Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Đảng bộ tỉnh ninh bình lãnh đạo phát triển giáo dục đào tạo từ năm 2005 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835 KB, 107 trang )

x

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

BÙI THỊ PHƯỢNG

ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo
phát triển giáo dục - đào tạo từ năm 2005 đến năm 2015” em đã nhận được
rất nhiều sự giúp đỡ.
Trước tiên cho phép em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới Thạc sĩ
Trần Thị Chiên - người đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt kiến thức, kinh
nghiệm cho em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Em xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2, các thầy cô trong Khoa Giáo dục Chính trị đã tạo mọi điều kiện cho em
hoàn thành đề tài nghiên cứu.
Đồng thời, cho em gửi lời cảm ơn đến các cô, các chú tại các cơ quan
trực thuộc tỉnh Ninh Bình đã giúp đỡ em trong quá trình khảo sát thực tế.
Sau cùng em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn động viên,
giúp đỡ em trong quá trình làm khóa luận


Em rất mong nhận được những ý kiến nhận xét của quý thầy, cô để khóa
luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018
Sinh viên


B
P



LỜI CAM ĐOAN

Đề tài khóa luận“ Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo phát triển giáo dục
- đào tạo từ năm 2005 đến 2015” được thực hiện dưới sự hướng dẫn của ThS.
Trần Thị Chiên. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá
nhân tôi. Kết quả thu được trong đề tài là hoàn toàn trung thực và không trùng
với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Bùi Thị Phượng


DANH MỤC VIẾT TẮT




hiệ
u
viết
tắt

N

X

Nội dung viết tắt

H

Bổ túc

H

C

trung học

Đ

N

phổ thông

B

N


Công

T

D

nghiệp

T
H

T

P

H

T

C
S

C

hóa, hiện
đại hóa
Cộng sản
chủ nghĩa
Đảng Cộng sản Việt Nam


N

T

G

H

T

i

,

G

á

H

D

o

Đ

T

H


X
T

d

c

C

C

S

C

m

C

N



N
Đ
C
S
V
N

G
D
M

m
T
H

n

P

o

T

n

U

H

B



N

i


D
đ



n
g
n
h
â
n
d
â
n
T
r
u
n
g
h

c
c
ơ
s

Trun
g tâm
giáo
dục


thường
xuyên
Trung cấp
chuyên
nghiệp trung
học phổ
thông
Ủy ban nhân
dân
Xã hội chủ
nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................. 8
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ.............. 8
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở NINH BÌNH .................................................. 8
1.1. Cơ sở lý luận ..................................................................................... 8
1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................ 19
Chương 2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH NINH BÌNH LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM
2015 ........................................................................................................... 30
2.1. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Ninh Bình ......................... 30
2.2. Quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Bình chỉ đạo phát triển giáo dục - đào
tạo từ năm 2005 đến năm 2015.............................................................. 39
Chương 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ......................... 53
3.1. Một số nhận xét............................................................................... 53
3.2. Một số kinh nghiệm ........................................................................ 68

KẾT LUẬN ............................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................... 75


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1


Trong sự nghiệp phát triển chung của toàn nhân loại, giáo dục - đào tạo
luôn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Nó không chỉ là chìa khóa dẫn tới
một cuộc sống tốt đẹp hơn, một thế giới tiến bộ hơn mà còn góp phần vào việc
lưu giữ và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền bá
văn minh nhân loại. Ngày nay với sự bùng nổ của khoa học công nghệ, đặc
biệt là sự phát triển của nền kinh tế tri thức, giáo dục - đào tạo là động lực
chính thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội, là nguồn lực quan trọng quyết
định vị thế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế. Chính vì vậy, các quốc gia
đều rất coi trọng sự phát triển của giáo dục - đào tạo.
Việt Nam là một nước có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, do đó
giáo dục - đào tạo đã khẳng định được vai trò của mình trong suốt chiều dài
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Nhận thức được vai trò quan trọng của giáo dục - đào tạo, ĐCSVN rất
quan tâm đến vấn đề giáo dục - đào tạo, coi giáo dục - đào tạo là quốc sách
hàng đầu với quan điểm giáo dục của dân, do dân, vì dân, giáo dục gắn chặt
với nguyện vọng, lợi ích của cộng đồng. Ngay từ khi mới thành lập, ĐCSVN
có nhiều quan điểm chỉ đạo về phát triển giáo dục - đào tạo. Trong suốt quá
trình lãnh đạo phát triển, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN mặc dù còn một số
hạn chế nhưng giáo dục - đào tạo ở Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan
trọng: thực hiện giáo dục toàn dân, nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi

dưỡng nhân tài; góp phần giáo dục ý thức công dân, phẩm chất chính trị, lý
tưởng cách mạng cho các thế hệ con người Việt Nam; giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa; các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục được tăng
cường; chất lượng và hiệu quả giáo dục ở các cấp học, trình độ đào tạo có
tiến bộ; hợp tác quốc tế được mở rộng; lực lượng lao động qua đào tạo
tăng khá

2


nhanh…. Những thành tựu đó góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất
nước.
Là một tỉnh nhỏ nằm ở cửa ngõ cực nam miền Bắc Việt Nam với những
khu du lịch nổi tiếng, Ninh Bình được nhiều người biết đến với khá nhiều nơi
hấp dẫn khách du lịch như: khu du lịch Bái Đính - Tràng An, Tam Cốc Bích
Động…Bên cạnh đó việc nâng cao dân trí, giáo dục toàn dân cũng được tỉnh
chú trọng, chính vì thế thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển giáo dục đào tạo, ngay sau khi tái lập tỉnh (1992), Đảng bộ tỉnh Ninh Bình tập trung
lãnh đạo đẩy mạnh sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo. Quá trình thực
hiện sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo ở Ninh Bình đã đạt được thành
tựu quan trọng, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên,
bên cạnh thành tựu đạt được, sự nghiệp giáo dục - đào tạo của Ninh Bình còn
một số bất cập và hạn chế nhất định về quy mô, chất lượng và đội ngũ giáo
viên... Hơn lúc nào hết, việc nhận thức đúng và tổ chức thực hiện thắng lợi
đường lối, chủ trương của Đảng về giáo dục - đào tạo, vận dụng phù hợp với
điều kiện cụ thể của địa phương đã và đang là vấn đề quan tâm đặc biệt của
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Ninh Bình.
Do đó, nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo phát triển
giáo dục - đào tạo từ năm 2005 đến năm 2015 nhằm đánh giá đúng những
thành tựu và hạn chế, đồng thời đúc rút ra những kinh nghiệm làm cơ sở cho
việc lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp giáo dục - đào tạo của tỉnh trong những năm

tiếp theo là một việc cần thiết. Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài:
“Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo phát triển giáo dục - đào tạo từ năm
2005 đến năm 2015” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp, chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Giáo dục - đào tạo có vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia,
dân tộc, là “chìa khoá” để tiến vào tương lai; đầu tư cho giáo dục - đào tạo là
đầu
3


tư cho phát triển. Do đó, đã có nhiều học giả trong và ngoài nước, dưới các
góc độ nghiên cứu khác nhau bàn đến vấn đề giáo dục - đào tạo. Có thể kể đến
một số nhóm công trình nghiên cứu sau:
Nhóm các tổ chức quốc tế và các nhà nghiên cứu nước ngoài nghiên
cứu về giáo dục - đào tạo Việt Nam:
Tổ chức Văn hoá - Khoa học - Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO)
với dự án: “Nghiên cứu tổng thể về giáo dục - đào tạo. Phân tích nguồn lực
VIE 89/022” Dự án đã triển khai điều tra,nghiên cứu công phu với các phương
pháp và cách tiếp cận khoa học trên mọi bình diện của công tác giáo dục - đào
tạo ở Việt Nam và đã xác định được 7 vấn đề gay gắt của giáo dục Việt Nam
cần được giải quyết là: suy giảm số lượng và suy thoái chất lượng mọi bậc học
trong hệ thống giáo dục quốc dân; quan hệ chặt chẽ giữa giáo dục nghề nghiệp
và kỹ thuật với sản xuất và việc làm; việc giảng dạy và bố trí mạng lưới đại
học không thích hợp với yêu cầu xã hội, quan hệ không chặt chẽ giữa đại học
với nghiên cứu, sản xuất và việc làm; đội ngũ giáo viên có nhiều yếu kém và
khó khăn trong công việc; nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật cho
giáo dục và đào tạo thiếu thốn, sử dụng không hiệu quả; hệ thống tổ chức,
quản lý, pháp chế về giáo dục - đào tạo không thích hợp; sự phù hợp của giáo
dục - đào tạo với xã hội chuyển đổi.

Dự án “Báo cáo đánh giá tình hình giáo dục - đào tạo Việt Nam hiện
nay”.
Được tiến hành trong 2 năm 1991 - 1992. Dự án đã đánh giá tình hình
giáo dục - đào tạo ở Việt Nam, chỉ ra những ưu điểm cũng như hạn chế của
nền giáo dục - đào tạo Việt Nam giai đoạn 1991 - 1992.
Ngân hàng thế giới (WB) cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam tổ
chức hội thảo với chủ đề “Lựa chọn chính sách cải cách giáo dục đào tạo” tại
Hà Nội (8/1993). Chủ đề đã nghiên cứu sự tác động của các nguồn lực, các
chính sách lớn đến giáo dục, trong đó chú trọng đến vấn đề giáo dục của Việt
Nam.

4


Nhóm các nhà khoa học Việt Nam bàn đến vấn đề giáo dục - đào tạo ở
Việt Nam:
Hồ Chí Minh, Bàn về công tác giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1972. Tác
phẩm đã tập hợp nhiều bài viết của Người bàn về công tác giáo dục. Sợi chỉ
đỏ xuyên suốt tập sách này là tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với mục tiêu, nội
dung, phương pháp giáo dục.
Võ Nguyên Giáp, Mấy vấn đề về khoa học và giáo dục, Nxb Sự thật, Hà
Nội,
1986. Bài viết đã nêu lên những nhiệm vụ và phương hướng chiến lược của
các cấp học, từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học, từ giáo dục kĩ thuật
công nghệ đến giáo dục lao động sản xuất, từ giáo dục hướng nghiệp đến giáo
dục kĩ thuật - tổng hợp, chuyên nghiệp… Đặc biệt bài viết quan tâm đến giáo
dục miền núi, đặc biệt là ở những vùng căn cứ cách mạng, vùng khó khăn.
Phạm Văn Đồng, Về vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1999. Trong cuốn sách, một lần nữa vai trò của giáo dục - đào tạo
được tiếp tục khẳng định và để sự nghiệp giáo dục - đào tạo phát triển mạnh

mẽ cần có sự nhận thức đúng đắn, sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân và có được
những chính sách hữu hiệu nhất.
Bài viết “Phát triển mạnh mẽ giáo dục- đào tạo phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hóa đất nước” của đồng chí Đỗ Mười đăng trên tạp chí
Nghiên cứu giáo dục ( tháng 1/1996) cũng đã khẳng định: muốn đưa sự
nghiệp CNH đất nước nhanh chóng đến thắng lợi thì dứt khoát phải phát triển
nhanh sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Nhóm công trình nghiên cứu về Ninh Bình và về giáo dục - đào tạo
tỉnh
Ninh Bình:
Năm 2005, cuốn “Lịch sử Đảng bộ Ninh Bình”, tập 2 (1975-2005) được
xuất bản đã phản ánh lịch sử Đảng bộ tỉnh, trong đó có đề cập khái quát về

5


giáo dục Ninh Bình trong 25 năm kể từ khi giải phóng miền Nam, thống
nhất đất

6


nước. Lịch sử Đảng bộ Ninh Bình đã đề cập tới một số nội dung liên quan đến
giáo dục - đào tạo như số lượng trường, lớp trong từng giai đoạn lịch sử cụ
thể. Những số liệu đó là những tư liệu cần thiết cho tác giả trong việc nghiên
cứu đề tài về giáo dục - đào tạo ở Ninh Bình.
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục : “Các giải pháp thực hiện phổ cập
giáo dục bậc trung học của tỉnh Ninh Bình đến 2015” của tác giả Ngô Thành
Hưng (năm 2007) trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát đánh giá thực
trạng của công tác phổ cập giáo dục đã đề xuất những giải pháp phù hợp và

khả thi thực hiện phổ cập bậc trung học ở tỉnh Ninh Bình đến 2015 đáp ứng
yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội của địa phương.
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục “Biện pháp quản lý hoạt động dạy
học đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục của hiệu trưởng các trường trung học
phổ thông thành phố Ninh Bình” của tác giả Nguyễn Hữu Tính (năm 2008) đã
nghiên cứu thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học của các trường
trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Ninh Bình và đề xuất các biện
pháp quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng
dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục “Giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ
quản lý trường trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình đến năm 2020” của tác giả
Đinh Hữu Lục (2008) đã nghiên cứu, đề xuất các giải pháp quản lý nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Ninh Bình.
Luận văn thạc sĩ lịch sử “Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo sự nghiệp
Giáo dục từ năm 1996 đến năm 2010” của tác giả Nguyễn Thị Phương Tuyết
(2013) đã nghiên cứu những chủ trương, sự lãnh đạo của Đảng bộ Ninh Bình
đối với nền giáo dục từ năm 196 đến năm 2010 đồng thời rút ra nhận xét, kinh
nghiệm cho nền giáo dục của tỉnh trong giai đoạn 1996 - 2010.

7


Năm 2010, Ban tuyên giáo Ninh Bình và Viện Khoa học xã hội Việt
Nam đã phát hành cuốn “Địa chí Ninh Bình”, gần 1500 trang với 6 phần, đã
trình bày một cách có hệ thống các lĩnh vực như địa lý, lịch sử, kinh tế, văn
hóa, hệ thống chính trị, quốc phòng, an ninh...của tỉnh Ninh Bình. Trong đó
đã đề cập một cách khái quát nhất đến giáo dục Ninh Bình qua từng thời kỳ
lịch sử từ thời kỳ phong kiến đến nay.
Các công trình nghiên cứu kể trên dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau

đã làm rõ được vị trí, vai trò cũng như thực tiễn giáo dục - đào tạo ở Việt Nam
cũng như ở Ninh Bình. Đây là nguồn tài liệu để tác giả tham khảo cũng như
kế thừa trong quá trình viết khóa luận.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ chủ trương, quá trình lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh Ninh Bình về phát triển giáo dục từ năm 2005 đến năm 2015, tác giả đúc
rút một số kinh nghiệm góp phần phát triển giáo dục - đào tạo ở Ninh Bình
trong giai đoạn tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục - đào tạo ở Ninh

8


Bình
- Phân tích, làm rõ chủ trương và quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Bình vận
dụng đường lối, chủ trương của Đảng phát triển giáo dục - đào tạo ở Ninh
Bình từ năm 2005 đến năm 2015.
- Đánh giá kết quả và hạn chế của sự nghiệp phát triển giáo dục từ năm
2005 đến năm 2015; đúc rút một số kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình
trong lãnh đạo phát triển giáo dục - đào tạo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu về quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình
trong phát triển giáo dục - đào tạo từ năm 2005 đến năm 2015.

9



4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: khóa luận tập trung nghiên cứu làm rõ chủ trương và sự
lãnh đạo phát triển giáo dục - đào tạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình.
- Về thời gian: khóa luận nghiên cứu từ năm 2005 đến năm 2015. Tuy
nhiên, lịch sử là một quá trình, giai đoạn sau có liên quan đến giai đoạn trước.
Vì vậy, trong phạm vi khóa luận, tác giả có đề cập đến thực trạng phát triển
giáo dục - đào tạo ở Ninh Bình trước năm 2005.
- Về không gian: tác giả nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở phương pháp luận: khóa luận dựa trên lý luận của CN Mác Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh mà chủ yếu là phép biện chứng duy vật.
* Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng phương pháp:
+ Phương pháp lịch sử: trình bày đúng quan điểm, chính sách, sự chỉ đạo
của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình về phát triển giáo dục - đào tạo.
+ Phương pháp logic: nhằm phân tích, đánh giá, tổng kết kinh nghiệm
của Ninh Bình trong quá trình lãnh đạo phát triển giáo dục - đào tạo từ năm
2005 đến 2015.
+ Phương pháp khác: thống kê, tổng hợp dữ liệu, so sánh và đưa ra nhận
định.
6. Đóng góp khoa học của khóa luận
- Bước đầu khái quát những chủ trương, chính sách, sự chỉ đạo thực hiện
của ĐCSVN và Đảng bộ tỉnh Ninh Bình về sự phát triển giáo dục - đào tạo.
- Khóa luận có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, tìm hiểu về vấn đề giáo dục - đào tạo ở Ninh Bình, từ đó giúp Đảng bộ
tỉnh Ninh Bình thực hiện tốt hơn vai trò lãnh đạo của mình trong quá trình
lãnh đạo thực hiện phát triển giáo dục - đào tạo trong giai đoạn mới.
7. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
kết cấu của khóa luận gồm 3 chương và 6 tiết.



NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở NINH BÌNH
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về giáo dục
V.I.Lênin đã kế thừa, vận dụng và phát triển những tư tưởng của C.Mác
và Ph.Ăngghen về giáo dục - đào tạo trong thực tiễn cách mạng nước Nga,
trong bối cảnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga vào những thập niên
đầu của thế kỷ XX. Tại Đại hội Toàn Nga về công tác giáo dục lần thứ nhất
diễn ra vào ngày 28/8/1918, V.I.Lênin đã khẳng định vai trò to lớn của công
tác giáo dục, coi đó là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo thắng
lợi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,V.I.Lênin nói: “Sự nghiệp của
nhà trường chúng ta cũng là đấu tranh đánh đổ giai cấp tư sản; chúng ta
tuyên bố công khai rằng: nói nhà trường đứng ngoài cuộc sống, ngoài chính
trị, là nói dối và lừa bịp” [29; tr.92 - 93].
Ông cũng chỉ ra rằng “Những người lao động khao khát có tri thức, vì tri
thức cần cho họ để chiến thắng. Chín phần mười quần chúng lao động đã
hiểu rõ rằng tri thức là một vũ khí trong cuộc đấu tranh tự giải phóng của họ,
rằng sở dĩ họ thất bại là do thiếu học thức; rằng giờ đây việc làm cho mọi
người có thể thực sự được học hành, là do bản thân họ quyết định. Sự nghiệp
của chúng ta sẽ thắng vì bản thân quần chúng đã bắt tay xây dựng một nước
Nga mới, xã hội chủ nghĩa” [29; tr.92 - 93].
Một trong những điều kiện cơ bản, tiên quyết để nâng cao năng suất lao
động là phải nâng cao trình độ học vấn và văn hóa cho quần chúng nhân dân
lao động. Điều này, chỉ có thể thực hiện được và thực hiện đạt hiệu quả tối ưu
nhất là thông qua giáo dục và bằng giáo dục. Nhận thức một cách sâu sắc tầm



quan trọng của công tác giáo dục trong sự nghiệp chấn hưng đất nước nên
trong Dự thảo cương lĩnh của Đảng Cộng sản Nga tháng 2/1919 ở nội dung
nói về nền giáo dục quốc dân, V.I.Lênin viết:
“Trong lĩnh vực giáo dục quốc dân, Đảng Cộng sản Nga tự đặt cho mình
nhiệm vụ phải hoàn thành sự nghiệp cách mạng tháng Mười 1917 đã bắt đầu
nhằm biến nhà trường từ một công cụ thống trị giai cấp của giai cấp tư sản
thành một công cụ để đập tan nền thống trị đó, cũng như để hoàn toàn xoá bỏ
sự phân chia xã hội thành giai cấp. Nhà trường phải trở thành một công cụ
của chuyên chính vô sản, nghĩa là nhà trường không những phải truyền bá
những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản nói chung, mà còn phải là một công
cụ truyền bá ảnh hưởng về tư tưởng, về tổ chức và giáo dục của giai cấp vô
sản vào những tầng lớp nửa vô sản và không phải vô sản trong quần chúng
lao động, nhằm hoàn toàn đập tan sự kháng cự của bọn bóc lột và thực hiện
chế độ cộng sản,... Kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục với lao động sản xuất”
[30; tr.141 142].
V.I.Lênin cho rằng, khi cách mạng mới thành công, bước đầu củng cố
chính quyền thì nhiệm vụ của công tác giáo dục là tuyên truyền và giáo dục về
tư tưởng, chính trị là chủ yếu. Khi cách mạng bước sang giai đoạn hoà bình,
xây dựng đất nước thì nhiệm vụ của công tác giáo dục cũng phải có sự thay
đổi theo cho phù hợp. Sự thay đổi đó thể hiện ở chỗ: công tác giáo dục và đào
tạo phải luôn gắn liền, bám sát với thực tiễn cuộc sống, giáo dục và đào tạo
phải trở thành đòn bẩy, thành công cụ, thành nguồn nội lực bên trong của quá
trình phát triển kinh tế - xã hội.
Tư tưởng giáo dục tổng hợp là tư tưởng giáo dục có ý nghĩa hết sức to
lớn đối với thời kỳ CNH, HĐH ở Nga. Cuối năm 1920, khi nhận xét bản “Đề
cương báo cáo về giáo dục” của Crúpxcaia, V.I.Lênin viết:
Bất cứ trong hoàn cảnh nào, chúng ta phải mau chóng từng bước chuyển


sang giáo dục kỹ thuật tổng hợp... để mang lại cho học sinh một tầm nhìn kỹ

thuật tổng hợp và các tri thức cơ bản ban đầu của giáo dục kỹ thuật tổng
hợp,.. cụ thể là các bài giảng về điện, điện khí hoá, về nông học, về hoá học.
Kết hợp với tham quan nhà máy, nhất là nhà máy điện, nông trường, bảo tàng
kỹ thuật...
Tư tưởng này thực hiện trong thực tế, xuất phát từ nguyên lý giáo dục kết
hợp với lao động sản xuất do C.Mác và Ph.Ăngghen tổng kết thời kỳ đầu cách
mạng công nghiệp. V.I.Lênin và các nhà giáo dục Nga đã đưa lên thành
nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở nước Nga, chỉ đạo việc
tổ chức nhà trường và tiến hành hoạt động giáo dục, giảng dạy. Từ đó, tất cả
các trường phổ thông đều mang tính chất giáo dục lao động và giáo dục kỹ
thuật tổng hợp.
Bên cạnh những quan điểm về giáo dục và đào tạo nêu trên, V.I.Lênin
còn đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng:“Học, học nữa, học mãi”, đã trở thành câu
châm ngôn của hàng triệu, triệu các thế hệ không chỉ của nền giáo dục ở Nga,
mà còn là khẩu hiệu của nền giáo dục ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó
có Việt Nam.
Không những đưa ra những khẩu hiệu về giáo dục, Lênin còn bàn đến
nội dung của giáo dục một cách sâu sắc và cụ thể. Ông cho rằng, để đào tạo
con
người phát triển toàn diện, theo quan điểm của Mác, cần quan tâm đặc biệt tới
giáo dục trí tuệ, giáo dục thể chất, thẩm mĩ, tổ chức giáo dục lao động và giáo
dục đạo đức:
Về giáo dục đạo đức
Ông cho rằng, phát triển tư tưởng của Mác về giáo dục đạo đức trong
hoàn cảnh mới, cũng cần phải phân tích thật sâu sắc tính gai cấp, tính lịch sử
của đạo đức với tư cách nó là một hình thái ý thức xã hội. Ông đã kiên quyết
bác bỏ quan điểm cho rằng đạo đức là vĩnh hằng, bất biến. Theo Lênin, mỗi
thời kì lịch sử, mỗi giai cấp trong xã hội có những chuẩn mực đạo đức riêng



biệt (tất nhiên có kế thừa những phần tốt đẹp. Lênin cho rằng giáo dục cộng
sản là giáo


dục đạo đức cộng sản chủ nghĩa mà trước hết là giáo dục tính kỉ luật trong lao
động và hoạt động tập thể vì người khác, khẳng định giáo dục lòng yêu tổ
quốc XHCN và tinh thần quốc tế vô sản có một ý nghĩa cực kì to lớn trong
việc hình thành phẩm chất nhân cách con người XHCN. Giáo dục đạo đức
CSCN cho thế hệ trẻ, trước hết là trách nhiệm của nhà trường Xô Viết, của
Đoàn Thanh niên, Đội thiếu niên tiền phong, của đội ngũ thầy cô giáo, cán bộ
Đảng, cán độ Đoàn, các thế hệ cách mạng lớn tuổi phải tỏ ra xứng đáng là
tấm gương trong sáng cho thế hệ trẻ.
Về giáo dục trí tuệ ( trí dục)
Nói đến vấn đề giáo dục trí tuệ cần phát triển quan điểm của Mác, Lênin
coi trí dục là thành phần, là nội dung cơ bản của giáo dục cộng sản, vũ trang
cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học cơ bản, hệ thống, hiện đại, bồi dưỡng
cho họ năng lực nhận thức, phát triển trí tuệ… là nhiệm vụ chủ yếu của nhà
trường Xô Viết. “Học, học nữa, học mãi” đó là lời huấn thị của Lênin đối với
chúng ta. Người đòi hỏi thế hệ trẻ hiểu chủ nghĩa cộng sản không phải là học
thuộc lòng những khẩu hiệu về chủ nghĩa cộng sản của người khác đặt ra, mà
đó phải là những vấn đề, những kết luận do chính chúng ta tự rút ra.
Lênin nói rằng không thể tin vào việc dạy dỗ, giáo dục - đào tạo nếu như
chỉ đóng khung trong bốn bức tường của nhà trường, sự học tập tách khỏi
cuộc sống và công cuộc xây dựng CNXH của dân tộc. Những tác phẩm của
Lênin đề cập tới vấn đề lí luận nhận thức có một ý nghĩa quan trọng đối với
việc xây dựng lí luận dạy học XHCN. Kết luận của Lênin cho rằng“từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn,
đó là con
đường biện chứng nhận thức chân lí khách quan…” đã chi phối toàn bộ quá
trình tổ chức dạy học trong nhà trường XHCN.

Dựa vào nhận thức luận của Lênin với tư cách là cơ sở phương pháp luận
của mình, giáo dục học xã hội chủ ngĩa đã giải quyết những vấn đề bản chất


của quá trình dạy học, mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính, vai trò của thực tiễn trong quá trình dạy học. rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ
của các dạng lao động xã hội chuyên biệt. Bàn đến nội dung của trí dục, Lênin
không bàn đến thật chi tiết như những nhà sư phạm chuyên ngành, nhưng
những ý kiến của Người là chỉ thị có tính chiến lược trong việc xây dựng nội
dung trí thức các môn học trong nhà trường. Tháng 2 - 1919, Lênin nói “thiết
lập nền giáo dục phổ thông để giới thiệu những tri thức lí luận và thực tiễn về
tất cả các ngành chủ yếu của nền sản xuất xã hội”. Từ đó đến nay tư tưởng
trên của Người đã quán triệt sâu sắc trong quá trình dạy học, lựa chọn nội
dung các môn học, nguyên tắc, phương pháp, tổ chức, hình thức dạy và học
của nhà trường XHCN.
Về vấn đề giáo dục lao động và kĩ thuật tổng hợp
Trước hết, Lênin cho rằng giáo dục lao động, tổ chức lao động sản xuất,
giáo dục kĩ thuật tổng hợp có quan hệ mật thiết với nhau. Nó vừa là nội dung
(vì các mặt đó có những đòi hỏi nội dung cần rèn luyện) vừa là nguyên tắc
giáo dục XHCN. Vì đó là quan điểm cần quán triệt toàn bộ quá trình giáo dục
dạy học, tổ chức lao động sản xuất, giáo dục kĩ thuật phải được coi như
phương tiện đào tạo con người XHCN. Tư tưởng rèn luyện đạo đức, nhân cách
qua lao động và hoạt động xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đào tạo thế
hệ trẻ thành người lao động mới. Có thể thấy, Lênin là người ý thức rất sâu
sắc việc kết hợp quá trình giáo dục với lao động sản xuất và giáo dục kĩ thuật
tổng hợp, có như vậy mới đào tạo được thế hệ lao động trẻ cho CNXH. Khi
phân tích vai trò của lao động và giáo dục kĩ thuật tổng hợp, Lênin đã đánh giá
cao tác dụng của nó đối với các mặt giáo dục khác như trí dục, đức dục.
Những lời giáo huấn của Lênin về giáo dục lao động, giáo dục kĩ thuật tổng
hợp và mối liên quan giữa chúng trong đào tạo giáo dục thế hệ trẻ là kim chỉ

nam trong xây dựng nhà trường Xô Viết trong những thập kỉ qua.


×