Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của đảng tư tưởng HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.14 KB, 19 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC LÃNH TỤ CỦA ĐẢNG

____________

BÀI THU HOẠCH
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng

Người thực hiện:
Mã số học viên:
Lớp:

Hà Nội, tháng 10 - 2019


MỞ ĐẦU
Trong sinh hoạt và hoạt động thực tiễn, mỗi con người và mỗi tổ chức
đều có những ưu điểm, khuyết điểm, có mặt thuận lợi, khó khăn, có nhân tố tích
cực, tiêu cực, có cái tiến bộ, cái lạc hậu. Các mặt đó ln mâu thuẫn với nhau,
tác động chi phối lẫn nhau. Quá trình phát triển của mỗi con người, mỗi tổ chức
như thế nào và theo chiều hướng nào phụ thuộc chính vào cách thức giải quyết
mâu thuẫn giữa các mặt tốt - xấu, thuận lợi - khó khăn, tích cực - tiêu cực đó.
Mỗi người đảng viên và tổ chức đảng cũng như vậy; muốn tiến bộ và
phát triển thì phải phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm. Muốn sửa chữa
khuyết điểm, phát huy ưu điểm, phải thiết thực tự phê bình và phê bình. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của
Đảng. Để quy luật ấy phát huy tác dụng, tạo ra động lực cho sự phát triển, phải
thông qua hoạt động của con người, của mỗi cán bộ đảng viên và mỗi tổ chức
Đảng. Thực tiễn đã chứng minh: nếu nơi nào, khi nào, đảng viên và tổ chức
đảng nhận thức đúng, đầy đủ, có động cơ đúng, hành động kiên quyết thì tự phê


bình và phê bình phát huy tác dụng; ngược lại thì tự phê bình và phê bình chỉ
cịn là hình thức, nửa vời, “gặp chăng hay chớ”, thậm chí trở thành cơng cụ cho
những kẻ vụ lợi, phá hoại Đảng.
Vì vậy, việc nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và
phê bình, tiến hành tự phê bình và phê bình nghiêm túc trong toàn Đảng, là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và bức thiết trong tình hình hiện nay. Từ những
vấn đề nêu trên, em chọn đề tài “Tự phê bình và phê bình là quy luật phát
triển của Đảng” làm bài thu hoạch kết thúc mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh
trong chương trình hồn chỉnh cao cấp lý luận chính trị.

1


NỘI DUNG
I. TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH LÀ QUY LUẬT PHÁT TRIỂN
CỦA ĐẢNG
Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là thước đo
trình độ tổ chức và hoạt động của đảng, là biện pháp quan trọng để phát hiện và
giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ đảng nhằm giữ vững và tăng cường bản chất
giai cấp cơng nhân của đảng.
Mục đích của tự phê bình và phê bình là để giúp nhau phát huy ưu điểm,
khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong đảng,
chống đả kích, gây rối, gây chia rẽ, bè phái, cục bộ trong đảng.
Vấn đề tự phê bình và phê bình đã được Hồ Chí Minh đề cập rất sâu sắc
trong tác phẩm “sửa đổi lối làm việc” và nhiều bài viết cho chuyên mục Sửa đổi
lối làm việc của báo Sự thật, trong các bài viết đề cập đến vấn đề đạo đức cách
mạng, trong hầu hết các bài nói, bài viết về xây dựng Đảng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình khơng những là
vũ khí, là “luật” trong xây dựng tổ chức mà còn được nâng lên tầm nghệ thuật
trong cơng tác xây dựng Đảng.

Phê bình là gì và tự phê bình là gì? Đơi khi, Hồ Chí Minh dùng cách gọi
“tự kiểm điểm và kiểm điểm” hoặc “tự sửa chữa” và “giúp đồng chí mình sửa
chữa”, “tự xét và xét đồng chí mình” để nhấn mạnh ý nghĩa của tự phê bình và
phê bình trong việc khắc phục khuyết điểm. Nhưng quan niệm về tự phê bình và
phê bình có ý nghĩa bao qt rộng hơn. Theo Hồ Chí Minh, “Phê bình là nêu ưu
điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và
vạch khuyết điểm của bản thân mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đơi với
nhau”. Điều đó có nghĩa là tự phê bình và phê bình không phải chỉ vạch ra
khuyết điểm mà phải nêu cả ưu điểm; nêu ưu điểm trước, vạch khuyết điểm sau;
nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm phải đi đôi với nhau, không coi nhẹ ý nghĩa
của một mặt nào. Điều đó biểu hiện rõ tính nhân văn và tính khoa học - nét đặc
sắc trong quan niệm về tự phê bình và phê bình của Hồ Chí Minh.
2


Tính nhân văn trong tự phê bình và phê bình chính là việc nêu ưu điểm,
vạch khuyết điểm của mình trước và nêu ưu điểm, vạch khuyết điểm của đồng
chí mình sau; dù là “xét”, “kiểm điểm” hay “phê bình” người khác thì người có
khuyết điểm đó cũng là đồng chí mình chứ khơng phải kẻ thù hay đối địch. Cho
nên, một mặt là để sửa chữa cho nhau, một mặt là để khuyến khích nhau, “bắt
chước” nhau, cùng tiến bộ mãi. Người có ưu điểm thì phải cố gắng phát huy,
vươn lên khơng ngừng; người có khuyết điểm, bị phê bình thì phải vui lịng
nhận rõ để sửa chữa, sẽ khơng gây nản chí hoặc ốn ghét lẫn nhau.
Những biểu hiện tiêu cực như: chỉ thiên về vạch khuyết điểm của người
khác theo kiểu “bới lơng, tìm vết” để tìm cách hạ bệ nhau, làm giảm uy tín của
nhau, chỉ thiên về phê bình người khác mà khơng nghiêm khắc tự phê bình, chỉ
nhấn mạnh ưu điểm khi “phê bình cấp trên” theo kiểu tâng bốc, nịnh hót... thực
chất là biểu hiện cơ hội trong tự phê bình và phê bình, hồn tồn trái với tư
tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra vị trí, ý nghĩa của tự phê bình và phê

bình, được thể hiện theo 4 cấp độ. Trước hết, với mỗi cán bộ, đảng viên, tự phê
bình và phê bình như mỗi ngày soi gương, rửa mặt, để làm cho sạch sẽ cơ thể.
Đảng là một thực thể chính trị xã hội, Đảng tồn tại trong xã hội thông qua đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng viên có tốt, chi bộ mới tốt và Đảng mới
vững. Vì vậy, tự phê bình và phê bình đối với cán bộ, đảng viên hàng ngày là rất
thiết thực, thường xuyên, bám sát trong mỗi hoạt động và không thể thiếu trong
nếp sống “văn minh Cộng sản”; là vũ khí sắc bén cần thiết cho sự tiến bộ,
trưởng thành của mỗi cán bộ, đảng viên như cơm ăn, nước uống, như khơng khí
để thở hàng ngày. Người u cầu mỗi cán bộ, đảng viên: “luôn luôn tự kiểm
điểm, tự phê bình, những lời mình nói, những việc mình đã làm, để phát triển
điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan nghênh
người khác phê bình mình”.
Ở cấp độ thứ hai, theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là phương
tiện quan trọng nhất để xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
3


Đoàn kết trong Đảng là đoàn kết thống nhất rất cao, là đoàn kết thống nhất từ
trong tư duy, nhận thức, từ trong lý tưởng đến hành động hàng ngày. Tự phê
bình và phê bình sẽ giúp gột rửa, lọc bỏ những sai lệch, những bất đồng và trên
cơ sở đó tạo nên sự kết dính, gắn bó hữu cơ trong nội bộ Đảng. Người viết:
“muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân
chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra cấp độ thứ ba về ý nghĩa của tự phê bình và phê
bình: tự phê bình và phê bình là thang thuốc hay nhất để chữa nhiều thứ chứng
bệnh, để bồi bổ cho cơ thể của Đảng ngày càng thêm cường tráng. Theo Hồ Chí
Minh, trong Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng không tránh khỏi
những sai lầm khuyết điểm trong q trình hoạt động. “Đảng ta hy sinh tranh
đấu, đồn kết, lãnh đạo nhân dân, tranh lại thống nhất và độc lập. Cơng việc đã
có kết quả vẻ vang. Nhưng, nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn,

khéo hơn, thì thành tích của Đảng cịn to tát hơn nữa. Cán bộ và đảng viên làm
việc không đúng, khơng khéo, thì cịn nhiều khuyết điểm. Khuyết điểm nhiều thì
thành tích ít. Khuyết điểm ít thì thành tích nhiều. Vì vậy, ngay từ bây giờ, các cơ
quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm
điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa
chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa”. Trong Đảng có nhiều khuyết điểm,
cũng như cơ thể con người mang bệnh trong mình. Muốn trị bệnh phải uống
thuốc. Phương thuốc hiệu quả là tự phê bình và phê bình.
Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu. Song
đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một Đảng vì dân, vì nước, đã là một người cách
mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ những tính xấu. Vì
tính xấu của một người thường chỉ có hại cho người đó; cịn tính xấu của một
đảng viên, một cán bộ, sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân.
Hồ Chí Minh chỉ rõ nguồn gốc của những “tính xấu”, của những khuyết
điểm, của những chứng bệnh trong Đảng, để trên cơ sở đó, có phương pháp
đúng sửa chữa khuyết điểm. Đảng ta bao gồm đủ các tầng lớp xã hội, có nhiều
4


tính cách, rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại; song trong Đảng ta cũng
không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội
bên ngồi lây, ngấm vào Đảng. “Đảng ta khơng phải trên trời sa xuống. Nó ở
trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những
phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu
ngạo, xa hoa, … Những thói xấu đó có đã lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ, họ
mang từ xã hội vào Đảng”. Hồ Chí Minh cịn phân tích rất sâu sắc “các hạng
đảng viên”: Đảng ta có rất đơng đảng viên. Phần đơng cố nhiên đã hiểu biết vì
dân, vì nước mà vào Đảng. Nhưng cũng có phần vì lẽ khác mà theo Đảng. Có
người tưởng vào Đảng thì dễ tìm cơng ăn việc làm. Có người vào Đảng mong
làm chức này, tước nọ. Có người vì anh em bạn hữu kéo vào, v.v.. Đảng phải

cảm hóa họ, dạy dỗ họ, nâng cao sự hiểu biết và lòng phụ trách của họ lên dần
dần, để họ có thể trở thành những “người chiến sĩ khá”. Biện pháp thiết thực là
thường xuyên tự phê bình và phê bình ráo riết.
Khái quát những vấn đề đã phân tích ở trên, Hồ Chí Minh cho rằng, tự
phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, đây là cấp độ có
ý nghĩa sâu sắc bao trùm nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong
bao nhiêu năm hoạt động bí mật, dù bị bọn thực dân khủng bố gắt gao và Đảng
ta gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm, nhưng Đảng ta ngày càng phát triển, càng
mạnh mẽ và đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng thành cơng, kháng chiến
thắng lợi. Đó là vì Đảng ta khéo dùng cái vũ khí sắc bén phê bình và tự phê
bình”. Tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh xác định là một trong 12 điều
“Tư cách của Đảng chân chính cách mạng”. Tự phê bình và phê bình “Cốt đồn
kết và thống nhất nội bộ”. Thực hiện tốt tự phê bình và phê bình “Đảng mới
chóng phát triển, cơng việc mới chóng thành cơng”.
Vì vậy, ngay từ đầu tác phẩm Sửa đổi lối làm việc - tác phẩm đã thể hiện
rất sâu sắc và toàn diện về vấn đề tự phê bình và phê bình - Hồ Chí Minh đã đề
cập đến vấn đề “Phê bình và sửa chữa”. Theo Người, Đảng không che dấu

5


những khuyết điểm của mình, khơng sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm
của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ, đảng viên.
Trong bài viết Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng, đăng trong chuyên
mục Sửa đổi lối làm việc của báo Sự thật, Hồ Chí Minh đã nghiêm khắc phê
phán những quan điểm nhận thức sai lệch về tự phê bình và phê bình. Có người
khơng muốn tự phê bình và phê bình nên đã ngụy biện rằng: nếu phê bình
khuyết điểm của mình, của đồng chí mình, của Đảng và Chính phủ thì địch sẽ
lợi dụng mà cơng kích, phá hoại ta. Đó là một nhận thức sai lầm. Hồ Chí Minh
cho rằng, một đảng dám cơng khai thừa nhận khuyết điểm của mình để sửa

chữa, để tiến bộ mới là một đảng dũng cảm; một đảng giấu diếm khuyết điểm
của mình là một đảng hỏng.
Người đời khơng phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm; mỗi
con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lịng. Do vậy, mục đích tự phê bình
và phê bình là làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân,
phần xấu bị mất dần đi. “Phê bình cho đúng, chẳng những không làm giảm thể
diện và uy tín của cán bộ, của Đảng. Trái lại, cịn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ
hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy tín thể diện càng tăng thêm”.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa,
giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa chữa cách làm cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn
kết và thống nhất nội bộ”. Mục đích là cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau
và giúp nhau sửa chữa những khuyết điểm.
Tự phê bình và phê bình là quy luật chung của các Đảng Cộng sản, đối
với Đảng Cộng sản Việt Nam lại càng quan trọng. Đảng ta ra đời từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa nửa phong kiến, chịu ảnh hưởng nặng nề của tư
tưởng phong kiến, thực dân “Cũng như những người hàng ngày lội bùn” nên
trên người ắt nhiễm hơi bùn. Điều đó khơng có gì lạ. Mặt khác, khi đảng viên có
chức, có quyền rất dễ nảy sinh những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng
cơ hội, thực dụng, độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng, quan liêu, xa rời quần
chúng. Muốn khắc phục những biểu hiện đó, cần tiến hành tự phê bình và phê
6


bình ráo riết, thường xuyên. Cũng như người lội bùn lâu mà nhiễm hơi bùn thì
phải tắm rửa và “phải tắm rửa lâu mới sạch”.
Đội ngũ đảng viên của Đảng phần đông xuất thân từ nông dân và nhiều
giai tầng khác nhau, mang theo những đặc điểm tư tưởng, tâm lý, lối sống khác
nhau, điều đó tất yếu nảy sinh những mâu thuẫn. Đó khơng phải là mâu thuẫn
đối kháng, nhưng cũng là nguy cơ gây mất đồn kết, khơng tập trung, thống nhất
được tư tưởng, trí tuệ trong Đảng. Vì vậy, cách tốt nhất là thường xuyên tự phê

bình và phê bình ráo riết để giải quyết hiệu quả những mâu thuẫn đó.
Mục đích của tự phê bình và phê bình mà Hồ Chí Minh chỉ ra chứa đựng
yếu tố cách mạng và tính nhân văn sâu sắc. Để đạt được mục đích ấy cần phải có
thái độ đúng, phương pháp đúng, có lý, có tình, trên tình thương yêu giai cấp.
Trước hết phải có thái độ đúng trong tự phê bình và phê bình.
Hồ Chí Minh u cầu phê bình mình cũng như phê bình người, phải triệt
để, thật thà không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết
điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình
việc làm chứ khơng phê bình người. Những người bị phê bình thì phải vui lịng
nhận để sửa đổi, khơng nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc ốn ghét.
Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ: Bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi,
v.v..mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng
minh của kẻ địch bên ngồi. Địch bên ngồi khơng đáng sợ. Địch bên trong
đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phịng những
kẻ địch đó, phải chữa hết những chứng bệnh đó. Nhưng “phải suy tính cho kỹ
lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy” “Để chữa
khỏi những bệnh kia, ta phải tự phê bình ráo riết, và phải lấy lòng thân ái, lấy
lòng thành thật mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đơi với
nhau”. Trong lúc phê bình, khuyết điểm phải vạch ra rõ ràng, mà ưu điểm cũng
phải nhắc đến. Phải biết khuyến khích nhau, bắt chước nhau, giúp nhau cùng
tiến bộ.

7


Hồ Chí Minh u cầu tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, liên
tục, kiên trì. “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê
bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong đảng sẽ
khơng có bệnh mà đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng”. Nếu không làm thường xun
thì khuyết điểm sẽ ngày càng tích tụ nhiều lên, lấn át ưu điểm. Những cán bộ,

đảng viên thối hóa biến chất, tham ô, tham nhũng, vi phạm tư cách đảng viên,
nguyên nhân suy cho cùng là do không thường xun tự phê bình và tiếp thu phê
bình. Hồ Chí Minh đã cảnh tỉnh nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của
chúng ta thì cũng như giấu diếm bệnh tật trong mình, khơng dám uống thuốc để
bệnh ngày càng nặng thêm, nguy hiểm đến tính mệnh. Phát hiện càng sớm, điều
trị bệnh càng chóng khỏi; để bệnh nặng rất khó chữa, thậm chí khơng chữa nổi.
Cha ơng ta có câu: “Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lịng”. Khen thì dễ
nhưng “phê” thì rất khó. Ai cũng muốn được khen mà không muốn bị chê, chê
là đụng chạm đến khuyết tật của con người, đụng chạm đến nó là sẽ đau. Chính
vì thế trên thực tế, khơng ít người sợ bị phê bình và ngại phê bình người khác.
Đó là một khuyết điểm. Mặt khác, tự phê bình và phê bình phải thật sự dân chủ
mới mong trong Đảng có nhiều sáng kiến, mới tập trung được trí tuệ. Hồ Chí
Minh vạch rõ hiện tượng mất dân chủ, khiến cho “các đảng viên và cán bộ dù có
ý kiến cũng khơng dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, khơng dám phê bình”.
Điều đó dễ dẫn đến hậu quả: Cấp trên và cấp dưới cách biệt nhau, quần chúng
với Đảng xa rời nhau. Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp. Dưới thì cái gì cũng
khơng dám nói rõ ra. Họ khơng nói vì sợ bị “trù”. Khơng dám nói ra thì họ cứ để
trong lịng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra “khơng nói trước mặt, chỉ
nói sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngồi Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói
“thậm thà thậm thụt và những thói xấu khác”
Vì vậy, Hồ Chí Minh u cầu cán bộ vừa phải dân chủ lắng nghe ý kiến
phê bình của cấp dưới, của quần chúng, vừa phải “biết cách phê bình sáng suốt,
khơn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của
mình, để tự mình sửa chữa”. Trong khi chỉ ra những yêu cầu về thái độ, phương
8


pháp tự phê bình và phê bình, Hồ Chí Minh cũng đã thẳng thắn phê bình những
biểu hiện tiêu cực về thái độ phê bình của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Trong Đảng có một bộ phận “sao cũng mặc kệ, sao xong chuyện thì

thơi”, khơng phê bình, khơng tự phê bình. Hồ Chí Minh coi đó là thái độ của
những cán bộ, đảng viên ươn hèn yếu ớt. Hoặc có biểu hiện lợi dụng sai lầm
khuyết điểm của người khác để đạt mục đích tự tư tự lợi, đó là thái độ “của kẻ
đầu cơ”. Hoặc một số khác thì “đối với những người có khuyết điểm và sai lầm
đó, như đối với hổ mang, thuồng luồng. Họ đòi hỏi phải đuổi bọn kia ra khỏi
Đảng ngay. Nếu khơng làm như thế thì họ cho rằng: thơi hỏng hết rồi! Do đó họ
đâm ra chán nản, thất vọng. Hoặc họ khơng làm gì nữa hết. Thậm chí họ bỏ
Đảng. Đó là thái độ của những người máy móc q. Đó cũng là bệnh chủ quan”.
Hồ Chí Minh vạch rõ biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân - một thứ vi trùng
rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm - trong tự phê bình và phê
bình. Đối với những người mắc bệnh “cá nhân” thì việc gì khơng phê bình trước
mặt để nói sau lưng. Khi sinh hoạt khơng nói gì, ra ngồi mới nói. Khơng bao
giờ đề nghị gì với Đảng. Ai có ưu điểm cũng khơng chịu học theo, ai có khuyết
điểm cũng khơng dám phê bình. Cịn khi họ phê bình ai thì khơng phải vì Đảng,
khơng phải vì tiến bộ, khơng phải vì cơng việc, mà vì “cơng kích cá nhân, cãi
bướng, trả thù, tiểu khí”.
Nhiều ý kiến cho rằng, chỉ người có cái tâm trong sáng, có đức rộng, tài
cao mới tự phê bình và phê bình được tốt; cịn khi người đã có khuyết điểm nói
chẳng ai nghe. Quan niệm như vậy là có mặt đúng nhưng mới là một chiều, đem
đối lập giữa “người đúng” và “người sai”, đối lập giữa người “đức rộng, tài cao”
với người có khuyết điểm…như vậy là chưa thấm hết cái tinh thần cách mạng,
khoa học, tính nghệ thuật trong tự phê bình và phê bình của Hồ Chí Minh. Theo
Hồ Chí Minh: Đạo đức khơng phải trên trời sa xuống, nó là kết quả của sự dày
công rèn luyện mà trong đó tự phê bình và phê bình là một biện pháp thiết thực
nhất. Phải đặt hoạt động tự phê bình và phê bình với vấn đề đạo đức cách mạng
trong một mối quan hệ biện chứng. Thực tiễn cuộc sống luôn vận động. Cái
9


“tâm” cái “đức” cũng khơng bất biến mà nó vận động cả ở góc độ chuẩn giá trị

cộng đồng, cả ở góc độ với mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên. Vì vậy, nếu quan
niệm “tâm” “đức” là cái gốc rễ sức sống của tổ chức, của cách mạng thì tự phê
bình và phê bình là quá trình trao đổi chất thường xuyên giúp cho việc không
ngừng củng cố, bồi bổ cho sức sống ấy. Hơn nữa, tự phê bình và phê bình
thường xun cịn làm cho cái “tâm” cái “đức” - thuộc lĩnh vực tinh thần, tư
tưởng - luôn ăn sâu, gắn chặt mà không xa rời những điều kiện vật chất của nó;
ln theo kịp sự vận động của thực tiễn. Tự phê bình và phê bình khơng phải là
phương thuốc quý, là cái quyền cho riêng ai, mà nó là quyền lợi, là nghĩa vụ, là
đặc trưng phẩm chất cao quý của tất cả những người cách mạng. Tự phê bình và
phê bình giúp người có khuyết điểm thì tiến bộ hơn lên, người tiến bộ thì tiến bộ
mãi.
Hồ Chí Minh kết luận: “Trong cơng tác, trong tranh đấu, trong huấn
luyện, các đảng viên, các cán bộ, cần phải ln ln tự hỏi mình, tự kiểm điểm
mình và đồng chí mình. Ln ln dùng và khéo dùng cách phê bình, thì khuyết
điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng
lợi”. Trong tự phê bình và phê bình phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, kiên
quyết chống bệnh tự mãn, kiêu ngạo, tự tư tự lợi, ba hoa…Phải thực hành khẩu
hiệu “chí cơng vơ tư”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh: tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển
của Đảng có giá trị lịch sử và ý nghĩa lý luận, thực tiễn to lớn đối với Đảng, nhà
nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên ta. Những tư tưởng đó đã kịp thời định
hướng, nâng cao nhận thức và cổ vũ hoạt động tự phê bình và phê bình, khắc
phục kịp thời những khuyết điểm yếu kém của cán bộ, đảng viên và các tổ chức
Đảng trong suốt quá trình xây dựng và hoạt động lãnh đạo cách mạng. Tư tưởng
đó khơng chỉ có giá trị to lớn trong thời kỳ chiến tranh cách mạng, mà còn có ý
nghĩa rất sâu sắc, thiết thực đối với cơng tác xây dựng Đảng ta hiện nay.
Như khi đặt vấn đề cho tiểu luận, người viết đã nêu: tự phê bình và phê
bình là quy luật phát triển của Đảng, nhưng để quy luật ấy phát huy tác dụng,
10



tạo ra động lực cho sự phát triển, phải thông qua hoạt động của con người, của
mỗi cán bộ đảng viên và mỗi tổ chức Đảng. Cho nên, cùng với những ý nghĩa
chung đối với sự nghiệp cách mạng và đối với toàn Đảng, mỗi cán bộ đảng viên
- với tư cách là “tế bào cơ bản” của Đảng, nơi diễn ra những hoạt động “trao đổi
chất” “nuôi dưỡng cơ thể Đảng” - cần thấm nhuần ý nghĩa của tự phê bình và
phê bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thắng lợi của Chủ nghĩa xã
hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.
Muốn thắng chủ nghĩa cá nhân, phải ráo riết thiết thực tự phê bình và phê bình.
Có tình đồng chí nào cao cả hơn, trong sáng hơn, q báu hơn tình đồng chí mà
biết thật thà, ráo riết phê bình, sửa lỗi cho nhau. Đối với cá nhân mỗi người, sự
tiến bộ nào cũng đáng quý, đáng cổ vũ; nhưng sự tiến bộ bằng nhờ tự phê bình
và phê bình ráo riết, nghiêm túc tiếp thu phê bình để phát huy ưu điểm, sửa chữa
khuyết điểm, để vượt qua chính mình và vượt qua trở ngại, đó là sự tiến bộ hết
sức đáng khâm phục, hết sức đáng học tập và sự tiến bộ ấy bao giờ cũng bền
vững, tự tin và tự hào.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY
Quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê
bình, trong quá trình xây dựng và hoạt động, Đảng ta ln coi trọng tự phê bình
và phê bình. Đảng ta khẳng định tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển
của Đảng, là thước đo trình độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng và là ý thức trách
nhiệm của đảng với nhân dân. Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng
để giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ Đảng, để giữ vững và tăng cường bản chất
giai cấp công nhân của Đảng. Đảng là một tổ chức chính trị, tất yếu trong q
trình vận động, phát triển, nội bộ Đảng sẽ nảy sinh mâu thuẫn. Nhưng đó khơng
phải là mâu thuẫn đối kháng, mà là mâu thuẫn giữa cái mới và cái cũ, giữa cái
tiến bộ với cái lạc hậu.
Đảng lấy tự phê bình và phê bình là biện pháp cơ bản để giải quyết
những mâu thuẫn đó, tạo động lực cho sự vận động, phát triển của Đảng. Khi trở

11


thành Đảng cầm quyền, vấn đề tự phê bình và phê bình càng trở nên cần thiết
hơn. Bởi vì, Đảng phải giải quyết nhiều nhiệm vụ nặng nề, nhiều vấn đề mới,
phức tạp và luôn luôn vận động, nảy sinh. Sự nắm bắt và nhận thức của cán bộ,
đảng viên không thể ngay lập tức đạt được sự sâu sắc mọi vấn đề; đồng thời
càng khó tránh khỏi những khuyết điểm, sai lầm. Thơng qua tự phê bình và phê
bình mà trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ, đảng viên sẽ dần được nâng cao,
phẩm chất đạo đức được bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách.
Chính nhờ có sự trung thành, quán triệt và vận dụng đúng đắn tư tưởng
Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình trong xây dựng và hoạt động, có nhiều
chỉ thị nghị quyết, mở nhiều đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, đẩy mạnh tự phê
bình và phê bình trong tồn đảng mà Đảng ta mới có đủ sức mạnh lãnh đạo cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; mới có đủ bản lĩnh vượt
qua những thử thách cam go, vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng ở những
thời điểm hiểm nghèo, thời điểm vận mệnh “ngàn cân treo sợi tóc”.
Thực tiễn xây dựng Đảng cho thấy: Lúc nào, nơi nào việc tự phê bình và
phê bình khơng được thực hiện nghiêm túc thì lúc đó, nơi đó xuất hiện những
điều kiện làm suy yếu đảng, làm nảy sinh hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Hiện nay, vẫn còn những biểu hiện xem nhẹ, chưa thực sự nghiêm túc tự
phê bình và phê bình. Ở nơi này, nơi khác, lúc này lúc khác, sinh hoạt tự phê
bình và phê bình chỉ cịn là hình thức. Người ta vẫn tổ chức sinh hoạt đều đặn,
nhưng thực chất lại tước mất linh hồn của các buổi sinh hoạt, đó là ngun tắc
dân chủ, cho nên tự phê bình và phê bình bị biến thành vũ khí cầu lợi cá nhân.
Trong khi đó, cuộc sống sinh hoạt của cán bộ, đảng viên chịu nhiều chi phối, tác
động của nhiều yếu tố, cả tích cực và tiêu cực. Do những tác động tiêu cực của
mặt trái cơ chế kinh tế thị trường, sự du nhập lối sống ngoại lai và các tệ nạn xã
hội… đã tác động, làm nhiều người thay đổi về quan niệm thang giá trị đạo đức
xã hội, làm xói mịn nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp. Đó là những nguy cơ đe

dọa sự trong sạch của đảng và của cả hệ thống chính trị.

12


Một bộ phận cán bộ đảng viên suy thoái về đạo đức lối sống, sa lầy vào
chủ nghĩa cá nhân, thực dụng. Sinh ra nhiều căn bệnh nguy hiểm: cục bộ, ích kỷ,
vụ lợi, ham quyền lực, ham của cải làm giàu bất chính; lối sống thì xa hoa,
hưởng lạc. Đối với đồng chí đồng đội, họ kèn cựa, địa vị, gây mất đồn kết; đối
với nhân dân thì quan liêu, sách nhiễu, xa rời hoặc dân chủ giả tạo, ngồi
mặt…Khơng ít cán bộ, đảng viên vì lợi ích cá nhân, mải lo lợi ích cá nhân, gia
đình mà qn hết lợi ích của Đảng, của dân.
Để khắc phục tình trạng trên, tự phê bình và phê bình phải được coi là
biện pháp cơ bản, có ý nghĩa quyết định. Thực hiện tốt tự phê bình và phê bình
cho phép giải quyết thấu đáo các vấn đề nảy sinh về tư tưởng, đạo đức, lối sống
một cách kiên quyết, ráo riết nhưng thiết thực, có lý có tình, khơng rơi vào tình
trạng đối kháng, đao to búa lớn, do đó mà đạt hiệu quả cao. Điều đó hồn tồn
phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về mục đích và tính chất của tự phê bình và
phê bình trong Đảng.
Để phát huy tác dụng của tự phê bình và phê bình, phải nhận thức rõ
những đặc điểm trong khi tiến hành tự phê bình và phê bình hiện nay. Đó là tình
trạng nhận thức và hành động khơng đúng: hoặc tập trung quan liêu, gia trưởng,
độc đoán, hoặc dân chủ cực đoan. Bên cạnh đó, hiện tượng hữu khuynh né tránh,
kém tính chiến đấu của khơng ít cán bộ, đảng viên ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu
quả tự phê bình và phê bình.
Mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng cần thực hiện nghiêm túc các
nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, thực hiện có hiệu quả và nền nếp Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị,
quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu: “Tạo sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục
được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng

Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững
mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng
cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng”.
13


Để tránh tình trạng Nghị quyết thì hay, học tập kỹ, mất nhiều thời gian,
công sức mà thực hiện không đến đâu, không đạt được mục tiêu đề ra, Trung
ương xác định: “Làm tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng cũng chính là để thúc đẩy
thực hiện nhiệm vụ chính trị”. Với phương châm: Khách quan, trung thực: Nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan, không nể nang, né tránh;
nói đi đơi với làm. Cách làm phải khoa học, hiệu quả, phải bảo đảm đồng bộ,
có trọng tâm, trọng điểm, khả thi, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, trì
trệ nhất; xác định rõ lộ trình thực hiện, thời gian hồn thành, làm từng bước
vững chắc, thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Giữ thái độ kiên quyết với
quyết tâm cao nhất nhưng bình tĩnh: Phải làm kiên quyết, kiên trì; phải bình
tĩnh, tỉnh táo, khơng nóng vội, cực đoan; đồng thời khơng để rơi vào trì trệ, hình
thức, khơng chuyển biến được tình hình, giữ đúng nguyên tắc; chỉ đạo, tổ chức
thực hiện với trách nhiệm và quyết tâm chính trị cao trong tồn Đảng; Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đảng, cán bộ chủ chốt,
nhất là cấp trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật sự gương mẫu để
cho các cấp noi theo. Không để bị lợi dụng: Kết hợp “chống và xây”, “xây và
chống”; không để các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội lợi dụng, kích
động, xuyên tạc, đả kích gây rối nội bộ.
Trên cơ sở kiểm điểm tự phê bình và phê bình, cần tăng cường giáo dục
chính trị, tư tưởng, đặc biệt là giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho cán bộ,
đảng viên hiểu rõ vai trị, sự cần thiết phải đẩy mạnh tự phê bình và phê bình,
mục đích phương pháp tự phê bình và phê bình, kiên quyết duy trì, thực hiện
nghiêm túc nền nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy, tổ chức

Đảng, cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội. Thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong Đảng, chống mọi biểu hiện
chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng, cục bộ bè phái, mất đoàn kết.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của tự phê bình và phê bình, điều
quan trọng là phải đứng trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, nắm vững đường lối của Đảng thể hiện trong cương lĩnh, nghị quyết
14


đại hội, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương. Đó chính là căn cứ để
mỗi cán bộ, đảng viên kiểm tra lại cơng việc của mình, tư cách và năng lực của
mình. Phải kết hợp chặt chẽ giữa phê bình với tự phê bình; kết hợp chặt chẽ giữa
phê bình từ trên xuống và phê bình từ dưới lên. Bên cạnh đó, tự phê bình của
Đảng phải gắn chặt với phát huy sự giám sát phê bình của nhân dân. Tự phê
bình và phê bình phải đi đơi với giữ kỷ luật nghiêm minh, kiên quyết xử lý, loại
trừ ra khỏi hàng ngũ của Đảng những phần tử khơng cịn tư cách người đảng
viên.
Thường xun làm tốt cơng tác kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý
nghiêm những tổ chức đảng, đảng viên không thực hiện tốt nghị quyết, chỉ thị
của Đảng về tự phê bình và phê bình, nhất là những người có thái độ thành kiến,
trù dập người phê bình; phải có biện pháp bảo vệ người phê bình đã dũng cảm
đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; mặt khác phải có biện pháp buộc người
có khuyết điểm, bị phê bình phải sửa chữa khuyết điểm.
Trong điều kiện xã hội bùng nổ thông tin như hiện nay, các luồng thông
tin, các nguồn thông tin, các hình thức truyền tin rất đa dạng phong phú. Một
mặt nó mở ra điều kiện thuận lợi mới để thực hiện dân chủ công khai và công
bằng trong xã hội. Chính nhờ các điều kiện đó mà các hình thức linh hoạt của tự
phê bình và phê bình được thực hiện, nhiều trường hợp vi phạm khuyết điểm,
nhiều biểu hiện vi phạm đã được thông qua phương tiện thông tin mà rút kinh
nghiệm chung trong toàn Đảng một cách nhanh chóng nhất… Đây là một vấn đề

cần được nghiên cứu chu đáo để phát huy tác dụng tốt hơn trong cơng tác xây
dựng Đảng. Mặt khác, cần phải có biện pháp quản lý được tất cả các luồng, các
nguồn tin, các phương tiện thơng tin, có thể áp dụng các tiến bộ kỹ thuật nhằm
thẩm định, điều tra, kiểm tra nhanh và chính xác các tin tức; quản lý chặt chẽ
hoạt động thơng tin tự phê bình và phê bình cả ở diện rộng và diện hẹp; chính nó
cung cấp những cứ liệu thực tiễn thiết thực cho công tác xây dựng Đảng trong
điều kiện mới; và chỉ như vậy mới đảm bảo cho tự phê bình và phê bình thực sự
vì sự đồn kết, thống nhất trong Đảng và trong toàn xã hội.
15


Trong bất kỳ thời điểm nào, cũng phải đặt lên hàng đầu là việc xây dựng
chỉnh đốn Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta là một Đảng cầm quyền trong sạch và
vững mạnh; mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải rèn luyện đạo đức cách mạng
để xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Vì
sự tồn vong của Đảng cầm quyền và của chế độ, thấm nhuần và thực hiện theo
lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc lịch sử, địi hỏi Đảng ta
phải khơng ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nhất là trong bối cảnh đổi mới và
hội nhập quốc tế hiện nay, để xây dựng và chỉnh đốn Đảng đạt được hiệu quả
thiết thực, để Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
thực sự tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, đạo đức, danh dự của dân tộc và thời đại
cần phải tiếp tục thực hiện nghiêm túc những nội dung trọng yếu của công tác
xây dựng Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Theo đó, nhằm tạo sự chuyển
biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng
Đảng và không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng,
củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, một trong ba vấn đề cấp bách Nghị
quyết nêu ra cần phải thực hiện là: “Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao

năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân đối
với Đảng”.

16


KẾT LUẬN

Tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên tắc quan trọng, góp
phần quyết định trong đánh giá cán bộ, đảng viên. Nhất là trong giai đoạn hiện
nay, mọi công tác chuẩn bị cho đại hội Đảng các cấp, tiến tới đại hội lần thứ
XIII của Đảng đang được các tổ chức đảng tích cực triển khai thực hiện; trong
đó, vấn đề chuẩn bị nhân sự cho Đại hội là vấn đề đang được toàn Đảng, toàn
dân quan tâm, phải làm sao lựa chọn những người có đủ “đức”, “tài”, có “tầm”,
có “tâm” ra sức phục vụ nhân dân, thì cơng cuộc dựng xây đất nước mới được
chấn hưng.
Chính vì vậy, trong điều kiện hiện nay, địi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng và
chính quyền cần phải thấm nhuần những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về rèn luyện đạo đức cách mạng; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực
hiện nghiêm các nguyên tắc sinh hoạt đảng, trong đó đề cao tự phê bình và phê
bình trong sinh hoạt. Cụ thể, mỗi tập thể, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo và quản lý cần nhận thức sâu sắc học tập và làm theo Bác chính là:
“Trong mỗi việc phải biết làm người đày tớ trung thành của nhân dân, phải biết
nhân dân sống ra sao và muốn điều gì, ngày nay đất nước vẫn cịn nghèo, đời
sống người lao động cịn gặp nhiều khó khăn, noi gương cần kiệm liêm chính
của Bác Hồ, mỗi người, trước hết là cán bộ, đảng viên từ cấp Trung ương đến cơ
sở phải biết nêu gương, sống bằng chính sức lao động, khơng tham ơ, tham
nhũng, lãng phí, biết xấu hổ trước nỗi khổ, sự vất vả của người dân và phải tích
cực góp phần ngăn chặn đẩy lùi nạn tham nhũng, lãng phí”, để Đảng ta ngày
càng trong sạch vững mạnh./.


17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t2.
2. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t3.
3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t4.
4. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t5.
5. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t6.
6. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t7.
7. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t8.
8. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t11
9. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t12.
10. Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII.
11. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI
12. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII
13. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Cao cấp lý
luận chính trị: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb.Lý luận chính trị, H.2018

18



×