất hiện nhiều hiện tượng mê tín dị đoan. Thực
trạng trên, một mặt phản ánh nhu cầu tinh thần của một số đông quần
chúng. Từ khi đổi mới và dân chủ hoá tự do tín ngưỡng càng có điều kiện
thể hiện, đáp ứng nguyện vọng của một bộ phận nhân dân. Mặt khác cũng
nói lên điều không bình thường vì trong đó không chỉ có sự sinh hoạt tôn
giáo thuần tuý, mà còn biểu hiện lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để phục vụ
cho mưu đồ chính trị và hoạt động mê tín dị đoan.
3- Các tôn giáo hiện có ở Việt Nam hiện nay:
Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như
Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; phương Tây như: Thiên chúa giáo, Tin lành;
có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như: Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo; có
tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo
hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có những tôn giáo đã phát triển
và hoạt động ổn định; có những tôn giáo chưa ổn định, đang trong quá
trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp.

Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo
đang hoạt động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Cụ thể:
Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ, có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố
trong cả nước, trong đó tập trung đông nhất ở Hà Nội, Bắc Ninh, Nam
Định, Hải Phòng, Hải Dương, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi,
Bình Định, Khánh Hoà, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng, Sóc
Trăng, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ...

8


Thiên chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố,
trong đó có một số tỉnh tập trung đông như Nam Định, Ninh Bình, Thái
Bình, Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kon Tum, Đắk Lắk, Khánh
Hoà, Bình Thuận, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Long, An
Giang, thành phố Cần Thơ...
Đạo Cao Đài: Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ
như Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền
Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang…
Phật giáo Hoà Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh
miền Tây Nam Bộ như: An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp.
Đạo Tin lành: khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng,
Quảng Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk Lắk,
Gia Lai, Đắk Nông, Bình Phước... và một số tỉnh phía Bắc.
Hồi Giáo: Hơn 60 nghìn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP Hồ
Chí Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận...
Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có một
số nhóm tôn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến
Phật giáo, hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào như: Tịnh độ cư sỹ, Bửu Sơn

Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tổ Tiên Chính giáo, Bàlamôn, Bahai và
các hệ phái tin lành.
4- Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay về tôn giáo:
Xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo dưới chủ nghĩa xã hội và tình hình tôn giáo ở nước ta, Đảng ta đã
khẳng định: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn

9


giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo
khác nhau, đồng bào theo tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo.
Chăm lo phát triển kinh tế, văn hoá, nâng cao đời sống của đồng bào.
Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt
động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân
dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia".
Nghị quyết Trung ương 7 khoá IX về công tác tôn giáo đã chỉ rõ quan
điểm lớn sau:
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đoàn kết toàn dân tộc.
- Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc.
- Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng.
- Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.

Chương 2:

10


THỰC TRẠNG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
TRONG TÍN ĐỒ TÔN GIÁO Ở HUYỆN …………, TỈNH
……………. HIỆN NAY

I- Đặc điểm, tình hình chung:
Huyện ……………. là huyện có địa bàn sông rạch chằng chịt dân cư
sống rãi rác. Toàn huyện có 07 xã, 01 thị trấn, với 37 ấp, 13.522 hộ với
tổng số dân là 64.118 người (trong đó dân tộc Kinh 56.339 người, chiếm
89,34%, Khmer 1.192 hộ với 4.739 người, chiếm 7,39% và Hoa 12 hộ với
54 người, chiếm 0,08%, còn lại một số ít dân tộc thiểu số khác không đáng
kể.
Huyện có 03 tôn giáo chính là: Phật giáo, Thiên Chúa giáo và Cao
đài, với 09 cơ sở thờ tự gồm: 05 Chùa phật; 02 nhà nguyện Thiên Chúa
giá; 02 thánh thất Cao đài. Tổng số 4.614 người theo đạo, tập trung nhiều ở
địa bàn 05 xã: ……Chia ra: Phật giáo 3.378 tín đồ; Thiên Chúa giáo 948
tín đồ; Tin Lành 52 tín đồ; Cao Đài 236 tín đồ. Tín đồ và các chức sắc,
chức việc, nhà tu hành các tôn giáo đều có truyền thống yêu nước, gắn bó
với dân tộc, với sự nghiệp cách mạng của Đảng bộ và nhân dân địa
phương.
Ngoài tín đồ các tôn giáo, hầu hết nhân dân trong huyện theo tín
ngưỡng dân gian, thờ cúng ông bà, anh hùng dân tộc và những người có
công với Tổ quốc, với tổng số 43 cơ sở (gồm: 03 đình thần, 35 miếu, 04
am, 01 lăng ông). Sinh hoạt nghi lễ đơn giản mang đậm bản sắc văn hoá,
truyền thống dân tộc.
Nhờ được sự quan tâm chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền và sự tham
gia phối hợp của các ban, ngành, Mặt trận, đoàn thể vận động đồng bào
dân tộc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, các chủ trương, chính sách

pháp luật của Nhà nước, tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch phát triển
11


kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào dân tộc, từ đó tạo được lòng tin vững
chắc của đồng bào dân tộc, đối với Đảng, Nhà nước. Qua đó, góp phần
giúp tín đồ các tôn giáo cùng với cộng đồng dân cư luôn giữ vững ổn định
tư tưởng, thực hiện tốt đoàn kết lương giáo, tin tưởng vào đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt các
nghĩa vụ của người công dân.
II- Kết quả thực hiện công tác vận động quần chúng tín đồ tôn
giáo ở huyện …………:
1- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, Chính quyền địa phương
và sự tham gia của các cơ quan, ban ngành, Mặt trận và các đoàn thể
đối với công tác tôn giáo và công tác vận động đồng bào có đạo:
- Công tác tôn giáo và vận động đồng bào có đạo được Huyện ủy,
UBND huyện luôn quan tâm chỉ đạo. Tuy là huyện mới thành lập từ năm
2002 nhưng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
công tác tôn giáo được quan tâm triển khai tuyên truyền trong nội bộ và
nhân dân, trong đội ngũ chức sắc các tôn giáo quán triệt nắm bắt kịp thời.
Cụ thể là Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá VI; Chỉ thị số 37CT/TW, ngày 02/7/1998 của Bộ Chính trị khoá VIII; Nghị định số 26/NĐCP của Chính phủ và nhiều chủ trương khác có liên quan.
Đặc biệt, từ khi có Nghị quyết số 25-NQ/TW của Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá IX và Nghị quyết số 06-NQ/TU, ngày
8/4/2003 của Tỉnh ủy …………. về công tác tôn giáo, Huyện ủy đã xây
dựng và triển khai chương trình hành động số 02- CTHĐ/HU, ngày
8/7/2003 thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, khoá IX về công tác tôn
giáo. Trên cơ sở đó, UBND huyện, Mặt trận và các đoàn thể, các ngành,
các cấp có kế hoạch cụ thể để phối hợp chỉ đạo thực hiện. Qua đó, tiếp tục
tạo được bước chuyển biến rõ nét đối với công tác tôn giáo trên địa bàn
huyện, cũng như trong công tác tuyên truyền vận động đồng bào có đạo.

12


- Nhân dịp lễ Giáng sinh, lễ Phật Đản, tết Nguyên Đán, Chol-ChnămThmây, lễ Đôn-ta hàng năm… Huyện ủy, UBND huyện, MTTQ huyện
cùng các ban ngành đoàn thể tổ chức các đoàn thăm viếng, tặng quà chúc
mừng các vị chức sắc, chức việc, nhà tu hành và đồng bào có đạo.
- UBND huyện cùng với MTTQ và các ngành chức năng của huyện
luôn phát huy tốt vai trò phối hợp trong nắm bắt tình hình, xem xét giải
quyết kịp thời, đúng pháp luật các đơn từ, vụ việc yêu cầu khiếu nại có liên
quan đến tôn giáo; Hướng dẫn, khuyến khích các tổ chức tôn giáo hoạt
động đúng pháp luật; Vận động các chức sắc và đồng bào có đạo gương
mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, tích cực hưởng ứng các chủ trương tham
gia đóng góp cho phong trào xã hội hoá các hoạt động y tế, văn hoá, giáo dục,
xã hội nhân đạo từ thiện, chăm lo cho gia đình chính sách, hộ nghèo, xây
dựng nông thôn mới của địa phương… đạt được nhiều kết quả thiết thực.
2- Hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo:
- Từ năm 2002 đến năm 2004, huyện chỉ có 01 biên chế chuyên trách
công tác tôn giáo trực thuộc Văn phòng HĐND&UBND huyện. Đến năm
2005, theo Nghị định số 172/2004/NĐ-CP của Chính phủ, huyện được
thành lập Phòng Dân tộc – Tôn giáo với 03 biên chế, trực tiếp giúp việc và
tham mưu cho Văn phòng UBND huyện về công tác dân tộc và tôn giáo
trên địa bàn. Đến năm 2008, thực hiện Nghị định số 14/2008/NĐ-CP của
Chính phủ, phòng Dân tộc – Tôn giáo giải thể, chuyển chức năng quản lý
Nhà nước về công tác tôn giáo cho Phòng Nội vụ mới thành lập. Tuy có
ảnh hưởng biến động về tổ chức, biên chế và cán bộ nhưng công tác quản
lý Nhà nước về tôn giáo luôn được UBND huyện và cơ quan chức năng
quan tâm chỉ đạo, quản lý sâu sát thường xuyên.
- Thực hiện các Nghị định của Chính phủ và chỉ đạo của UBND tỉnh,
nhất là từ năng 2005, Chính phủ có Nghị định số 22/2005/NĐ-CP hướng
dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo; Chủ tịch

13


UBND tỉnh có quyết định số 556/QĐTC-CTUBT về việc phân cấp và ủy
quyền giải quyết công việc quản lý hành chính Nhà nước về hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng; UBND huyện thường xuyên
tăng cường thực hiện tốt vai trò quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo theo đúng quy định của pháp luật và thẩm quyền phân cấp được giao.
Trong thời gian qua, huyện đã xem xét giải quyết và chuyển về trên
giải quyết trên 30 yêu cầu đề nghị của các cơ sở tôn giáo. Trong đó, có
trên 10 trường hợp xin xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, sinh hoạt;
chuyển 01 Salaten lên thành Chùa Kostung; chuyển 01 nhà tu lên thánh
thất; tiếp nhận 02 linh mục (01 do chuyển về, 01 đến tập sự); bổ nhiệm
trụ trì 03 Chùa; xem xét giải quyết 03 vụ việc tranh chấp đất đai của cơ
sở tôn giáo; còn lại là các đơn thư xin phép tổ chức các nghi lễ và đi
tham dự lễ ở các cơ sở ngoài địa phương. Đồng thời, chủ động phát hiện,
ngăn chặn và xử lý 8 trường hợp vi phạm quy định của Nhà nước, bao
gồm các vi phạm trong xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự không đúng thủ
tục; tổ chức truyền đạo, hoạt động tôn giáo, sinh hoạt, hội họp không
theo đúng quy định của Nhà nước.
Nhìn chung, các tôn giáo và chức sắc trong huyện luôn chấp hành
tốt các quy định của nhà nước trong hoạt động tín ngưỡng. UBND
huyện, xã và các cơ quan chuyên môn thực hiện tốt vai trò, chức năng,
thẩm quyền được giao, kịp thời xem xét giải quyết các yêu cầu kiến nghị
của các tôn giáo theo đúng quy định, tạo được lòng tin của chức sắc, tín
đồ vào chủ trương của Đảng và Nhà nước.
3- Kết quả thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
nước đối với vùng đồng bào có đạo và công tác tôn giáo:
- Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vùng
đồng bào có đạo luôn được quan tâm, triển khai thực hiện kịp thời.


14


- Các dự án, nguồn vốn đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng đồng bào
có đạo ngày càng tăng. Đến nay, hệ thống cơ sở hạ tầng như: điện, đường,
trường, trạm, nước sinh hoạt, nhà ở, chợ nông thôn… có bước phát triển
đáng kể, đáp ứng được cơ bản nhu cầu đời sống và sinh hoạt của nhân dân.
- Các tổ chức tôn giáo được địa phương quan tâm tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho hoạt động theo quy định của Nhà nước, nhất là tham gia các
hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện, hưởng ứng các phong trào xã hội ở
địa phương như cứu trợ đồng bào bị thiên tai, cứu trợ hộ nghèo, bệnh nhân
nghèo, đóng góp các nguồn quỹ “Vì người nghèo”, quỹ “Đền ơn đáp
nghĩa”…
- Chủ động ngăn chặn, xử lý kịp thời các tổ chức lợi dụng tôn giáo hoạt
động trái phép, bảo vệ tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội ở địa phương.

4- Tình hình kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, xoá đói giảm nghèo:
- Tình hình kinh tế - xã hội vùng dân cư tập trung đồng bào có đạo
trước đây còn nhiều khó khăn. Năm năm qua, đẩy mạnh thực hiện các chủ
trương về phát triển kinh tế vùng đồng bào có đạo, nhất là từ khi có nghị
quyết 25-NQ/TW của BCH TW Đảng, tình hình mọi mặt trong vùng đồng
bào có đạo đã có sự thay đổi rõ nét, toàn diện. Hệ thống cơ sở hạ tầng có
bước phát triển nhanh; 100% khu dân cư có điện sinh hoạt và điện thoại
liên lạc; trên 85% số hộ có nước sạch; hệ thống đường giao thông, trường
học, trạm y tế… cơ bản giải quyết được yêu cầu bức xúc của đồng bào về
đi lại, học hành, chữa bệnh… tốc độ phát triển kinh tế trong các xã tập
trung đồng bào có đạo bình quân hàng năm đạt trên 12,5%, cao hơn mức
bình quân chung của toàn huyện; tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 16% (tỷ lệ chung
của huyện là 16,16%); các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, mại dâm, rượu chè

say sưa gây mất trật tự… có giảm. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây

15


dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” không ngừng được phát huy. Tình
hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ vững.
- Công tác xoá đói giảm nghèo được quan tâm chỉ đạo thường xuyên,
ngoài các nguồn vốn, chương trình dự án đầu tư của Nhà nước cho xã
nghèo, hộ nghèo, các ngành các cấp trong huyện còn quan tâm tăng cường
chỉ đạo, hướng dẫn xây dựng nhiều mô hình xoá đói giảm nghèo trong các
khu vực dân cư, đồng bào có đạo. Cụ thể như: mô hình trồng cây ăn trái,
trồng màu, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi, đan lát gắn với phát triển các
ngành nghề kinh doanh, dịch vụ khác, góp phần đáng kể tăng thu nhập, xoá
đói giảm nghèo cho nhiều hộ hàng năm, đưa tỷ lệ hộ nghèo là đồng bào có
đạo từ trên 35% năm 2003, đến nay giảm còn dưới 16%.
5- Đánh giá hoạt động của hệ thống chính trị vùng đồng bào có đạo:
- Cấp ủy, Chính quyền và tổ chức Mặt trận, các đoàn thể cơ sở được quan
tâm củng cố thường xuyên, phát huy tốt vai trò lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các chủ
trương, chính sách đối với công tác tôn giáo và vùng đồng bào có đạo.
- Hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở các khu dân cư được chú trọng
xây dựng, đáp ứng yêu cầu hoạt động. Trong đó, tổ chức Mặt trận thường
xuyên phối hợp tốt với Chính quyền, các đoàn thể, phát huy vai trò vận
động, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, tạo được cơ sở chính trị ổn
định, vững mạnh cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh của địa phương trong các năm qua. Thông qua các phong trào thu hút
đồng bào có đạo vào tổ chức, phát triển Đảng viên, đoàn viên, hội viên,
xây dựng lực lượng cốt cán trong đồng bào có đạo. Hiện có 07 Đảng viên
là người có đạo, tăng 05 Đảng viên so với năm 2003; đoàn viên, hội viên

có 959, tăng 512.
6- Kết quả phong trào thi đua yêu nước và các cuộc vận động ở
vùng đồng bào có đạo:
16


- Năm qua, nhiều phong trào thi đua yêu nước được các ngành, các
cấp phát động thường xuyên trên các lĩnh vực lao động sản xuất, học tập,
công tác, xây dựng đời sống văn hoá, xây dựng nông thôn mới, xoá đói
giảm nghèo, chăm sóc người có công… được các tôn giáo và tín đồ tích
cực hưởng ứng, đóng góp quan trọng cho sự phát triển mọi mặt của địa
phương. Đến nay, 01/09 cơ sở thờ tự được công nhận đạt chuẩn văn hoá;
trên 85% hộ gia đình tín đồ được công nhận văn hoá.
- Một số cơ sở thờ tự có nhiều hoạt động tích cực, đóng góp cho các
phong trào hoạt động của địa phương, nhiều gia đình có đạo là điển hình
tiêu biểu trong các cuộc vận động chuyển dịch sản xuất, phát triển kinh tế
gia đình, xây dựng đời sống văn hoá, xây dựng gia đình hiếu học, tham gia
bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương.
III- Đánh giá những mặt hạn chế, yếu kém và rút ra bài học kinh
nghiệm:
1- Hạn chế, yếu kém:
- Công tác tuyên truyền triển khai chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước trong đội ngũ chức sắc tuy được quan tâm nhưng tiến hành từng
lúc chưa được thường xuyên, kịp thời; Một số trường hợp chức sắc tuy
nắm vững chủ trương của Đảng và Nhà nước nhưng vẫn còn biểu hiện cố
tình vi phạm, chưa được đấu tranh giáo dục, xử lý nghiêm.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo ở cấp huyện và xã còn nhiều
bất cập cả về biên chế số lượng lẫn kiến thức chuyên môn, đội ngũ thiếu ổn
định. Từ đó, công tác nắm bắt chủ trương, tham mưu cho cấp ủy và ủy ban
trong chỉ đạo đôi khi còn lúng túng.

- Công tác vận động đồng bào có đạo chưa được chú trọng tăng cường
chỉ đạo giải pháp vận động; một số xã có đông đồng bào theo đạo, cấp ủy,
Chính quyền chưa coi đây là một yêu cầu nhiệm vụ đặc thù của địa
phương. Từ đó, kết quả vận động có nơi chưa đi vào chiều sâu, chưa quan
17


tâm nắm bắt đúng tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng của đồng bào để chỉ
đạo, tổ chức vận động quần chúng có hiệu quả.
2- Bài học kinh nghiệm:
Qua thực tiễn triển khai thực hiện NQ TW7 khoá IX cho thấy, nơi nào
cấp ủy tạo được sự thống nhất về nhận thức tư tưởng, nhất quán trong
hành động thực hiện Nghị quyết; biết xác định đúng vai trò trách nhiệm hạt
nhân lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân của tổ chức Đảng và
Đảng viên trong liên minh chính trị MTTQ, từ đó tập trung xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong này đặc
biệt quan tâm đến công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng
đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng; củng cố phát triển tổ
chức Mặt trận, các đoàn thể nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò của Mặt
trận và các tổ chức thành viên, gắn với nâng cao hiệu quả quản lý của
Chính quyền các cấp; kịp thời đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Mặt trận và các đoàn thể thích ứng tình hình mới. Đồng thời, chỉ đạo
mặt trận, các đoàn thể không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động thích hợp, chọn khâu đột phá, chọn điểm chỉ đạo xây dựng mô hình
tập hợp quần chúng, phát triển đoàn viên, hội viên, xây dựng lực lượng
nòng cốt rộng rãi, tin cậy trong mọi giai cấp, tầng lớp, trong các tôn giáo,
đồng bào dân tộc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc chung quanh
Đảng bộ. Làm tốt những điều trên sẽ giúp Đảng bộ giành được kết quả tốt
nhất và ngược lại sẽ đạt kết quả không cao.


Chương 3:
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG TRONG TÍN ĐỒ TÔN GIÁO Ở HUYỆN
………, TRONG THỜI GIAN TỚI

18


I- Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo:
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng cũng như trong lãnh đạo việc
quản lý xã hội và điều hành đất nước, Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn quan
tâm đến tôn giáo và chính sách tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và phù hợp
với từng giai đoạn của cách mạng. Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo
phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn
kết dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ
vững chắc tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Từ đó, ngày 12 tháng 3 năm 2003, Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn
giáo, văn kiện đã trở thành nền tảng chính sách của nhà nước Việt Nam đối
với tôn giáo trong tình hình mới, nghị quyết đã nêu rõ:
Một là: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình
thường theo đúng pháp luật.
Nước Việt Nam từ khi có Hiến pháp, vấn đề tự do tín ngưỡng tự do
lựa chọn tôn giáo của nhân dân được tôn trọng và ghi nhận ở văn bản pháp

lý cao nhất là Hiến pháp. Các tôn giáo phải hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật, bình đẳng trước pháp luật.
Hai là: Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn
kết dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng bào
theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những
19


giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có
công với Tổ quốc và nhân dân, nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công
dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời nghiêm cấm lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây
rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Tôn giáo là một hiện tượng của đời sống xã
hội, tổ chức tôn giáo thuộc nhóm tổ chức xã hội, bởi vậy, mọi tôn giáo (bao
gồm cả thể nhân tôn giáo và pháp nhân tôn giáo) đều phải hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật nhà nước và chịu sự quản lý của nhà nước.
Ba là: Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động
quần chúng. Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên
đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất
của tổ quốc, thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an
ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói
chung, trong đó có đồng bào tôn giáo. Các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt
trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức xã hội, các tổ chứ tôn giáo có trách
nhiệm làm tốt công tác vận động quần chúng và thực hiện đúng đắn chính
sách tôn giáo của Nhà nước.
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung.
Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa

vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là: Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các
cấp, các ngành, các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của
toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Tổ chức bộ máy và cán bộ
chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được cũng
cố và kiện toàn.
20


Năm là: Vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự
do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp
luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo
pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào
tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sữa chữa, xây dựng
cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều
phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, không được lợi dụng tôn giáo tuyên
truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo
đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức
truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Những hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để làm mất trật tự an toàn
xã hội, phương hại đến nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết
toàn dân, chống lại Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây tổn
hại các giá trị đạo đức, lối sống, văn hoá của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức
sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ công dân, đều bị xử theo pháp luật.
Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng
sản Việt nam (tháng 4 năm 2006) tiếp tục khẳn định “Đồng bào các tôn giáo
là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất

quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do, tính ngưỡng, theo hoặc
không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường
theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào
theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn
hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo
và các chức sắc tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo). Các tổ chức tôn giáo hợp
pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Thực hiện tốt các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá
21


của đồng bào các tôn giáo. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
làm công tác tôn giáo đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín, dị đoan,
các hành vi lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung
của đất nước, vi phạm quyền tự do tôn giáo của công dân”.
II- Những nhiệm vụ, giải pháp cần quan tâm trong công tác vận
động quần chúng trong tín đồ tôn giáo ở huyện ……………..:
1- Nhiệm vụ chung:
- Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân
dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
- Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng
chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt
đời đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở. Xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối
hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề
tôn giáo, dân tộc để phá hoại đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ.

- Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh thông tin tuyên
truyền về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; đấu tranh làm thất
bại những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù
địch bên ngoài đối với tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta.
- Tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công
tác tôn giáo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần

22


cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương,
chính sách trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo.
2- Giải pháp:
- Cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể thường xuyên
quan tâm tổ chức tốt việc quán triệt các chủ trương, chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo trong tình
hình mới cho nội bộ Đảng và nhân dân. Đặc biệt là tuyên truyền học tập
cho các chức sắc, nhà tu hành và đồng bào có đạo, làm cho cán bộ, Đảng
viên và toàn dân nhận thức nhiệm vụ công tác tôn giáo của Đảng trong tình
hình mới. Từ đó vận động các chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo
thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết dân tộc, đoàn kết các tôn
giáo, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước, làm cho các hoạt động
tôn giáo gắn bó với lợi ích dân tộc, với đất nước và chủ nghĩa xã hội, thi
đua yêu nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quan tâm hơn nữa xây dựng lực
lượng nòng cốt, củng cố các chi đoàn, chi hội trong vùng đồng bào các tôn
giáo thật sự vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, đủ sức vận động tín đồ các
tôn giáo tham gia vào các tổ chức chính trị - xã hội,... Chú trọng công tác

phát triển đoàn viên, hội viên trong đồng bào có đạo để làm nòng cốt trong
các phong trào cách mạng ở địa phương. Đồng thời quan tâm phát triển
Đảng viên trẻ, nữ trong đồng bào có đạo.
- Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển giao áp dụng
Khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống nhằm khuyến khích đồng bào
có đạo tham gia chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần phát triển kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo. Mặt trận và các đoàn thể tuỳ thực tế tình hình
xây dựng các mô hình, đề án phù hợp để thu hút, quản lý và vận động
người có đạo tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động
23


xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, nhân đạo từ thiện, thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở, phòng chống tệ nạn xã hội,... đi vào chiều sâu. Đồng
thời, hướng dẫn các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước thừa nhận có đủ tư
cách pháp nhân, hoạt động đúng pháp luật, tích cực tham gia các chủ
trương xã hội hoá các hoạt động y tế, văn hoá, giáo dục; các hoạt động xã
hội, nhân đạo, từ thiện,... theo nguyên tắc phù hợp với chức năng, tôn chỉ
của mỗi tôn giáo và theo quy định của pháp luật. Không được lợi dụng
danh nghĩa tôn giáo làm xã hội từ thiện để kích động chia rẽ chính sách
đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, gây mất ổn định xã hội, xâm phạm an
ninh quốc gia.
- Thường xuyên hướng dẫn các tôn giáo hoạt động theo tôn chỉ, mục
đích, hiến chương hành đạo trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước nhằm
hạn chế và đi đến không còn các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, đưa hoạt
động xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự vào nền nếp, đúng pháp luật.
- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo
có đủ phẩm chất và năng lực làm tham mưu cho cấp ủy, Chính quyền về
công tác tôn giáo. Giữ mối quan hệ chặt chẽ giữa cấp ủy Đảng, Chính
quyền, Mặt trận, các đoàn thể với các tổ chức tôn giáo, các chức sắc, nhà tu
hành ở các cấp. Thực hiện tốt công tác tôn giáo theo Nghị định 26/CP của

Chính phủ, phân công và xác định rõ trách nhiệm của từng cấp Chính
quyền, nhất là ở xã, thị trấn trong công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo.
Mặt trận và các ban, ngành, đoàn thể tuỳ theo chức năng nhiệm vụ, cần
phân công bố trí cán bộ có uy tín, năng lực để làm công tác vận động đồng
bào tín đồ các tôn giáo.
- Vận động trong chức sắc, chức việc, tu sĩ, tín đồ các tôn giáo sống
“tốt đời, đẹp đạo” thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia
phát triển kinh tế, văn hoá- xã hội, an ninh, quốc phòng và thực hiện cuộc
vận động “TDĐKXDĐSVHƠKDC”. Hướng dẫn các tổ chức, cá nhân tôn
24


giáo hoạt động đúng pháp luật, phát huy những giá trị văn hoá đạo đức
lành mạnh, hướng thiện của các tôn giáo phù hợp với văn hoá truyền thống
của dân tộc. Động viên các chức sắc, chức việc, tu sĩ, tín đồ tích cực tham
gia các phong trào thi đua yêu nước, nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ
động ngăn ngừa, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng
tôn giáo của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, chống
lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
3- Kiến nghị:
Ban Tôn giáo tỉnh cần có kế hoạch hàng năm tổ chức tại huyện các
lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, triển khai chủ trương mới của Đảng và
Nhà nước cho đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và cán bộ Mặt trận,
đoàn thể của huyện, xã; cũng như các lớp bồi dưỡng dành cho chức sắc các
tôn giáo.

C- KẾT LUẬN
Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo nói trên, người ta
thường ví Việt Nam như bảo tàng tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn
hoá, sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng tôn giáo đã góp phần làm cho nền

văn hoá Việt Nam phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên đó là những khó khăn
đặt ra trong việc thực hiện chủ trương, chính sách đối với tôn giáo nói
chung và đối với từng tôn giáo giáo cụ thể.
Nhưng qua những vấn đề trình bày trên thì cho tháy rằng Đảng và nhà
nước ta đã có những chính sách rất là phù hợp cho vấn đề tôn giáo ở Việt
Nam. Như vậy, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta bao gồm
nhiều
mặt, vừa có mặt đối nội, vừa có mặt đối ngoại. Thực hiện chính sách tôn
giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Nhà nước
thực hiện chức năng quản lý của mình thông qua chính sách, pháp luật, các
25


×