Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi thông qua dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.65 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
****&****

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG

RÈN KĨ NĂNG NÓI CÓ NGỮ ĐIỆU
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI THÔNG QUA DẠY TRẺ KỂ
CHUYỆN THEO KINH NGHIỆM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục học mầm non

HÀ NỘI, 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
****&****

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG

RÈN KĨ NĂNG NÓI CÓ NGỮ ĐIỆU
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI THÔNG QUA DẠY TRẺ KỂ
CHUYỆN THEO KINH NGHIỆM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục học mầm non

Người hướng dẫn khoa học

TS. LÊ THỊ LAN ANH


HÀ NỘI, 2018

1


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bảy tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới
TS. Lê Thị Lan Anh, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thành khoá luận tốt nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa, các thầy, cô giáo trong
khoa Giáo dục Mầm non, trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy, tạo
mọi điều kiện cho tôi học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu trường Mầm non
Đồng Xuân - Phúc Yên - Vĩnh Phúc và các giáo viên đã giúp đỡ tạo điều kiện
tốt nhất trong quá trình tiến hành điều tra thực trạng cũng như thực nghiệm
thành công.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm, động viên, giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện đề tài.
Lần đầu thực hiện bài nghiên cứu khoa học, do thời gian còn ngắn và
năng lực bản thân còn hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót. Tôi rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài
tiếp tục hoàn thiện.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xuân Hoà, ngày 3 tháng 5 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Thị Phương

2



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Thị Lan Anh, khoá
luận tốt nghiệp: “Rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông
qua dạy trẻ kể lại chuyện theo kinh nghiệm” là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, được hoàn thành theo sự nhận thức vấn đề của riêng tác giả, không
trùng với bất kì khoá luận nào khác.
Xuân Hoà, ngày 3 tháng 5 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Thị Phương

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................ ............................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu..................................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
7. Cấu trúc khoá luận ........................................................................................ 7
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC RÈN KĨ NĂNG NÓI CÓ NGỮ
ĐIỆU CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI THÔNG QUA DẠY TRẺ KỂ
CHUYỆN THEO KINH NGHIỆM .................................................................. 8
1.1. Ngữ điệu.................................................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm ngữ điệu........................................................................... 8
1.1.2. Khái niệm kĩ năng, kĩ năng nói có ngữ điệu..................................... 9

1.1.3. Vai trò của việc rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ 5 - 6 tuổi ...... 10
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng nói có ngữ điệu của trẻ
5-6 tuổi ...................................................................................................... 11
1.2 Kể chuyện theo kinh nghiệm ................................................................. 13
1.2.1. Khái niệm kể chuyện ...................................................................... 13
1.2.2. Kể chuyện theo kinh nghiệm .......................................................... 14
1.2.3. Vai trò của dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm ............................ 14
1.3. Đặc điểm tâm - sinh lý của trẻ 5 - 6 tuổi............................................... 15
1.3.1. Đặc điểm tâm lý .............................................................................. 15
1.3.2. Đặc điểm sinh lý ............................................................................. 18

4


Chương 2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC RÈN KĨ NĂNG NÓI CÓ NGỮ
ĐIỆU CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 THÔNG QUA DẠY TRẺ KỂ
CHUYỆN THEO KINH NGHIỆM ................................................................ 21
2.1. Mục đích điều tra thực trạng ................................................................. 21
2.2. Đối tượng và địa bàn điều tra................................................................ 21
2.3 Nội dung điều tra.................................................................................... 21
2.4. Thời gian điều tra .................................................................................. 22
2.5. Phương pháp điều tra ............................................................................ 22
2.6. Kết quả điều tra thực trạng.................................................................... 22
2.6.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên về việc dạy trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi kể chuyện theo kinh nghiệm nhằm rèn kĩ năng nói có ngữ
điệu cho trẻ................................................................................................ 22
2.6.2 Thực trạng giáo án hướng dẫn, cách tổ chức tiết học dạy trẻ mẫu
giáo 5 - 6 tuổi kể chuyện theo kinh nghiệm.............................................. 28
2.6.3 Thực trạng mức độ ngữ điệu của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ................ 30
2.7. Nguyên nhân của thực trạng ................................................................. 32

Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NÓI CÓ NGỮ ĐIỆU
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI THÔNG QUA DẠY TRẺ KỂ
CHUYỆN THEO KINH NGHIỆM ................................................................ 35
3.1. Các nguyên tắc xây dựng biện pháp rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho
trẻ thông qua dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm ...................................... 35
3.2. Một số biện pháp rèn kĩ năng ngữ điệu cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
thông qua dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm ........................................... 36
3.2.1. Kể chuyện theo sơ đồ...................................................................... 36
3.2.2. Trao đổi với trẻ bằng hệ thống câu hỏi có chủ đề phản ánh một
hiện thực trẻ đã trải qua. ........................................................................... 37
3.2.3. Kể mẫu ............................................................................................ 38

5


3.2.4. Kể tiếp chuyện ................................................................................ 39
3.2.5. Khích lệ để phát huy tính tích cực của trẻ trong hoạt động kể
chuyện ....................................................................................................... 40
3.3. Thực nghiệm sư phạm........................................................................... 41
3.3.1. Mục đích thực nghiệm .................................................................... 41
3.3.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm ................................. 41
3.3.3. Nội dung thực nghiệm .................................................................... 42
3.3.4. Tiêu chí đánh giá............................................................................. 42
3.3.5. Tiến trình thực nghiệm ................................................................... 42
3.3.6. Kết quả thực nghiệm....................................................................... 46
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................. 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 54

6



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sau hàng triệu năm tiến hoá, con người tách mình ra khỏi thế giới loài
vật với nhiều đặc trưng khác biệt như dáng đi thẳng, biết sử dụng công cụ lao
động, biết trồng trọt, săn bắn,... Một trong số những sáng tạo kì diệu nhất mà
con người đã có được trong lịch sử hình thành và phát triển chính là ngôn
ngữ.
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của con người, nhờ
có ngôn ngữ mà con người được gắn kết với nhau, hiểu được nhau, truyền đạt
cho nhau những kinh nghiệm lịch sử xã hội của nhân loại.
Đối với trẻ em ngôn ngữ có vai trò to lớn trong việc hình thành và phát
triển nhân cách, tạo nền tảng vững chắc cho hoạt động nhận thức sau này.
Ngôn ngữ là công cụ quan trọng để trẻ giao tiếp với người lớn, giúp trẻ tư duy
nhận thức và là phương tiện giúp trẻ có thể tiếp thu, lĩnh hội những khái niệm,
quy tắc, đóng vai trò rất to lớn trong việc điều chỉnh những hành vi và việc
làm của trẻ… hình thành những biểu tượng đầu tiên về thế giới xung quanh và
về xã hội loài người.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là một trong những nhiệm vụ hàng
đầu đã và đang được ngành Giáo dục mầm non đánh giá cao. Trong đó việc
rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ mầm non rất được quan tâm, nhưng kĩ
năng này chỉ tương đối phát triển mà chưa chính xác và đồng đều. Nhiều trẻ
nói còn quá to hoặc quá bé, quá nhanh hoặc quá chậm, ngắt hơi không đúng,
chưa thể hiện được tình cảm trong lời nói, phát âm chưa rõ nét, lời nói chưa
có sự nhấn mạnh về phát âm làm cho nội dung chưa được thể hiện chính xác,
ấp úng trong khi diễn đạt,... dẫn đến giảm chất lượng âm thanh ngôn ngữ, khả
năng nói, giao tiếp không đạt hiệu quả. Đặc biệt với những trẻ nhút nhát, ít
tiếp xúc với bạn bè, kém hiếu động thì do vốn từ còn nghèo nàn nên việc thể

1



hiện ngữ điệu, diễn đạt câu từ còn kém điều này dẫn đến việc tiếp thu bài và
tham gia các hoạt động khác chậm chạp, khó khăn, trẻ không tự tin và khó gia
nhập vào các mối quan hệ của cô với bạn. Do đó việc dạy trẻ có biểu cảm,
điều chỉnh hơi thở ngôn ngữ để tạo nên sự hợp lý của âm thanh ngôn ngữ về
cường độ, nhịp điệu, tốc độ, âm sắc của lời nói,... là vô cùng cần thiết.
Để rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ có rất nhiều phương pháp, nhiều
hình thức khác nhau, một trong những hoạt động luôn gây được hứng thú cho
trẻ là hoạt động kể chuyện. Ngay từ rất sớm, trẻ em đã thích nghe kể chuyện
và được kể lại những điều mắt thấy tai nghe. Hoạt động kể chuyện phù hợp
với mọi lứa tuổi trẻ, tuy nhiên ở mỗi độ tuổi lại có những yêu cầu khác nhau.
Trẻ càng lớn, yêu cầu đặt ra càng cao dựa trên trình độ nhận thức, năng lực tư
duy, tưởng tượng và khả năng sáng tạo của trẻ. Với nhiều hình thức kể
chuyện như kể chuyện theo tranh, kể chuyện với đồ chơi,... thì nên chọn kể
chuyện theo kinh nghiệm bởi đây là hình thức phù hợp với trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi và nó đặc biệt có ý nghĩa đối với việc rèn kĩ năng nói có ngữ điệu. Trong
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày trẻ được tham gia các cuộc dạo chơi, tham
quan, lễ hội, những điều thú vị gợi đề tài kể chuyện cho trẻ và trẻ tin rằng mọi
điều xảy ra đều có thể kể lại một cách thú vị, sinh động. Kết quả của kể
chuyện theo kinh nghiệm giúp trẻ phát triển được ngôn ngữ, học được giọng
nói có ngữ điệu, biểu cảm rõ ràng và trẻ hoàn thiện mình hơn về đạo đức,
thẩm mỹ,... Đặc biệt dạy trẻ kể lại chuyện theo kinh nghiệm góp phần phát
triển trí tuệ, tính độc lập, sáng tạo và tích cực cá nhân.
Với những lí do trên tôi chọn đề tài Rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm để
nghiên cứu, với mong muốn góp một tiếng nói nhỏ vào việc thực hiện nhiệm
vụ phát triển ngôn ngữ và góp phần vào sự nghiệp giáo dục.



2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tuổi mẫu giáo là giai đoạn diễn ra sự phát triển nhanh về mọi mặt, sự
phát triển của trẻ ở giai đoạn này có ảnh hưởng trực tiếp đến cả cuộc đời của
trẻ sau này, bởi thế sự phát triển của trẻ em được rất nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em trong đó ngữ điệu của lời
nói được nhiều nhà tâm lý, giáo dục nghiên cứu theo nhiều hướng khác nhau.
Trong cuốn “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ em trước tuổi đi học”,
E.I.Chikhieva đã đề ra các biện pháp phát triển ngôn ngữ một cách hệ thống,
nhấn mạnh đến việc tổ chức cho trẻ tìm hiểu thế giới xung quanh thông qua
các hoạt động trò chơi, tranh ảnh, thế giới xung quanh,.. để hình thành kĩ năng
cho trẻ. Bà đã nghiên cứu và đưa ra các biện pháp cụ thể để phát triển ngôn
ngữ cho trẻ, đó là: “nói chuyện với các em”, “học thuộc thơ ca”, “giao nhiệm
vụ cho các em”, “đàm thoại”, “kể chuyện”, “đọc chuyện”. Các biện pháp này
ngày nay vẫn còn nguyên giá trị đối với bậc học mầm non. [17]
Nghiên cứu về mối liên hệ giữa tư duy và ngôn ngữ của trẻ em, J.Piaget
đã phát hiện lời nói của trẻ mang tính tự kỉ trung tâm, trong đó trẻ xây dựng
câu nói của bản thân không cần có sự kiểm tra của người khác, tiến đến “ngôn
ngữ có tính xã hội hóa”

trong đó có quan điểm của người nghe. Vì thế

J.Piaget cho rằng, động lực phát triển ngôn ngữ là xu thế quan điểm tự kỉ
trung tâm bằng quan điểm này trẻ có thể lĩnh hội và sử dụng ngôn ngữ khi
chúng phát triển các quan niệm. Quan điểm này cho rằng sự trải nghiệm là
yếu tố vô cùng quan trọng cho sự hình thành và phát triển ngôn ngữ. [18]
Ở Việt Nam, ngành học mầm non tuy còn non trẻ so với các nước trên
thế giới nhưng đã có những cố gắng nhất định trong việc nghiên cứu nội
dung, phương pháp giáo dục trẻ, trong đó có giáo dục tiếng mẹ đẻ. Từ sự
nhận thức tầm quan trọng của việc giáo dục tiếng mẹ đẻ cho trẻ trước tuổi đi
học, trong những năm gần đây, vấn đề ngôn ngữ của trẻ được ngày càng



nhiều các tác giả quan tâm nghiên cứu. Điều này được thể hiện trong mục tiêu
chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo.
Tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong cuốn “Phương pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mẫu giáo” đã đề cập đến nhiều nhiệm vụ và phát triển ngôn ngữ
khác nhau, trong đó có ngữ điệu. tác giả đưa ra một số biện pháp hướng dẫn
trẻ kể chuyện nhằm phát triển lời nói độc thoại bao gồm kể lại chuyện, kể
chuyện theo tri giác, kể chuyện theo trí nhớ và kể chuyện theo tưởng tượng.
Đồng thời tác giả đưa ra một số biện pháp, phương pháp hướng dẫn cụ thể:
dạy trẻ nghe và phát âm đúng, phương pháp phát triển từ, dạy trẻ đặt câu,
phương pháp phát triển lời nói mạch lạc, chuẩn bị cho trẻ học đọc, viết,... Tác
giả còn đưa ra các giáo án về phương pháp phát triển tiếng và các hướng
nghiên cứu cụ thể cho cả giáo viên. [2]
Trong cuốn “Giáo trình phát triển lời nói cho trẻ em” của tác giả Đinh
Hồng Thái tác giả đã xác định các nhiệm vụ cơ bản cần phải giải quyết như:
Giáo dục chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng
ngữ pháp, ngữ điệu,… và các biện pháp, phương pháp giáo dục cụ thể hữu
hiệu góp phần phát triển một cách tốt nhất tiếng mẹ đẻ cho trẻ mẫu giáo. [3]
Tài liệu tham khảo của tác giả: Lê Thị Kim Anh, Đinh Hồng Thái, Hà
Nguyễn Kim Giang đã hệ thống hóa các phương pháp các hình thức phát triển
ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Trong đó các tác giả đã đề cập đến kể chuyện theo
kinh nghiệm như một hình thức phát triển ngôn ngữ cho trẻ.[12]
Luận án của Nguyễn Thị Oanh “Biện pháp phát triển lời nói mạch lạc
cho trẻ 5 - 6 tuổi” coi kể chuyện như một biện pháp phát triển ngôn ngữ hữu
hiệu cho trẻ mẫu giáo. Trong đó tác giả cũng coi việc dạy trẻ tập kể lại những
việc đã chứng kiến, đã trải nghiệm là biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
[11]



Luận án của tác giả Hồ Lam Hồng “Một số đặc điểm tâm lý trong hoạt
động ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi qua hình thức kể chuyện” đã đề cập
đến ảnh hưởng của các biện pháp kể chuyện khác nhau đến các hoạt động
ngôn ngữ cũng như đặc điểm tâm lý của trẻ. Tác giả nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của các đặc tính tâm lý trẻ đối với khả năng ngôn ngữ và nhấn mạnh:
hiểu rõ đặc điểm tâm lý và tính quy định tâm lý cá nhân đối với hoạt động
ngôn ngữ chính là điều kiện có ảnh hưởng căn bản đến hiệu quả của quá trình
giáo dục phát triển ngôn ngữ, đến chất lượng giáo dục mà trước hết là giáo
dục tiếng Việt chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. [6]
Nhìn chung các công trình đã đề cập đến sự phát triển của ngôn ngữ cho
trẻ em ở các khía cạnh rất đa dạng và phong phú. Riêng nghiên cứu phát triển
ngôn ngữ nói có ngữ điệu cho trẻ mẫu giáo còn ít. Hầu hết các công trình chỉ
dừng lại ở việc phát triển ngôn ngữ nói chung chứ chưa đưa ra phát triển ngôn
ngữ nói có ngữ điệu cho trẻ. Đây chính là một vấn đề cần được các nhà sư
phạm nói chung và ngành sư phạm mầm non nói riêng quan tâm bởi đây là
hành trang cho trẻ bước vào trường tiểu học. Các công trình nghiên cứu trên
chính là cơ sở phương pháp luận để tôi thực hiện đề tài Rèn kĩ năng nói có
ngữ điệu cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua dạy trẻ kể chuyện theo kinh
nghiệm
3. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp thích hợp để rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm ở trường
mầm non.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho
trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm.


Chúng tôi giới hạn nghiên cứu biện pháp rèn kĩ năng nói có ngữ điệu
trên đối tượng trẻ 5 - 6 tuổi.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận của việc kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ mẫu
giáo 5 - 6 tuổi thông qua dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm.
- Khảo sát thực trạng việc rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ mẫu giáo
5 - 6 tuổi thông qua dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm ở trường mầm
non.
- Đề xuất biện pháp rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi thông qua dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm ở trường mầm non
- Thực nghiệm biện pháp rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ 5 - 6 tuổi
thông qua dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm ở trường mầm non mà
khoá luận đã đề xuất.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, hệ thống hoá
tài liệu lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát sư phạm: Dự giờ, quan sát hoạt động của giáo
viên mầm non trong quá trình tổ chức đánh giá hiệu quả hoạt động dạy
trẻ nói có ngữ điệu cho trẻ 5 - 6 tuổi để đánh giá thực trạng cách thức
việc tổ chức hoạt động này, quan sát hoạt động nói của trẻ 5 - 6 tuổi để
biết mức độ nói có ngữ điệu của trẻ, lấy thông tin thu thập được qua
quan sát kết hợp ghi chép, đàm thoại, quay băng hình.
- Phương pháp đàm thoại: Tôi tiến hành trao đổi với giáo viên mầm non
và trẻ nhằm tìm hiểu về nhận thức, những thuận lợi, khó khăn mà giáo
việc gặp phải trong quá trình dạy trẻ nói có ngữ điệu. Đồng thời trao


đổi với giáo viên các vấn đề liên quan đến đề tài cũng như làm rõ các
thông tin thu được từ phiếu hỏi.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu: Xây dựng phiếu hỏi và phát phiếu

cho giáo viên đang dạy lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Phân tích, tổng hợp các bài viết,
sách, báo,... có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm nhằm kiểm
nghiệm tính khả thi, tính hiệu quả của biện pháp đã đề xuất đối với
nhóm trẻ thực nghiệm. Còn nhóm đối chứng được giữ nguyên không
tác động, sau đó so sánh kết quả của 2 nhóm và rút ra kết luận.
- Phương pháp xử lý số liệu: Tính tổng, tính tỉ lệ %,...
Các phương pháp trên được tiến hành trong mối quan hệ chặt chẽ bổ
sung. Trong đó phương pháp nghiên cứu lý luận, phương pháp điều tra bằng
phiếu là những phương pháp cơ bản.
7. Cấu trúc khoá luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị nội dung khoá luận gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm
Chương 2: Thực trạng của việc rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi thông qua dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm ở trường mầm
non
Chương 3: Biện pháp rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi thông qua dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm ở trường mầm non


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC RÈN KĨ NĂNG NÓI CÓ NGỮ
ĐIỆU CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI THÔNG QUA DẠY TRẺ KỂ
CHUYỆN THEO KINH NGHIỆM
1.1. Ngữ điệu
1.1.1. Khái niệm ngữ điệu
Theo Đinh Hồng Thái: Ngữ điệu là tổng hợp phức tạp các phương tiện
biểu cảm ngữ âm của lời nói bao gồm: Giai điệu, tốc độ, nhịp điệu, trọng âm

(logic và ngữ pháp), âm sắc. [2]
Ngữ điệu là sự chuyển động của thanh cơ bản của giọng nói, là sự nâng
cao hoặc hạ thấp giọng nói trong câu.
Ngữ điệu là sự biến đổi cao độ của giọng nói diễn ra trong một chuỗi âm
thanh lớn hơn âm tiết hay một từ.
Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên
cao hay hạ thấp giọng nói, giọng đọc. Theo nghĩa rộng, ngữ điệu là sự thống
nhất của một tổ hợp các phương tiện siêu đoạn (siêu đoạn tính) có quan hệ
tương tác lẫn nhau được sử dụng ở bình diện câu như cao độ (độ cao của âm
thanh), cường độ (độ lớn, nhỏ, mạnh, yếu của âm thanh), tốc độ (độ nhanh,
chậm, ngắt nghỉ), trường độ (độ dài ngắn của âm thanh) và âm sắc. Ngữ điệu
là yếu tố gắn chặt với lời nói, yếu tố tham gia tạo thành lời nói. Ngữ điệu
được sử dụng để biểu thị ý nghĩa và phạm trù ngữ pháp cũng như các sắc thái
cảm xúc biểu cảm. [13]
Đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ là âm vị, âm vị được chia làm hai loại:
Âm vị đoạn tính và âm vị siêu đoạn tính. Ngữ điệu thuộc âm vị siêu đoạn
tính.


Âm vị

Âm vị siêu
đoạn tính

Âm vị
Đoạn tính

Ngữ âm

Phụ âm


Thanh
điệu

Trọng âm

Ngữ điệu

Hình 1.1. Sơ đồ hệ thống âm vị tiếng Việt
Như vậy, theo chúng tôi ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là tổng
hợp phức tạp các phương tiện biểu cảm ngữ âm của lời nói bao gồm: Giai
điệu, tốc độ, nhịp điệu, trọng âm (logic và ngữ pháp), âm sắc nhằm bộc lộ tư
tưởng, tình cảm, mong muốn của người nói đối với người nghe.
1.1.2. Khái niệm kĩ năng, kĩ năng nói có ngữ điệu
Nghiên cứu kĩ năng có rất nhiều quan điểm khác nhau, trong đó:
Theo L.Đ.Levitov nhà tâm lý học Liên Xô cũ cho rằng: “Kĩ năng là sự
thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay một hoạt động phức tạp hơn
bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức đúng đắn, có tính đến những
điều kiện nhất định”. Theo ông, người có kĩ năng hành động là người phải
nắm được và vận dụng đúng đắn các cách thức hành động nhằm thực hiện
hành động có kết quả. Ông còn nói thêm, con người có kĩ năng không chỉ
nắm lý thuyết về hành động mà phải vận dụng vào thực tế. [Dẫn theo 9]
Theo tác giả Vũ Dũng: Kĩ năng là năng lực vận dụng có kết quả tri thức
về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những
nhiệm vụ tương ứng. [Dẫn theo 9]


Mỗi kĩ năng bao gồm một hệ thống thao tác trí tuệ và thực hành, thực
hiện trọn vẹn hệ thống thao tác này sẽ đảm bảo đạt được mục đích đặt ra cho
hoạt động. Điều đáng chú ý là sự thực hiện một kĩ năng luôn luôn được kiểm

tra bằng ý thức, nghĩa là khi thực hiện bất kì một kĩ năng nào đều nhằm vào
một mục đích nhất định.
Như vậy, có thể hiểu kĩ năng là năng lực thực hiện một hành động hay
một hoạt động nào đó bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, cách
thức hành động đúng đắn để đạt được mục đích đề ra.
Kĩ năng nói có ngữ điệu là kĩ năng nói có ngữ điệu đúng được thể hiện ở
cách nói lên cao giọng, hạ thấp giọng, cao độ, cường độ, tốc độ, trường độ và
âm sắc.
1.1.3. Vai trò của việc rèn kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ 5-6 tuổi
Ngữ điệu là phương tiện bộc lộ cảm xúc mà không gì thay đổi được và
chỉ con người mới có thể có ngữ điệu.
Một bài thuyết trình được coi là thành công ngôn từ chỉ chiếm 10-15%
thành công, giọng nói chiếm 10-15% thành công trong khi đó ngữ điệu chiếm
70-75% thành công. Vì vậy ngữ điệu có vai trò vô cùng quan trọng và nhiệm
vụ rèn kĩ năng ngữ điệu cho trẻ ngay từ khi còn bé là rất cần thiết.
Phát triển ngôn ngữ nói chung và rèn kĩ năng ngữ điệu đúng cho trẻ nói
riêng giúp trẻ có thể tự tin, mở rộng các mối quan hệ giao tiếp đồng thời chức
năng tâm lý của trẻ sẽ được phát triển về mọi phương diện, qua đó góp phần
xây dựng cơ sở nhân cách ban đầu ở trẻ.
Việc trẻ nói có ngữ điệu giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, hoạt bát hơn trong
giao tiếp và có mong muốn được tham gia nhiều hơn các hoạt động của lớp,
gia tăng ở trẻ về vốn sống, vốn kinh nghiệm,... Từ đó kích thích trẻ tư duy,
tìm tòi, khám phá. Như vậy, ngữ điệu góp một phần cho quá trình nhận thức
của trẻ trở nên phong phú toàn diện và sâu sắc hơn.


Khi trẻ nói có ngữ điệu là trẻ có khả năng thuyết phục người nghe, biết
điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với tập thể, biết cách giao lưu
và tổ chức các hoạt động tập thể… điều này rất cần cho một con người Việt
Nam mới, xứng đáng là người gánh vác sứ mệnh của đất nước trong tương

lai.
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng nói có ngữ điệu của trẻ 5 - 6
tuổi
1.1.4.1. Yếu tố sinh lý
Muốn nói được con người cần có bộ máy phát âm tốt và được luyện tập
đúng mức. Bộ máy phát âm gồm: Cơ quan hô hấp, thanh hầu, khoang miệng,
khoang mũi. Trẻ 5 - 6 tuổi nếu phát triển bình thường thì bộ máy phát âm đến
lúc này đã khá hoàn chỉnh do có sự luyện tập cho từng bộ phận khi còn nhỏ.
Tuy nhiên ở giai đoạn này trẻ vẫn cần nghe được người khác nói. Trẻ bị điếc
rất khó khăn trong quá trình học nói, nhất là đối với nói có ngữ điệu. Vì vậy
cơ quan thính giác cũng là một bộ phận quan trọng trong quá trình phát triển
kĩ năng nói có ngữ điệu cho trẻ. Để trẻ có thể nói có ngữ điệu, nói năng mạch
lạc, lưu loát thì người lớn cần chú ý bảo vệ và rèn luyện thính giác cho trẻ, tạo
điều kiện cho trẻ được nghe nhiều, giao tiếp nhiều, cho trẻ xem và nghe người
lớn phát âm để trẻ phát triển hơn về khả năng nói có ngữ điệu.
Sơ đồ truyền đạt và tiếp nhận lời nói
Bộ máy phát âm → Tiếng nói → Đường dẫn truyền trung ương thính giác




Đường dẫn truyền thần kinh


Tai


Vỏ não và dưới vỏ ( Cảm thụ, phân tích, kí hiệu, ghi nhớ)

1.1.4.2. Yếu tố tâm lý

Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với sự
phát triển tâm lý. Việc tiếp thu lời nói còn phụ thuộc vào sự nhanh nhạy của


hệ thần kinh và ý chí của trẻ. Nhưng với những trẻ quá rụt rè, ít chan hoà với
bạn bè và mọi người xung quanh hay những trẻ có khiếm khuyết về ngoại
hình, dị tật bẩm sinh hoặc gia đình không hạnh phúc,... sẽ luôn mặc cảm về
bản thân, bị bạn bè xa lánh rời bỏ, nên trẻ ngày càng ngại giao tiếp, không
muốn tiếp xúc với môi trường xung quanh, đặc biệt trẻ 5 - 6 tuổi khi trẻ đã
biết suy nghĩ, biết phân biệt yêu - ghét, cảm nhận được hành vi và cách người
khác ứng xử với mình thì những ảnh hưởng tâm lý lại càng tác động lớn đến
quá trình phát triển của trẻ. Bên cạnh những ảnh hưởng đến quá trình nhận
thức thì ảnh hưởng đến khả năng nói có ngữ điệu lại càng rõ rệt. Trẻ sống
khép mình, ngại nói, ngại giao tiếp thì ngôn ngữ không những không phát
triển mà còn bị thui chột đi.
1.1.4.3. Yếu tố giáo dục
Ông cha ta thường nói “ bé lên ba cả nhà học nói”, dù rằng trẻ đang sống
trong giai đoạn phát cảm về ngôn ngữ nhưng tự bản thân trẻ khó có thể thỏa
mãn được nhu cầu phát triển đó. Kak - Hainodic đã khẳng định: Trẻ không
thể tự mình học tiếng mẹ đẻ, trẻ cần có môi trường ngôn ngữ ở xung quanh,
đó là con người và giao tiếp của người lớn đối với trẻ [19]. Nếu được người
lớn, đặc biệt là những người làm công tác giáo dục mầm non quan tâm chăm
lo giáo dục kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ, tạo môi trường giao tiếp chuẩn mực,
dẫn dắt và cùng trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động ngôn ngữ… thì kĩ
năng ngôn ngữ nói chung và kĩ năng ngữ điệu nói riêng sẽ được phát triển
hơn so với khả năng vốn có của nó.
1.1.4.4. Yếu tố xã hội
Với mỗi các nhân, khi mới ra đời đã tiếp xúc với một loại tiếng nhất
định. Cá nhân học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình, sử dụng nó để tư duy
và truyền đạt tư tưởng, tình cảm,... của mình cho người khác hiểu và dùng nó

để hiểu người khác. nếu trẻ được sống trong một bầu không khí ngôn ngữ tốt


thì ngôn ngữ sẽ phát triển tốt và ngược lại. Chính vì vậy, trong trường mầm
non thì giáo viên cần chú ý đến việc nói năng sao cho phù hợp với tiêu chuẩn
nhất định ngay cả khi giao tiếp với đồng nghiệp và cán bộ công nhân viên
trong trường, giáo viên cần dùng từ dễ hiểu, lịch sự và không vượt quá khả
năng nhận thức của trẻ cũng như không nên dùng từ ngữ trừu tượng để phân
tích và giảng giải cho trẻ. Câu nói của giáo viên cần có ngữ điệu, nội dung
trong sáng, dễ hiểu, ngắn gọn, rõ ràng, chính xác giúp trẻ ghi nhớ và phát
triển tốt hơn về ngôn ngữ.
Bên cạnh đó, yếu tố gia đình và xã hội có tác động không nhỏ đến quá
trình phát triển ngữ điệu cho trẻ. Nếu trẻ được sống trong một môi trường hòa
thuận, có trình độ văn hóa tốt, quan tâm đến sự phát triển của trẻ thì kĩ năng
nói có ngữ điệu của trẻ sẽ ngày càng phát triển và nếu trẻ thường xuyên được
tiếp xúc với môi trường xã hội (bạn bè, hàng xóm,...) tốt thì vốn ngôn ngữ,
kinh nghiệm của trẻ sẽ được củng cố, giữ vững và phát huy.
1.2 Kể chuyện theo kinh nghiệm
1.2.1. Khái niệm kể chuyện
Theo Nguyễn Xuân Khoa: Kể chuyện là tường thuật về một sự kiện,
miêu tả một đối tượng hoặc sáng tạo ra một câu chuyện nào đó. Đó là một
hình thức trình bày có tình cảm về một sự kiện theo trình tự phát triển của nó.
[2]
Theo Hà Nguyễn Kim Giang thì kể chuyện là một hoạt động nhằm
truyền đạt những sự kiện hành động, xung đột của câu chuyện được chứng
kiến cho người khác. Kể chuyện có thể từ ngôn bản (lời kể của người khác),
từ văn bản (đã in thành văn bản) hoặc từ những sự kiện hiện tượng có thực
trong cuộc sống.[5]



Theo nhận thức của tôi, kể chuyện là trình bày có tình cảm về những sự
kiện, hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày, đó có thể là những điều trẻ trải
nghiệm, tưởng tượng,... theo trình tự phát triển của nó.
Có nhiều hình thức dạy trẻ kể chuyện như: Dạy kể lại chuyện, kể chuyện
theo tranh, kể chuyện theo đồ chơi, kể chuyện theo kinh nghiệm, kể chuyện
sáng tạo,... Dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm là con đường thuận lợi để
phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
1.2.2. Kể chuyện theo kinh nghiệm
Kinh nghiệm theo từ điển tâm lý học là: Kiến thức thu được qua thực
hành và được phản ánh lại. Theo từ điển Tiếng Việt cũng giải thích kinh
nghiệm là điều hiểu biết có thể áp dụng hữu hiệu cho cuộc sống, có được nhờ
tiếp xúc, từng trải nhiều với thực tế.
Kinh nghiệm của trẻ là những gì chính đứa trẻ tiếp thu được trong những
năm tháng ấu thơ được bố mẹ và những người thân trong gia đình chăm sóc
dạy dỗ, được cô giáo mầm non hướng dẫn theo nội dung, chương trình chăm
sóc giáo dục trẻ và do chính đứa trẻ tìm tòi. Những kiến thức mà trẻ thu nhận
được từ gia đình và trường mầm non chính là những kiến thức khoa học
nhưng nó đã trở thành kinh nghiệm sống của đứa trẻ.
Kể chuyện theo kinh nghiệm là dạy trẻ kể lại, tái tạo lại một cách sáng
tạo những gì trẻ đã trải nghiệm trong cuộc sống dưới hình thức một ngôn bản
hoàn chỉnh.
1.2.3. Vai trò của dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm
Dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm có vai trò, ý nghĩa rất lớn đối với sự
phát triển ngôn ngữ của trẻ. Là phương tiện giáo dục toàn diện hiệu quả, tốt
nhất vè mặt đạo đức, trí tuệ, thể lực cho trẻ, đặc biệt là tính độc lập và tích cực
cá nhân của trẻ. Trẻ học sử dụng những kinh nghiệm sống của mình để truyền
đạt nó trong một câu chuyện mạch lạc, thể hiện được ngữ điệu.


Kể chuyện theo kinh nghiệm là một dạng hoạt động phù hợp với trẻ mẫu

giáo 5 - 6 tuổi, vì cuộc sống sinh hoạt xung quanh luôn luôn gợi cho trẻ
những điều mới lại hấp dẫn và gây cho trẻ những ấn tượng đặc biệt. Vốn kinh
nghiệm của trẻ ngày càng trở lên phong phú, trẻ càng lớn nhu cầu giao tiếp,
nhu cầu nhận thức ngày càng mở rộng. Kể chuyện theo kinh nghiệm giúp trẻ
thỏa mãn được không chỉ khao khát tiếp nhận những tác động của môi trường
bên ngoài mà còn được giãi bày suy nghĩ, tình cảm của mình trước một sự
kiện, hiện tượng nào đó.
Kể chuyện theo kinh nghiệm là hình thức khó, nếu trẻ chỉ có vốn
kinh nghiệm phong phú thôi chưa đủ, trẻ phải có khả năng kể chuyện, trẻ
phải biết chọn lọc sự kiện, bố cục câu chuyện, sử dụng phương tiện biểu cảm
trong lời kể… Để phát triển loại kể chuyện này là dựa trên sinh hoạt hàng
ngày của trẻ.
Các buổi tham quan, dạo chơi, lễ hội,... gợi đề tài cho trẻ kể chuyện.
1.3. Đặc điểm tâm - sinh lý của trẻ 5 - 6 tuổi
1.3.1. Đặc điểm tâm lý
1.3.1.1 Tư duy
Tư duy của trẻ phát triển mạnh. Trẻ ở độ tuổi này đã xuất hiện kiểu tư
duy trực quan hình tượng mới, những yếu tố của kiểu tư duy logic và xuất
hiện những suy luận nhưng hãy còn thiếu sót song nó chứng tỏ trẻ đang
chuyển sang một giai đoạn phát triển trí tuệ cao hơn. Trẻ bắt đầu khái quát các
đối tượng không dựa vào sự giống nhau bề ngoài của chúng mà còn dựa vào
những dấu hiệu chủ yếu hơn. Trẻ khái quát các đối tượng không chỉ dựa vào
các chức năng của chúng mà còn dựa vào vật liệu, phương thức chế tạo,... Trẻ
đã có những cố gắng đầu tiên trong việc sắp xếp, hệ thống hóa các khái niệm
1.3.1.2. Chú ý - trí nhớ
Trẻ 5 - 6 tuổi bắt đầu hình thành trí nhớ có chủ định song nó vẫn thiên về
tính chất không chủ định, trẻ ghi nhớ điều gì có ý nghĩa quan trọng trong đời


sống, cái gì trẻ thích thú, gây ấn tượng rõ rệt và mạnh,... Trẻ 5 - 6 tuổi bắt đầu

hình thành trí nhớ ngôn ngữ logic. Trí nhớ có chủ đích bắt đầu nảy nở đó là
mầm mống của ghi nhớ và tái hiện có chủ đích. Ghi nhớ và tái hiện là hai mặt
của cùng một quá trình trí nhớ. Khi tái hiện lại những cái đã tri giác trước kia
thì cái đã được tri giác ấy tiếp tục được củng cố. Qua những kiến thức muôn
hình muôn vẻ của cuộc sống xung quanh, cô giáo dạy trẻ ghi nhớ và tái hiện
lại những cái đã nắm được trước kia. Muốn làm được điều này, cô giáo sử
dụng rộng rãi hình thức trò chuyện với trẻ, dạy trẻ kể lại những gì đã thấy. [5]
Với đặc điểm chú ý - ghi nhớ của trẻ 5 - 6 tuổi là chú ý có chủ định thì
thuộc tính của chú ý được phát triển mạnh như sức tập trung chú ý - sức bền,
sự phân phối và sự di chuyển. Đặc biệt là sức tập trung - sức bền rất phù hợp
với việc cho trẻ quan sát tiếp thu những kinh nghiệm để thuật lại chúng thể
hiện được ngữ điệu, biểu cảm, và ngôn ngữ dễ hiểu.
1.3.1.3. Tưởng tượng
Ở trẻ 5 - 6 tuổi trí tưởng tượng phát triển rất mạnh do ảnh hưởng của các
trò chơi, hoạt động tạo hình, kể chuyện,... Kinh nghiệm phong phú là điều
kiện cần thiết để tưởng tượng phát triển đến mức độ cao. Kinh nghiệm của trẻ
càng rộng, trẻ được nhìn, được nghe thấy càng nhiều thì tưởng tượng của trẻ
càng hoạt động mạnh hơn.
Ở kể chuyện theo kinh nghiệm thì trẻ 5 - 6 tuổi đã trở nên phong phú
hơn, trẻ không những phản ánh những cái đã xảy ra xung quanh trẻ mà còn
phản ánh cả những sự kiện khá xa trong cuộc sống. Trong tưởng tượng của
mình trẻ lứa tuổi này đã tỏ ra có tính độc lập rất cao và có sáng kiến. Trẻ
không lặp lại đơn thuần một số đề tài bắt chước người lớn hay các bạn khác
mà trẻ biến đổi một các sáng tạo bổ sung những cái mới và tự tìm ra phương
thức thực hiện theo ý định của mình. Để trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm tốt


chúng ta phải biết khơi gợi xúc cảm của trẻ bằng cách gợi cho trẻ nhớ lại
những cái đã để lại ấn tượng tốt cho trẻ.
1.3.1.4. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ ở lứa tuổi này thực sự là công cụ tâm lý để kích thích sự phát
triển tư duy cho trẻ, đặc biệt với trẻ 5 - 6 tuổi do việc giao tiếp bằng ngôn ngữ
được mở rộng hơn năm trước, tai âm vị được rèn luyện nên trẻ đã biết sử
dụng ngữ điệu một cách phù hợp với nội dung gián tiếp hay nội dung của câu
chuyện mà trẻ kể. Trẻ thường sử dụng ngữ điệu êm ái để biểu thị tình cảm yêu
thương trìu mến, ngược lại khi giận dữ trẻ lại dùng ngữ điệu thô và mạnh.
1.3.1.5. Cảm xúc - tình cảm
Trẻ luôn luôn hứng thú về một cái gì đó, nhưng những hứng thú có thể
biểu hiện dưới hình thức khác nhau: yếu hoặc mạnh, tự động hoặc bị động.
Mỗi xúc động của trẻ lại kích thích cảm xúc và mỗi cảm xúc lại ảnh hưởng
đến tri giác một các khác nhau. Những gì trong cái mà trẻ tri giác được thật ra
là cái trẻ đã hiểu còn cái mà chúng hiểu lại được tạo lên bởi sự tác động lẫn
nhau của ý thức với những xúc cảm tình cảm. Spenxơ, nhà tâm lý học và sinh
học người Anh đã bác bỏ quan niệm về sự đối lập giữa tri giác và cảm giác.
Ông viết: “Để nhận thức được cảm giác thì cần phải tri giác nó, vì vậy về mặt
nào đó cần phải trở thành tri giác. Mỗi tri giác cần phải là một tổ hợp của các
cảm xúc, và theo nghĩa này, cần được cảm nhận” [8]
Ông cho rằng nhận thức của trẻ em được mã hóa không những bằng kí
hiệu và biểu tượng mà còn bằng cảm xúc. Như vậy, cảm xúc chẳng những có
mối liên hệ với nguồn kinh nghiệm cụ thể của trẻ mà còn gắn bó với cảm
giác, tư duy và hành động của trẻ.
Trẻ 5 - 6 tuổi các loại tình cảm bậc cao đã được hình thành, đặc điểm
chính là sự rung cảm, trẻ thể hiện thái độ cá nhân rõ ràng, dứt khoát. Trong
những tình huống quen thuộc trẻ có khả năng làm chủ những biểu hiện phản


ứng cảm xúc của mình. Chính khả năng này tạo điều kiện cho trẻ thích ứng
chuẩn bị để học bậc học cao hơn sau này.
1.3.2. Đặc điểm sinh lý
Trẻ lứa tuổi mẫu giáo lớn nhanh và tăng nhanh về sức nặng, nhịp điệu

của sự lớn lên hàng năm của thời kì này là không đồng đều. Trẻ 5-6 tuổi cấu
tạo và hoạt động của các cơ quan, hệ cơ quan dần hoàn thiện. Sự phát triển
của trẻ cho thấy năng lực làm việc của trẻ đã dần tăng lên. Các nhà sinh lý
giải phẫu học cho biết bộ não của trẻ 5-6 tuổi ≈ 1300 gam, chỉ kém một chút
so với trọng lượng não của người lớn (≈ 1400). Trẻ đã biểu hiện năng lực trí
tuệ qua hoạt động tổng hợp của lời nói, qua suy nghĩ, quan sát, tập trung chú
ý, khả năng ghi nhớ, liên tưởng, tưởng tượng và khả năng giải quyết những
nhiệm vụ chơi, học, sinh hoạt của mình một cách sáng tạo. [1, tr. 66-69]
Theo tác giả Hà Nguyễn Kim Giang [10]: Sự lớn khôn, phát triển và
trưởng thành của trẻ phụ thuộc vào hoạt động thích ghi với môi trường và thế
giới hiện thực theo cơ chế đồng hóa và điều ứng ở con người. Cơ chế này có
mối liên hệ với hoạt động phản xạ diễn ra ở trẻ: Phản xạ có điều kiện và phản
xạ không điều kiện.
Phản xạ không điều kiện ổn định và có sẵn. Phản xạ có điều kiện là loại
hình phản xạ hình thành sau này trong quá trình sống của cá thể trẻ, để nó lâu
bền cần có sự hỗ trợ của những điều kiện hình thành và sự củng cố. Phản xạ
có điều kiện là hoạt động tín hiệu nhờ hai loại kích thích. Kích thích cụ thể
như âm thanh, màu sắc,... gọi là tín hiệu thứ nhất. Còn tín hiệu thứ hai có
được nhờ ở trẻ nhờ những kích thích trừu tượng như: lời nói, chữ viết, môi
trường xã hội, con người. Đó chính là điều kiện không thể thiếu để trẻ mẫu
giáo hình thành và củng cố hệ thống tín hiệu thứ 2. Muốn mở mang trí lực cho
trẻ ở độ tuổi này cần phải hướng dẫn, dạy bảo trẻ sử dụng tiếng nói để giao
tiếp. Trước 7 tuổi là thời kỳ then chốt để rèn luyện ngôn ngữ cho trẻ. Rèn trẻ


×