Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

“Phân tích khái niệm, đặc điểm của tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.57 KB, 12 trang )

1

A. MỞ ĐẦU
Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội, nó xuất hiện cùng
với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, nói cách khác là khi xã hội phân chia
thành giai cấp đối kháng. Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, nhà nước
đã quy định hành vi nào là tội phạm và áp dụng TNHS hoặc hình phạt đối với
người thực hiện hành vi đó. Do đó tội phạm là một hiện tượng mang tính lịch sử
- xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa pháp lý của việc xác định
khái niệm tội phạm, luật hình sự Việt Nam qua các Bộ luật đều có định nghĩa
thống nhất về tội phạm thể hiện rõ bản chất cũng như đặc điểm của nó. Để hiểu
rõ hơn về các vấn đề trên, trong bài tập học kỳ này, tôi xin lựa chọn chủ đề
“Phân tích khái niệm, đặc điểm của tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam”.

B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1. Khái niệm tội phạm trong Bộ luật Hình sự năm 1985 và năm 1999
Nghiên cứu lịch sử luật hình sự Việt Nam thì lần đầu tiên khái niệm tội
phạm đã được chính thức ghi nhận trong văn bản pháp luật ở Khoản 1 Điều 8
BLHS 1985. Theo đó, khái niệm tội phạm được quy định: “Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có NLTNHS thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ kinh tế và sở hữu xã hội chủ nghĩa, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa”.
Kế thừa quy định về khái niệm tội phạm ở BLHS 1985, Khoản 1 Điều 8
BLHS 1999 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong BLHS, do người có NLTNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh,


trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính


2

mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa”.
Từ những quy định trên, có thể thấy lý luận về tội phạm trong luật hình sự
Việt Nam từng bước được hoàn thiện trong BLHS năm 1985 và năm 1999.
2. Phân tích khái niệm tội phạm trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (được
sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Kế thừa quy định về khái niệm tội phạm từ các BLHS trước đó, BLHS
2015 đã đưa ra khái niệm về tội phạm được quy định tại Khoản 1 Điều 8 như
sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do
người có NLTNHS hoặc PNTM thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Từ quy định này, khái niệm tội phạm có thể được xem xét ở các khía cạnh sau:
2.1. Về chủ thể của tội phạm
BLHS 2015 quy định chủ thể của tội phạm có thể là cá nhân hoặc PNTM.
Chủ thể của tội phạm là cá nhân phải là người có NLTNHS. Theo đó, chủ
thể của tội phạm là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng không
phải ai thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đều là chủ thể của tội
phạm, mà chỉ những người có NLTNHS mới là chủ thể của tội phạm. BLHS
2015 không quy định NLTNHS là gì, mà chỉ quy định tình trạng không có
NLTNHS (Điều 21) và tuổi chịu TNHS (Điều 12). Từ quy định này, có thể hiểu

chủ thể của tội phạm phải là người đạt độ tuổi nhất định, có khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi của mình.
Bên cạnh đó, chủ thể của tội phạm đã được mở rộng bao gồm cả PNTM.
Đây là điểm khác biệt hoàn toàn với Khoản 1 Điều 8 BLHS 1999, qua đó tạo cơ
sở vững chắc để truy cứu TNHS đối với PNTM.


3

2.2. Về hành vi của tội phạm
Hành vi của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi nguy
hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể đến
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Nếu thiệt hại gây ra hoặc đe dọa
gây ra không đáng kể thì không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội và không
bị coi là hành vi phạm tội. Việc đánh giá hành vi nào là nguy hiểm cho xã hội
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Khi đã xác định một hành vi là nguy
hiểm cho xã hội cũng tức là đã coi hành vi đó là hành vi phạm tội. Tuy nhiên
người thực hiện hành vi đó có bị truy cứu TNHS hay không còn phải căn cứ vào
các yếu tố khác như tuổi chịu TNHS, lỗi và các trường hợp loại trừ TNHS...
Hành vi nguy hiểm cho xã hội phải được quy định trong BLHS. Việc nhà
làm luật quy định chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS mới là tội phạm là nhằm gạt bỏ việc “áp dụng nguyên tắc tương tự”. Chỉ
có BLHS mà không có văn bản pháp luật nào khác được quy định tội phạm.
2.3. Về yếu tố lỗi
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là người có lỗi. Lỗi là
thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả
của hành vi đó dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Khoa học luật hình sự coi lỗi là
một dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Nếu một hành vi nguy hiểm cho
xã hội không bị coi là có lỗi thì người có hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị
truy cứu TNHS (không đủ yếu tố cấu thành tội phạm).

Tội phạm là hành vi có lỗi, tính có lỗi là thuộc tính cơ bản của tội phạm,
là cơ sở để buộc một người phải chịu TNHS về hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra. Luật hình sự Việt Nam không chấp
nhận hình thức quy tội khách quan; tội phạm là hành vi tổng hợp các yếu tố chủ
quan và khách quan, các yếu tố này có liên quan chặt chẽ với nhau trong một thể
thống nhất (tội phạm là sự thống nhất giữa mặt chủ quan và mặt khách quan).
2.4. Về khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị xâm phạm mà các quan
hệ xã hội đó được BLHS bảo vệ. Đây cũng là một đặc điểm mà thiếu nó thì


4

không phải là tội phạm. Các quan hệ xã hội thì có nhiều, do nhiều ngành luật
điều chỉnh, nhưng BLHS chỉ bảo vệ những quan hệ có liên quan trực tiếp đến
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do,
tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân và những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Khách thể là một yếu tố rất quan
trọng, các hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội không phải là khách thể
của tội phạm thì không phải là tội phạm. Đây là căn cứ xác định tính chất, mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, phân biệt tội phạm này với tội phạm khác.
3. Điểm mới trong quy định về khái niệm tội phạm trong BLHS 2015 so
với các BLHS trước đó.
BLHS 2015 đã có một số điểm mới trong quy định về khái niệm tội phạm.
Việc nghiên cứu về những điểm mới cũng như những nội dung trong khái niệm
tội phạm không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa to lớn trong
thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm của Đảng và Nhà nước ta. Điều đó
thể hiện ở một số nội dung cụ thể như sau:

3.1. Về khách thể của tội phạm
Như đã phân tích ở trên, khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ. Đó là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con
người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy khái niệm tội phạm trong BLHS 2015 đã
bổ sung thêm “quyền con người” vào các quan hệ xã hội này. Sự bổ sung này là
nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013. Cụ thể tại Điều 3 Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn


5

diện”. Như vậy, khi Hiến pháp (luật gốc) đã xác định quyền con người là một
trong những quyền cơ bản và cần được bảo vệ thì BLHS (cụ thể hóa luật gốc) bổ
sung quyền con người vào các quan hệ xã hội cần được bảo vệ là phù hợp.
3.2. Về chủ thể của tội phạm
Nếu như trong các BLHS trước đây chỉ quy định duy nhất một chủ thể
của tội phạm đó là con người thì đến BLHS 2015, chủ thể của tội phạm đã được
mở rộng hơn, bao gồm cả con người và PNTM. PNTM trước hết phải là pháp
nhân được thành lập và hoạt động theo quy định của BLDS năm 2015 và các
quy định khác của pháp luật có liên quan nhưng có mục tiêu chính là tìm kiếm
lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Khi PNTM thực hiện hành
vi bị coi là tội phạm, xâm hại đến các quan hệ xã hội được BLHS bảo vệ thì sẽ
phải chịu TNHS. Nghĩa là, PNTM cũng là một trong những chủ thể của tội
phạm. Và sự mở rộng này xuất phát từ những lý do sau đây:

Một là, tình hình vi phạm pháp luật do PNTM thực hiện diễn ra ngày càng
phức tạp và nghiêm trọng. Đặc biệt là các hành vi gây ô nhiễm môi trường, buôn
lậu, trốn thuế, sản xuất, vận chuyển, buôn bán hàng giả, hàng cấm... Những hành
vi vi phạm pháp luật nói trên đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội
và có tính chất, mức độ nguy hiểm như tội phạm nhưng do chưa được quy định
trong BLHS nên không thể xử lý hình sự với những PNTM đó mà chỉ có thể
xem xét xử phạt vi phạm hành chính hoặc nhắc nhở yêu cầu sửa chữa, khắc phục
hậu quả. Mà cơ chế xử phạt vi phạm hành chính và bồi thường thiệt hại áp dụng
đối với PNTM vi phạm trên thực tế còn bất cập, chưa đạt hiệu quả thiết thực.
Hai là, thực tiễn áp dụng PLHS cho thấy, đối với một số tội như: Tội sản
xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190); Tội trốn thuế (Điều 200); Tội gây ô nhiễm
môi trường (Điều 235) quy định tại BLHS 2015… nếu là cá nhân có hành vi vi
phạm thì sẽ bị xử lý hình sự, trong khi đó nếu là pháp nhân cũng thực hiện các
hành vi vi phạm nêu trên, thậm chí sẽ ở những quy mô và mức độ nghiêm trọng
hơn rất nhiều lần cá nhân thì không xử lý được về hình sự. Điều đó sẽ gây ra
tình trạng bỏ lọt tội phạm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm cũng như ngăn ngừa tội phạm mới ở nước ta.


6

Ba là, trên thế giới có 120 nước đã quy định TNHS đối với pháp nhân. Do
đó, việc nước ta quy định TNHS đối với PNTM tạo ra sự bình đẳng giữa doanh
nghiệp Việt Nam ra nước ngoài đầu tư với doanh nghiệp nước ngoài vào Việt
Nam đầu tư. Cùng một hành vi vi phạm nghiêm trọng như nhau nhưng doanh
nghiệp Việt Nam hoạt động ở nước ngoài bị xử lý hình sự theo pháp luật nước
sở tại, còn đối với doanh nghiệp Việt Nam lẫn doanh nghiệp nước ngoài hoạt
động ở nước ta vi phạm lại chỉ bị xử phạt hành chính. Như vậy là bất bình đẳng.
Bốn là, việc quy định TNHS đối với PNTM chính là việc nội luật hóa các
Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trong đó đặc biệt lưu ý đến Công

ước Liên Hiệp quốc về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia (Công ước TOC).
Công ước này yêu cầu tất cả quốc gia thành viên áp dụng những biện pháp cần
thiết để xác định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong việc tham gia vào các
nhóm tội phạm nghiêm trọng… gồm hành vi tham gia vào nhóm tội phạm có tổ
chức, rửa tiền, cản trở công lý. Do đó, để thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả
Công ước TOC nói riêng cũng như các điều ước Quốc tế mà Việt Nam đã tham
gia nói chung thì Việt Nam cần phải quy định TNHS đối với PNTM.
Từ những lý do trên đây, khi BLHS 2015 được ban hành, việc các nhà
làm luật đã bổ sung thêm quy định về truy cứu TNHS đối với PNTM để kịp thời
khắc phục những bất cập nêu trên và điều chỉnh các vi phạm pháp luật nghiêm
trọng do PNTM gây ra trong giai đoạn hiện nay là hoàn toàn phù hợp.
3.3. Về hậu quả pháp lý của tội phạm
Trong khái niệm tội phạm của BLHS 1999 không quy định về tính phải bị
xử lý hình sự nhưng dưới góc độ khoa học pháp lý khi phân tích về tội phạm thì
tính phải bị xử lý hình sự vẫn mặc nhiên được thừa nhận. Bởi lẽ, xuất phát từ
mỗi quy định về phần các tội phạm trong BLHS 1999 bao giờ cũng có quy định
về hình phạt tương ứng kèm theo hoặc các biện pháp xử lý hình sự khác. Có
nghĩa, chỉ có tội phạm mới “phải bị xử lý hình sự” hay “phải bị xử lý hình sự”
chỉ gắn liền với tội phạm. Do đó, rõ ràng “phải bị xử lý hình sự” là một dấu
hiệu (về hậu quả pháp lý) của tội phạm và việc BLHS 1999 không khái quát dấu
hiệu này trong khái niệm tội phạm là chưa phản ánh đầy đủ thực tiễn khách


7

quan. Đây là một điểm hạn chế của BLHS 1999 và khi BLHS 2015 được ban
hành thì các nhà làm luật mới khắc phục hạn chế đó bằng cách tạo ra cơ sở pháp
lý khẳng định tội phạm phải bị xử lý hình sự là một dấu hiệu của tội phạm nhằm
nhấn mạnh tính răn đe, phòng ngừa, giáo dục, ngăn ngừa tội phạm mới cũng như
khẳng định tính tất yếu khách quan của quy định này.

Như vậy, so với BLHS trước đây, khái niệm tội phạm trong BLHS 2015
đã có nhiều điểm mới bổ sung theo hướng chặt chẽ, khoa học và phù hợp với
thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta.
3. Ý nghĩa của khái niệm tội phạm
Khái niệm tội phạm có thể được coi là khái niệm cơ bản nhất trong luật
hình sự Việt Nam, một mặt là cơ sở thống nhất cho việc xác định những tội
phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của BLHS, mặt khác trực tiếp thể hiện một
cách rõ nét những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam. Nội dung của
khái niệm tội phạm xác định giới hạn giữa tội phạm và không phải là tội phạm,
giữa TNHS và những trách nhiệm pháp lý khác. Khái niệm tội phạm là cơ sở để
xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể với ý nghĩa là mô hình pháp lý của từng
loại tội phạm, qua đó cũng là cơ sở để quy định khung hình phạt tương ứng.
Trong thực tiễn áp dụng, cơ quan có thẩm quyền tuy dựa vào cấu thành tội
phạm để xác định tội phạm nhưng chỉ trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ
về bản chất cũng như những đặc điểm của tội phạm nói chung mới có thể áp
dụng luật hình sự một cách đúng đắn qua việc xác định đúng tội danh, đánh giá
đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
II.

CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI PHẠM

Tội phạm trước hết phải là hành vi của con người. Chỉ thông qua hành vi
con người mới tác động vào thế giới khách quan và chỉ thông qua hành vi mới
có thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến những quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ. Không có hành vi thì không có tội phạm. BLHS đã quy định
tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Do đó, hành vi bị coi là tội phạm có
các đặc điểm: tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái PLHS và tính phải
chịu hình phạt.



8
1.

Tính nguy hiểm cho xã hội

Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất. Theo quy
định tại Khoản 1 Điều 8 BLHS 2015, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Đồng thời tại Khoản 2 cũng quy định: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội
phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội
phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”. Như vậy tính nguy hiểm cho xã
hội được coi là dấu hiệu tiên quyết, quyết định các dấu hiệu khác. Một hành vi
có ba dấu hiệu còn lại của tội phạm nhưng tính nguy hiểm cho xã hội của nó là
không đáng kế thì không bị coi là tội phạm.
Nguy hiểm đáng kể cho xã hội thể hiện ở chỗ tội phạm gây ra hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại đáng kể cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất (tính mạng, sức khỏe
con người), thiệt hại về vật chất (tài sản), thiệt hại về danh dự, nhân phẩm hay
những tác hại gây ra cho an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội...
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tồn tại một cách độc lập, khách
quan. Tuy nhiên, những nhà làm luật xác định sự đáng kể của hành vi nguy hiểm
cho xã hội dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội, tình hình phòng chống tội phạm...
Người áp dụng pháp luật xác định sự đáng kể của hành vi nguy hiểm cho xã hội
dựa vào những quy định của BLHS. Theo đó những tình tiết, căn cứ nhận thức,
đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bao gồm: tính chất, tầm quan
trọng của mối quan hệ xã hội bị xâm hại; tính chất, mức độ thực hiện hành vi
phạm tội; mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra; tính chất, mức độ lỗi; động
cơ, mục đích của người thực hiện hành vi; phương pháp, thủ đoạn, công cụ,
phương tiện; hoàn cảnh chính trị - xã hội tại địa điểm và thời điểm hành vi phạm
tội xảy ra; nhân thân người thực hiện hành vi; những tình tiết tăng nặng hoặc
giảm nhẹ TNHS của người thực hiện hành vi.

Tính nguy hiểm cho xã hội là đặc điểm thể hiện dấu hiệu về nội dung của
tội phạm. Chính vì vậy, việc xác định dấu hiệu này không chỉ là căn cứ để phân
biệt hành vi phạm tội với những hành vi vi phạm pháp luật khác mà còn là cơ sở
để xác định tội phạm, phân hóa TNHS và cá thể hóa tội phạm.


9
2.

Tính có lỗi

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 BLHS 2015, tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội do người có NLTNHS hoặc PNTM thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý. Như vậy tính có lỗi là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Hành vi nguy
hiểm cho xã hội do người không có lỗi thực hiện không thể bị coi là tội phạm.
Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của một người đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội do người đó thực hiện và đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội của
hành vi đó. Căn cứ vào lý trí và ý chí (nhận thức và mong muốn) của người
phạm tội đối với hành vi và hậu quả, lỗi bao gồm thành lỗi cố ý và lỗi vô ý. Bản
chất của lỗi là chủ thể được tự mình lựa chọn và quyết định thực hiện hành vi
trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn một xử sự khác phù hợp với lợi ích xã hội.
Tính có lỗi cũng là đặc điểm thể hiện dấu hiệu về nội dung của tội phạm.
Căn cứ vào tính có lỗi cho thấy luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc quy
tội khách quan chỉ thông qua hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ
vào lỗi của người thực hiện hành vi đó. Mục đích của TNHS, của hình phạt là
nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội. Mục đích đó chỉ có thể đạt được nếu
TNHS, hình phạt được áp dụng với người có lỗi.
3.

Tính trái PLHS (tính được quy định trong BLHS)


Đây là đặc điểm thể hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa của luật
hình sự Việt Nam. Theo đó, bất kỳ một hành vi nào bị coi là tội phạm cũng đều
được quy định trong BLHS. Đặc điểm này xuất phát từ nguyên tắc “Không ai bị
kết tội vì một hành vi mà lúc họ thực hiện luật pháp quốc gia hay quốc tế không
coi là tội phạm” được ghi nhận tại Khoản 2 Điều 11 Tuyên bố thế giới về nhân
quyền của Liên hợp quốc. Đồng thời đặc điểm này đã được BLHS 2015 pháp
điển hoá tại Điều 2 “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới
phải chịu TNHS” và Khoản 1 Điều 8 “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong BLHS”. Do đó, một người thực hiện hành vi dù nguy
hiểm cho xã hội đến đâu nhưng hành vi đó chưa được quy định trong BLHS thì
không bị coi là tội phạm.


10

Như vậy tính trái pháp luật cũng là dấu hiệu đặc biệt quan trọng. Tính trái
PLHS và tính nguy hiểm cho xã hội là hai dấu hiệu có mối quan hệ biện chứng
với nhau, tính trái PLHS là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lí phản ánh tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm. Đặc điểm này có ý nghĩa về thực tiễn là tránh
việc xử lý tuỳ tiện của người áp dụng pháp luật, bởi lẽ để đánh giá hành vi có
phải là tội phạm hay không, trước hết người áp dụng pháp luật phải xem xét
hành vi đó có được quy định trong BLHS hay không rồi mới xem xét đến tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Về lý luận nó giúp cho cơ quan lập pháp
kịp thời bổ sung sửa đổi BLHS theo sát sự thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội
để công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả.
4.

Tính phải chịu hình phạt (tính phải được xử lý hình sự)


Tính phải chịu hình phạt cũng là đặc điểm thể hiện dấu hiệu về hình thức
của tội phạm. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, không có tội
phạm cũng không có hình phạt. Đặc điểm này không được nêu trong khái niệm
tội phạm mà nó là một dấu hiệu độc lập có tính quy kết kèm theo của tính nguy
hiểm cho xã hội và tính trái PLHS. Tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái PLHS
là cơ sở để cụ thể hóa tính phải chịu hình phạt, tính nguy hiểm cho xã hội càng
lớn thì hình phạt càng cao. Cũng vì tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà
bất cứ hành vi phạm tội nào cũng có thể bị đe dọa áp dụng hình phạt.

C. KẾT LUẬN
Việc xác định khái niệm và đặc điểm của tội phạm có ý nghĩa rất quan
trọng, là cơ sở để nghiên cứu sâu hơn về phần các tội phạm cụ thể. Qua những
phân tích trên, có thể hiểu một cách chung nhất tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có NLTNHS hoặc PNTM thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ và phải bị xử lý hình sự. Bên cạnh đó, một hành vi được coi là tội
phạm chỉ khi có sự tổng hợp của bốn đặc điểm là tính nguy hiểm cho xã hội,
tính có lỗi, tính trái PLHS và tính phải chịu hình phạt. Nếu thiếu dù chỉ một
trong bốn đặc điểm đó thì hành vi đó không thể bị coi là tội phạm.


11

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
2. Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần

chung), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2014.
4. ThS, Luật sư Phạm Ngọc Minh, “Khái niệm và đặc điểm của tội phạm”,

/>5. “Tội phạm và cấu thành tội phạm”,
/>6. TS. Trương Quang Vinh, “Bàn về khái niệm "tội phạm" trong Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999”,
/>7. ThS. Nguyễn Thị Vân, “Những điểm mới trong khái niệm tội phạm của Bộ
luật Hình sự năm 2015”,
/>

12

DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Bộ luật Hình sự
Pháp luật hình sự
Pháp nhân thương mại
Trách nhiệm hình sự
Năng lực trách nhiệm hình sự
Bộ luật Dân sự

- BLHS
- PLHS
- PNTM
- TNHS
- NLTNHS
- BLDS




×