Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

CHUYÊN ĐỀ GIẢI QUYẾT ÁN HNGD Thực tiễn áp dụng điểm mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.06 KB, 31 trang )

CHUYÊN ĐỀ: GIẢI QUYẾT ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH
ĐỀ TÀI: THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG ĐIỂM MỚI
CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
A. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời đã góp phần
nâng cao hơn nữa vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ
gìn thuần phong mỹ tục của gia đình Việt Nam. Song trong điều
kiện kinh tế thị trường có nhiều biến động; các quan hệ Pháp
luật nói chung và quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình phát
sinh, thay đổi ngày càng nhiều hơn trong khi Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 lại bộc lộ nhiều điểm hạn chế, bất cập,
không thể đáp ứng được nhu cầu hiện tại. Chính vì vậy, cần
thiết phải có những quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh các
quan hệ hôn nhân và gia đình nhằm duy trì sự ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội của từng địa phương cũng như của cả đất
nước.
Với yêu cầu cấp thiết đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 có hiệu lực từ 01/01/2015, với 10 chương gồm những quy
định pháp lý điều chỉnh về chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn
mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình;
trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong
việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình.
Chính vì vậy nội dung đề tài thu hoạch: “Thực tiễn áp
dụng những điểm mới của Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2014” dưới đây sẽ góp phần làm rõ việc sửa đổi những
1


quy định còn hạn chế, thiếu tính khả thi, bổ sung thêm các quy
định mới của Luật này đã đáp ứng kịp thời các yêu cầu khách


quan của đời sống hôn nhân và gia đình trong tình hình mới;
bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền công dân
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; bình đẳng giới; kế thừa và
phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống, phong tục,
tập quán tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam.
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI.
1. Những điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình năm
2014.
1.1. Tăng cường bảo vệ quyền con người:
Điều 5 quy định bổ sung các hành vi nghiêm cấm, trong đó
có: Lợi dụng việc thực hiện các quyền về Hôn nhân và Gia đình
để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục
hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi (điểm i khoản 2).
Đặc biệt, trong quá trình giải quyết các vụ việc về Hôn nhân và
Gia đình thì danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư và các
quyền riêng tư khác của các bên được tôn trọng, bảo vệ (khoản
4).
1.2. Áp dụng tập quán trong hôn nhân và gia đình.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định cụ thể việc
áp dụng tập quán trong hôn nhân gia đình so với Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000, theo đó, Điều 7 quy định: “Trong trường
hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận
thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không
trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều
cấm của Luật này được áp dụng”. Việt Nam là quốc gia đa dân
tộc với nhiều tập quán tốt đẹp, đa dạng, phong phú, nội dung
2


quy định tại Điều 7 thể hiện việc tôn trọng những tập quán tốt

đẹp, đồng thời cũng làm rõ điều kiện để tập quán được áp dụng,
nhấn mạnh việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn
nhân và gia đình, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Chính phủ sẽ có Nghị định nhằm đảm bảo tính khả thi của quy
định này.
1.3. Độ tuổi kết hôn:
Nâng độ tuổi kết hôn của nữ thành đủ 18 tuổi thay vì vừa
bước qua tuổi 18 như quy định tại Luật Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000. Luật mới quy định tuổi kết hôn đối với nữ là từ
đủ 18 tuổi trở lên đối nữ và với nam là từ đủ 20 tuổi trở lên. Sở
dĩ có việc thay đổi này là vì nếu quy định tuổi kết hôn của nữ là
vừa bước qua tuổi 18 thì quy định này là không thống nhất với
Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự. Đó là, theo Bộ luật
Dân sự năm 2005 người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành
niên, khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại
diện theo pháp luật đồng ý… Còn theo Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2004, thì đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có
đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như vậy, nếu cho phép
người chưa đủ 18 tuổi kết hôn là không hợp lý, thiếu đồng bộ và
làm hạn chế một số quyền của nữ khi xác lập các giao dịch như
quyền yêu cầu ly hôn thì phải có người đại diện.
1.4. Không cấm kết hôn đồng giới.
Về hôn nhân đồng giới, Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 quy định cấm kết hôn đồng giới, và vì cấm nên đi kèm sẽ
có chế tài, xử phạt. Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi năm
2014 bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới
3


tính” nhưng quy định cụ thể “không thừa nhận hôn nhân giữa

những người cùng giới tính" (khoản 2 Điều 8). Như vậy, những
người đồng giới tính vẫn có thể kết hôn, tuy nhiên sẽ không
được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra. Đây là sự nhìn
nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính của nhà nước ta
trong tình hình xã hội hiện nay.
1.5. Quy định chế độ tài sản của vợ chồng:
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định vợ chồng có
quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế
độ tài sản theo thỏa thuận. Điểm mới ở đây là chế độ tài sản
theo thỏa thuận, theo đó nếu hai bên kết hôn lựa chọn chế độ
tài sản này thì phải lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn
bản có công chứng hoặc chứng thực (Điều 41). Nội dung cơ bản
của thỏa thuận về tài sản bao gồm: “Tài sản được xác định là tài
sản chung, tài sản riêng của vợ chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ
chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên
quan, tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình; điều
kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế
độ tài sản…”. Thỏa thuận này vẫn có thể được sửa đổi, bổ sung
sau khi kết hôn. Quy định này góp phần giảm thiểu sự tranh
chấp tài sản sau ly hôn của các cặp vợ chồng trong tình hình
hiện nay.
1.6. Thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn
Theo đó, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người mới có
quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì kể từ
nay, cha, mẹ, người thân thích khác cũng có quyền yêu cầu tòa
án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần
4


hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được

hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do
chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe, tinh thần của họ (Điều 51).
Ngoài chủ thể là cha, mẹ, người thân thích, khoản 1, 5 Điều
187 Bộ luật tố tụng dân sự còn có qui định: Cơ quan quản lý nhà
nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên
hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo
quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
Quy định này đã tháo gỡ cho nhiều trường hợp bức xúc
muốn xin ly hôn giùm người thân bị mất năng lực hành vi mà
không được do luật cũ quy định việc ly hôn phải do chính đương
sự (vợ, chồng) yêu cầu, nhưng họ lại bị mất năng lực hành vi
dân sự dẫn đến không có năng lực hành vi tố tụng dân sự để xin
ly hôn.
1.7. Căn cứ để ly hôn.
Điều 56 quy định về đơn phương ly hôn như sau: “Khi vợ
hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành
thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng
có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng
trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của
hôn nhân không đạt được”. Như vậy, luật mới quy định rất rõ
“bạo lực gia đình” là căn cứ để giải quyết cho ly hôn; còn đối với
những vi phạm khác, những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng…
trong đời sống vợ chồng, thì phải có cơ sở nhận định chung rằng
5


tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục

đích hôn nhân không đạt được thì mới giải quyết cho ly hôn.
1.8. Chia tài sản phải xét yếu tố lỗi.
Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn có
nhiều điểm mới, đó là trong trường hợp chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận, thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn
được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu không có thỏa thuận
hoặc thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì được phân chia theo
quy định của pháp luật. Về nguyên tắc, khi chia theo pháp luật
thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, nhưng có tính đến
các yếu tố - trong đó có điểm mới là căn cứ vào yếu tố lỗi của
mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng (Điều 59).
1.9. Hạ độ tuổi hỏi ý kiến của con khi bố mẹ ly hôn.
Về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau
khi ly hôn có sự thay đổi so với luật cũ. Cụ thể: Vợ, chồng thỏa
thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên
sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được
thì tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ
vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ bảy tuổi trở
lên thì phải xem xét nguyện vọng của con (Luật Hôn nhân và
Gia đình 2000 quy định nếu con từ đủ chín tuổi trở lên).
1.10.

Cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã chính thức thừa nhận và
cho phép mang thai hộ với mục đích nhân đạo (cụ thể từ Điều
93 đến Điều 98), song phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện
của các bên và được lập thành văn bản. Theo đó, các cặp vợ
chồng vì lý do nào đó không thể tự sinh con có quyền nhờ người
6



mang thai hộ khi có đủ các điều kiện, gồm: Giấy xác nhận của
tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang
thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
vợ chồng đang không có con chung; đã được tư vấn về y tế,
pháp lý, tâm lý. Luật được thông qua dựa trên nguyên tắc
“người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng để
ngăn ngừa tình trạng thương mại hóa việc mang thai hộ”. Theo
đó, người được nhờ mang thai hộ phải có đủ 5 điều kiện: Là
người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ
mang thai hộ; đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một
lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm
quyền về khả năng mang thai hộ; trường hợp người phụ nữ
mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của
người chồng và đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi cũng có các
điều khoản để giải quyết những rắc rối phát sinh. Đáng chú ý là
việc sinh con do mang thai hộ không tính vào số con (của người
mang thai hộ) theo chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình.
Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con, thì
bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang
thai hộ nhận con. Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối
giao con, thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án
buộc bên mang thai hộ giao con. Trong trường hợp bên nhờ
mang thai hộ chết, thì con được hưởng thừa kế theo pháp luật
đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ…
Việc bổ sung quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
thể hiện tính nhân văn sâu sắc, đáp ứng nhu cầu làm cha mẹ


7


chính đáng của các cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang
thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
2. Thực tiễn áp dụng những điểm mới của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014.
2.1. Áp dụng tập quán trong hôn nhân và gia đình.
Điều 7 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
“Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không
có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi
dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không
vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng”.
Song trên thực tiễn lại rất dễ để nhìn thấy quá trình áp dụng
tập quán để giải quyết án hôn nhân và gia đình gặp rất nhiều
khó khăn. Tại một số địa phương như Tuyên Quang, Lai Châu,
Thanh Hóa, Cao Bằng,… hiện nay vẫn còn một số phong tục tập
quán ở những thôn bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa như hiện
tượng đặt dâu trước, tục ở rể (mặc dù chúng chỉ mang tính hình
thức); việc đăng ký kết hôn không do Uỷ ban nhân dân cấp xã
thực hiện; cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi từ
bốn đời trở lên; tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết; bắt
buộc người phụ nữ góa chồng hoặc người đàn ông góa vợ, nếu
kết hôn với người khác thì phải trả lại tiền cưới cho nhà chồng
cũ hoặc nhà vợ cũ; đòi lại của cải, phạt vạ khi vợ, chồng ly
hôn…
Vậy thì căn cứ vào đâu để xác định những tập quán nào cần
kế thừa, phát huy và những tập quán nào cần được xóa bỏ. Điều
này thực sự rất khó xác định vì thực tế quan niệm của mỗi cá
nhân, gia đình, cộng đồng, tầng lớp xã hội khác nhau. Do đó, ở

8


các địa bàn ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít
người việc áp dụng tập quán hôn nhân gặp khá nhiều trở ngại.
Điển hình là, nhiều trường hợp nam, nữ chung sống như vợ
chồng mà không có đăng ký kết hôn, nhưng lại được cộng đồng
dân cư nơi họ cư trú công nhận, bảo vệ. Khi xảy ra tranh chấp,
Tòa án căn cứ vào quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình để
tuyên bố không công nhận hôn nhân của các đương sự. Tuy
nhiên, đương sự, gia đình và dòng họ hai bên thì không đồng
tình với quyết định của Tòa án.
Cũng có trường hợp nam nữ khi kết hôn không vi phạm quy
định của Luật về cấm kết hôn giữa những người có họ trong
phạm ba đời, song theo tập quán, họ vẫn thuộc phạm vi quan
hệ họ hàng không được kết hôn, bởi vậy, họ đã bị gia đình, cộng
đồng không cho kết hôn hoặc không thừa nhận hôn nhân…
Ngoài các trường hợp này, việc tranh chấp về các lễ vật, sính lễ
trong ngày cưới, kết hôn cũng đang tiếp tục xảy ra và được giải
quyết một cách không thống nhất...
2.2. Độ tuổi kết hôn.
Việc nâng độ tuổi kết hôn của nữ thành đủ 18 tuổi với nam
là từ đủ 20 tuổi trở lên. Tuy nhiên, ở các vùng có đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống lại có hiện tượng tảo hôn. Theo một số
liệu thống kê cho thấy: 15 tỉnh, thành phố cả nước có trên 1%
trẻ em ở độ tuổi 14 - 16 đã có vợ chồng. Các tỉnh có tỷ lệ trẻ em
tảo hôn cao như Hà Giang: 5,72%, Cao Bằng: 5,1%, Lào Cai
2,7%, Sơn La 2,6%, Quảng Trị 2,4% và Bạc Liêu 2,1%. Những địa
phương trên có đến 22% tỷ lệ kết hôn không đăng ký vi phạm
Luật Hôn nhân và Gia đình, phần lớn các cặp vợ chồng kết hôn

9


trước tuổi luật định. Theo kết quả điều tra có 30,7% đối tượng
kết hôn ở độ tuổi dưới 19, có 0,2% đối tượng kết hôn khi mới 9
tuổi, 0,3% đối tượng kết hôn khi 14 tuổi, 1,0% kết hôn khi 15
tuổi, 3,3% kết hôn khi 16 tuổi, 5,8% kết hôn khi 17 tuổi và
15,6% kết hôn khi 18 tuổi.1
Đối với những đối tượng kết hôn khi chưa đủ tuổi luật định ở
các vùng sâu vùng xa, khi có yêu cầu ly hôn do một bên đương
sự, Tòa án sẽ dựa vào độ tuổi kết hôn không phù hợp với quy
định Pháp luật mà tuyên bố hủy kết hôn trái pháp luật, thông
thường bên còn lại không muốn ly hôn và lập luận cho rằng đây
là phong tục tập quán của dân tộc họ. Chính điều này buộc Tòa
án phải quay lại việc xem xét: có hay không phong tục tập quán
này, và thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải quyết
tranh chấp hôn nhân như thế.
2.3. Không cấm kết hôn đồng giới.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 không có quy định
cấm nhưng cũng không thừa nhận hôn nhân đồng giới. Theo đó,
các cặp đôi đồng tính vẫn có thể tổ chức đám cưới, vẫn được
chung sống với nhau nhưng sẽ không được thừa nhận là vợ
chồng về mặt pháp lý.
Điều đáng nói ở đây đó là những cặp đôi đồng tính không
được thừa nhận là vợ chồng pháp lý nhưng trên thực tế họ vẫn
thực hiện nhiều hoạt động liên quan đến pháp luật. Nhiều
trường hợp, họ nhờ người mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
(trên thực tế hầu hết đều vì mục đích thương mại) hoặc nhận
nuôi con nuôi, vậy họ sẽ do quy định pháp luật nào điều chỉnh?
1 Giảm


tỷ lệ sinh con ở tuổi vị thành niên. Báo nhân dân số ra ngày
14/7/2013 trang 5
10


Một vấn đề đáng nói nữa đó là việc những người nam đồng
tính lại có chính con ruột của mình. Đơn cử có thể nói đến vụ
việc của ca sĩ Lâm Khánh Chi sử dụng trứng của chị dâu và tinh
trùng mà cô đã lưu trữ từ trước khi chuyển giới để tiến hành nhờ
mang thai hộ và hiện nay đứa bé đã tròn một tuổi. Vậy câu hỏi
đặt ra đó là nếu cha mẹ đứa bé tiến hành đăng kí khai sinh thì
cơ quan nào sẽ có thẩm quyền đăng kí, và nếu đăng kí đứa bé
sẽ mang họ của bố hay mẹ?
Cho nên, theo quan điểm cá nhân cần thiết phải có văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân đồng giới,
không nên bỏ ngõ “không thừa nhận” bởi nếu không thừa nhận
thì các trường hợp kết hôn đồng giới sẽ diễn ra nhiều hơn nhưng
chưa có văn bản pháp luật nào quy định về trường hợp này nên
nếu người dân có nhu cầu giải quyết những vấn đề pháp lý liên
quan thì sẽ thực hiện theo thủ tục, trình tự như thế nào?
2.4. Chế độ tài sản của vợ chồng:
Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định khi ly hôn
tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng
có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, công sức đóng góp của mỗi
bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản chung, lỗi của
mỗi bên trong phạm vi quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng…Trong
thực tế khi giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng, tòa án
gặp khó khăn khi không đủ cơ sở pháp lý để khẳng định rõ khối
tài sản chung của vợ chồng là bao nhiêu, bao gồm những tài

sản gì khi giải quyết ly hôn, do tài sản chung là vàng, tiền cho
trong ngày cưới thường gửi cho cha mẹ chồng quản lý (giữ),
nhưng không có cơ sở chứng minh. Ngoài ra, các bên không
cung cấp đủ chứng cứ để phân định được công sức đóng góp
11


của các bên đối với khối tài sản chung nên việc xác định tỷ lệ
đóng góp thường dựa trên cơ sở định tính.
Tuy nhiên, Luật lại chưa có quy định cụ thể về hoàn cảnh
của mỗi bên, tỷ lệ chia tài sản theo công sức đóng góp. Căn cứ
để xác định vợ hay chồng được chia tài sản nhiều hơn được quy
định khá cụ thể, còn việc xác định lỗi của vợ hoặc chồng là khá
trừu tượng. Ví dụ, hai bên đều trình bày bên kia có lỗi với bản
khai rất nhiều lỗi khác nhau, như: phía bên kia ngoại tình, đánh
chửi, cãi nhau, không quan tâm, mâu thuẫn về quan điểm sống,
về kinh tế... Trong thực tế, phần lớn chỉ có lời khai, rất ít vụ án
có chứng cứ vật chất để chứng minh. Do vậy, quy định này khó
áp dụng trong thực tế2.
2.5. Thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn.
Trên thực tế đã có một vụ việc xảy ra như sau: Tòa án hân
dân (TAND) một quận tại TP. Hồ Chí Minh đã trả đơn trong một
vụ xin ly hôn khá lạ: Cha mẹ của một người đàn ông bị tâm thần
đề nghị thay mặt con trai đứng đơn khởi kiện và tham gia tố
tụng tại tòa nhằm giúp người con dâu được tự do, có cơ hội đi
lấy chồng khác. Giải thoát cho con dâu Người con dâu trong vụ
này là chị G. Theo trình bày của chị, vợ chồng chịlấy nhau được
hơn 10 năm, có với nhau hai mặt con. Trước đây, chồng chị
hoàn toàn bình thường nhưng sau mấy năm đi làm thuê ở một
số nơi về thì thấy có dấu hiệu thần kinh không ổn định. Sau đó

người chồng đổ bệnh, ốm liền mấy tháng, khi tạm khỏe lại thì
đầu óc không còn minh mẫn như trước, suốt ngày tưng tưng, nói
năng lảm nhảm. Hai năm trước, chị cùng gia đình đưa chồng
2 Pháp luật & Xã hội: “Tổng kết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Khó khăn xác định tài sản chung vợ
chồng”.

12


đến bệnh viện tâm thần khám. Các bác sĩ kết luận chồng chị bị
tâm thần nặng. Gần đây, thấy bệnh tâm thần của con trai chữa
trị mãi nhưng không hết mà có phần nặng thêm, phía gia đình
chồng đã vận động chị G. đứng đơn xin ly hôn để tìm hạnh phúc
mới. Tuy nhiên, do thương chồng và cũng đã lớn tuổi, chị G.
không chịu, quyết định ở vậy chăm sóc chồng và các con. Về
phía cha mẹ chồng, vì muốn giải thoát cho con dâu khỏi cảnh
khổ nên khi vận động không được, họ đã quyết định thay con
trai làm đơn “xin ly hôn giùm”3. Luật không cho phép đại diện
Nghiên cứu đơn “xin ly hôn giùm” này, tòa đã giải thích cho cha
mẹ chồng chị G. biết là theo Điều 73 Bộ luật Tố tụng dân sự, đối
với các vụ án ly hôn không được áp dụng chế độ người đại diện.
Tức là phải đích thân chồng hay vợ đứng đơn khởi kiện và tham
gia tố tụng chứ không thể nhờ ai thay mặt mình được. Cha mẹ
chồng chị G. vẫn thắc mắc rằng bản thân con trai họ đang bị
bệnh tâm thần, làm sao tỉnh táo được như người bình thường
mà khởi kiện hay tham gia tố tụng. Họ thương người con dâu đã
bao năm vất vả vì chồng vì con, giờ có chồng mà cũng như
không. Họ muốn gánh trách nhiệm lo lắng, chăm sóc, nuôi
dưỡng con trai để con dâu có cơ hội đi tìm hạnh phúc mới.
Chẳng lẽ người con dâu của họ sẽ phải bị giam hãm cả cuộc đời

mình với người chồng tâm thần suốt đời suốt kiếp hay sao?
Thông cảm với trường hợp này, thấu hiểu tâm tư của cha mẹ
chồng chị G nhưng cuối cùng tòa vẫn phải trả đơn kiện, từ chối
giải quyết vụ án. Nguyên nhân do Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000 không quy định cho trường hợp cha mẹ có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết ly hôn nói trên.

3

13


Sau khi Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 có hiệu lực đã bổ
sung thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn theo khoản
2 và khoản 3 Điều 51:
“2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án
giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do
chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ
đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
Nhưng điều đáng nói đó là Bộ luật tố tụng dân sự và Luật
Hôn nhân và Gia đình không có qui định về trường hợp ly hôn
với người có dấu hiệu bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh tâm thần
nhưng chưa có quyết định tuyên bố người này mất năng lực
hành vi dân sự. Khi gặp tình huống này, Toà án thường yêu cầu
đương sự làm thủ tục xác định tình trạng năng lực pháp luật của
người này để xác định họ có thể đủ năng lực tham gia tố tụng

tại Toà án hay không. Một trong trong những cách thức đó là:
Yêu cầu làm thủ tục tuyên bố một người mất năng lực hành vi
dân sự. Nhưng để tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi
dân sự vì lý do bị bệnh tâm thần thì cần phải có tài liệu chứng
cứ chứng minh như kết luận của cơ quan chuyên môn và đó là
một việc dân sự nên đòi hỏi những thủ tục nhất định theo qui
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, trên thực tế, không phải đương sự nào cũng đáp
ứng về thủ tục, đặc biệt là kết luận giám định của cơ quan
14


chuyên môn về trình trạng nhận thức của người bị bệnh tâm
thần vì họ từ chối đi giám định. Do đó, Toà án không thể tuyên
bố một người mất năng lực hành vi dân sự. Toà án phải làm gì
trong những trường hợp như vậy: Trả lại đơn khởi kiện, từ chối
thụ lý, nếu đã thụ lý thì tạm đình chỉ, đình chỉ? Hay Toà án phải
thụ lý và giải quyết theo thủ tục chung. Trong khi đó việc trả
đơn, tạm đình chỉ, đình chỉ, từ chối thụ lý trong tình huống trên
rõ ràng cách làm này miễn cưỡng vì pháp luật tố tụng dân sự
không cho phép và không nằm trong các trường hợp trả đơn
khởi kiện tại Điều 192, tạm đình chỉ Điều 214 (Trừ trường hợp áp
dụng điểm d khoản 1 Điều 214), đình chỉ Điều 217 của Bộ luật
tố tụng dân sự. Nhưng nếu tiến hành giải quyết theo thủ tục
chung thì còn lúng túng và khả năng bản án bị hủy, sửa do sự
thiếu sót khi nhận thức, vận dụng pháp luật là điều không tránh
khỏi.
2.6. Về căn cứ cho ly hôn.
Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy
định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án

không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về
việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm
trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào
tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích hôn nhân không đạt được”. Đây là một quy định mới, mang
tính khái quát cao. Tuy nhiên, việc quy định về căn cứ ly hôn thể
hiện yếu tố tình cảm vẫn còn chung chung.
Thực tế thì mâu thuẫn và hoàn cảnh giữa các cặp vợ chồng
hoàn toàn không giống nhau, hay nói cách khác mâu thuẫn ly
15


hôn rất đa dạng. Song luật lại không có căn cứ để xác định
rằng: thế nào là “lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”; như
thế nào là “vi phạm nghiêm trọng”. Tức là không có Thông tư
hay Nghị định hướng dẫn chi tiết cụ thể về các thuật ngữ này
nên các Tòa án khi giải quyết các trường hợp cụ thể rất khó để
có thể chứng minh đó có phải là căn cứ cho ly hôn hay không.
Chính vì lý do đó, các Tòa án ở mỗi địa phương lại có nhiều cách
áp dụng không thống nhất về vấn đề này. Chẳng hạn với các ví
dụ4 sau đây:
– Vụ án ly hôn giữa ông Nguyễn Văn Đ và bà Đàm Thị X
Ông Nguyễn Văn Đ và bà Đàm Thị X kết hôn năm 1974, hôn
nhân do cả hai tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân
dân phường 4, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu khi kết
hôn, ông bà sống có hạnh phúc, nhưng sau đó thì phát sinh mâu
thuẫn mà nguyên nhân là do ông Đ đã nhiều lần có quan hệ với
người phụ nữ khác, về nhà đối xử tệ bạc với bà X. Nhưng nay bà
X cũng không đồng ý ly hôn. Tại bản án sơ thẩm của Tòa án

nhân dân thị xã Bến Tre cho ông Nguyễn Văn Đ được ly hôn với
bà Đàm Thị X. Trong khi tại Bản án số 36/2007/HN-PT ngày
12/4/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre đã bác đơn xin ly
hôn của ông Nguyễn Văn Đ và bà Đàm Thị X.
Ở đây, Ông Đ có quan hệ ngoại tình được Tòa án cấp sơ
thẩm xác định là căn cứ cho ly hôn. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc
thẩm lập luận rằng, ông Đ có quan hệ ngoại tình mà lại là người
đứng đơn xin ly hôn, còn bà X thì không đồng ý ly hôn; ông Đ
cho rằng bà X thường hay la cà, nói xấu chồng con nhưng cũng
4

16


không chứng minh được điều đó, như vậy, nhận định không có
cơ sở để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn.
Tóm lại, thông qua bản án trên cho thấy, cùng là hành vi
ngoại tình nhưng cách giải quyết của các cấp Tòa án, các thẩm
phán lại khác nhau. Vì pháp luật quy định không rõ ràng, cụ thể
các căn cứ ly hôn, nên thực tiễn xét xử phụ thuộc hoàn toàn vào
thẩm phán, có thể cùng một hiện tượng nhưng có nhiều cách lý
giải khác nhau, từ đó hướng giải quyết vụ việc cũng khác nhau.
Do vậy, cần thiết phải lượng hóa bằng các tiêu chí cụ thể căn cứ
ly hôn để áp dụng vào thực tiễn.
Thứ hai, đối với trường hợp vợ, chồng đã ly thân trên
thực tế:
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 không quy định ly
thân là căn cứ cho ly hôn. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, các
Tòa án thường đánh giá ly thân là căn cứ để giải quyết cho ly
hôn.

Ví dụ: Chị T và anh M không còn sống chung từ tháng
6/2009 cho đến nay. Trong khoảng thời gian này, hai vợ chồng
không thể đoàn tụ được. Chị T và anh M cũng không còn quan
tâm và trách nhiệm với nhau. Tại phiên tòa giải quyết ly hôn,
chị T vẫn yêu cầu được ly hôn. Trong vụ án này, chị T và anh M
đã có thời gian ly thân dài, không quan tâm và trách nhiệm với
nhau, không cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Tòa án đã
mở phiên hòa giải tạo điều kiện cho vợ chồng anh chị có giải
pháp đoàn tụ, nhưng anh M vắng mặt. Xét thấy mâu thuẫn gia
đình trầm trọng nên Tòa án giải quyết theo hướng cho ly hôn.

17


Vấn đề này không được luật quy định nên đã gây khó khăn
trong cả việc xác định vợ, chồng nào đó có trong tình trạng ly
thân hay không. Mặt khác, không xác định được thời gian ly
thân, nên việc giải quyết án ly hôn thường phải kéo dài khiến
cho nhiều đương sự gặp khó khăn trong việc xây dựng cuộc
sống mới.
Thứ ba, trường hợp vợ hoặc chồng ly hôn với chồng hoặc vợ
đang chấp hành án phạt tù
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chưa quy định căn cứ
ly hôn trong trường hợp vợ hoặc chồng đang chấp hành án phạt
tù. Vì vậy, trường hợp vợ hoặc chồng xin ly hôn với chồng hoặc
vợ đang chấp hành án phạt tù thì không đủ cơ sở giải quyết cho
ly hôn. Điều này đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người đề nghị giải quyết cho ly hôn.
2.7. Chia tài sản phải xét yếu tố lỗi.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Thông tư liên tịch

số 01/2016 có đề cập đến một số yếu tố để xác định tỉ lệ tài sản
mà vợ chồng được chia khi ly hôn nhưng không nói rõ là tỉ lệ cụ
thể. Tháng 11 năm 2018, trong tài liệu tập huấn Luật Hôn nhân
và Gia đình , TANDTC có đề cập: “Trong thực tiễn xét xử, dù một
bên có công sức rất lớn, có nhiều yếu tố khác để được chia
nhiều hơn thì cũng không được chia nhiều gấp đôi bên kia, hay
nói cách khác thì dù được chia nhiều cũng không đến 2/3 giá trị
tài sản chung”.
Nhưng trên thực tiễn điểm mới này không dễ dàng áp dụng
vì một số nguyên nhân sau:

18


Thứ nhất, không thể cân đối lỗi giữa vợ và chồng trong cuộc
sống khi xét xử, giải quyết vụ án li hôn. Thực tế xét xử tại Toà
án cho thấy: Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến ly hôn và chủ
yếu đều xuất phát từ hai phía vợ và chồng. Khi đến Tòa án, được
Thẩm phán hỏi về nguyên nhân; người vợ khai rằng do chồng
mình ngoại tình, không quan tâm, chăm sóc vợ con; người
chồng lại cho rằng vợ mình có những ngôn từ xúc phạm, thường
xuyên gây áp lực. Mặt khác, khi một bên cho rằng bên kia ngoại
tình nhưng lại không có chứng cứ chứng minh điều đó, nên việc
xác minh yếu tố lỗi trên thực tiễn rất khó khăn. Rõ ràng, mỗi vợ
chồng, mỗi gia đình là một hoàn cảnh, có nhiều nguyên nhân
đang xen nhau, nguyên nhân này là tiền đề của mâu thuẫn gia
đình, rồi chính mâu thuẫn đó lại là nguyên nhân, là tiền đề của
mâu thuẫn mới nên không thể xác định được lỗi thuộc về ai, ai
là người nhiều lỗi hơn, ai là người ít hơn. Nên việc qui định vấn
đề xem xét lỗi của mỗi bên để tính toán quyết định tỉ lệ chia tài

sản giữa vợ chồng khi ly hôn thực sự thiếu khả thi trên thực tế.
Thứ hai, khó nhận diện và phân định rõ ràng vợ hay chồng
vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân; vi phạm quyền, nghĩa
vụ về tài sản. Chẳng hạn tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình
2014 quy định quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng:
“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng,
quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực
hiện các công việc trong gia đình.
2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp
vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp,

19


công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.”
Nghĩa vụ yêu thương, nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, nghĩa
vụ sống chung vv… như điều luật qui định là những thuật ngữ
mang tính định tính, trừu tượng nên khi xét xử, Toà án khó xác
định vợ chồng có vi phạm về quyền, nghĩa vụ về nhân thân,
thậm chí không muốn nói là không thể.
Về vi phạm quyền, nghĩa vụ về tài sản: Điều 29 Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 qui định về nguyên tắc chung về
chế độ tài sản của vợ chồng:
“1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc
tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không
phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.
2. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu
cầu thiết yếu của gia đình.
3. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà

xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình
và của người khác thì phải bồi thường.”
Rõ ràng vấn đề bồi thường dân sự đã được đặt ra nếu vợ
chồng có vi phạm về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản
đối với người còn lại hoặc người thứ ba, vậy tại sao lại tiếp tục
qui định vi phạm quyền, nghĩa vụ về tài sản tại điểm d khoản 4
Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016. Với qui định như thế, khác
gì một hành vi vi phạm phải chịu đến hai loại trách nhiệm pháp
lý?

20


Để làm rõ thêm về “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền,
nghĩa vụ của vợ chồng”, Thông tư liên tịch số 01/2016 cho Ví
dụ: Trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, không
chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa án
phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung
của vợ chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con
chưa thành niên. Theo chúng tôi ví dụ này thực chất là làm sáng
tỏ thêm nguyên nhân mâu thuẫn, mức độ trầm trọng của tình
cảm vợ chồng và hoàn cảnh của vợ, con để có cách thức bảo vệ
chủ thể yếu thế hơn đó là người vợ và trẻ chưa thành niên. Một
số trong những cách thức hữu hiệu là giao cho họ với tỉ lệ nhiều
hơn, không nên đồng nhất “lỗi” là yếu tố tác động, ảnh hưởng
đến tỉ lệ được chia. Vấn đề này đã được đề cập tại Thông tư số
690-DS ngày 29-4-1960 của TANDTC: … căn cứ vào tiêu chuẩn:
Lao động góp sức vào gia đình nhiều hay ít, kết hôn lâu hay
mới, con cái đông hay ít và trình trạng cụ thể của hai bên mà
nhận xét để chia cho thoả đáng. Nếu xét lao động cả hai bên

tương xứng thì mới chia bằng nhau. Nếu xét một bên lao động
kém, lại có những hành vi phá tán, hoang phí sẽ chia cho sát
theo sự đóng góp công sức của mỗi bên.
Thứ ba, lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của
vợ chồng không phải là căn cứ để Toà án giải quyết cho các bên
ly hôn. Căn cứ để Toà án cho vợ chồng ly hôn được qui định tại
Điều 55, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình. Khoản 1 Điều 56 qui
định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án
không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về
việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm
trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào
21


tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt được”. Với nội dung qui định này
thì lỗi mỗi bên không phải là một căn cứ để Toà án giải quyết
cho ly hôn. Nếu không phải là một căn cứ để cho ly hôn thì Toà
án không nhận định trong bản án về lỗi nên không có cơ sở
nhận định việc chia tài sản cho vợ hay chồng được hưởng nhiều
hơn do người kia có lỗi trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ
chồng.

2.8. Hạ độ tuổi hỏi ý kiến của con khi bố mẹ ly hôn.
Về nguyên tắc phân chia quyền nuôi con sau khi ly hôn,
khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định,
vợ chồng được quyền thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con,
nghĩa vụ, quyền hạn của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con.
Nếu không thỏa thuận được, Tòa án quyết định giao con cho
chồng hoặc vợ nuôi, căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con. Đặc

biệt, trong trường hợp con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét
nguyện vọng của con. Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành hạ
độ tuổi của trẻ em (từ 9 tuổi xuống 7 tuổi) là phù hợp với khả
năng nhận thức của trẻ hiện nay. Với điều kiện cuộc sống hiện
nay đã được nâng cao cùng với việc trẻ em được tiếp cận nhiều
thông tin, kiến thức xã hội nên trẻ 7 tuổi đã có thể trả lời được
câu hỏi khi cha mẹ ly hôn thì muốn ở với ai.
Theo đó, Luật chỉ quy định “xem xét nguyện vọng của con
từ đủ 07 tuổi”, tức trong quá trình phán quyết ai sẽ là người
nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán sẽ hỏi ý kiến của con. Trên
thực tế, ý kiến của con thường chỉ mang tính định hướng, tham
22


khảo, là một phần để Tòa án xem xét đi đến quyết định, không
có ý nghĩa hoàn toàn quyết định.
Thậm chí nhiều trường hợp, Tòa án khi hướng dẫn các thủ
tục nộp đơn khởi kiện vụ án ly hôn lại thường bỏ qua bước xem
xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi. Trường hợp này thực
tiễn thường có hai chiều hướng: một là khi viết đơn trình bày
nguyện vọng thường theo chủ ý từ phía ba mẹ; hai là nếu đứa
trẻ muốn chung sống với một trong hai người là bố và mẹ
nhưng đa phần kết quả lại không như nguyện vọng đã trình bày
của con, bởi vì Tòa án còn xét đến nhiều yếu tố khác như: điều
kiện kinh tế, sức khỏe,… Cho nên trình bày nguyện vọng của
con được các Thẩm phán đánh giá là không có ý nghĩa lớn trong
quá trình giải quyết ly hôn.
Mặc dù ý kiến của con không có ý nghĩa quyết định cuối
cùng bởi Toà phải dựa trên cả những yếu tố như tình cảm, đạo
đức, kinh tế…nhưng nguyện vọng của con là một trong những

cơ sở cần thiết để Toà án xem xét đảm bảo cho trẻ có sự phát
triển tốt nhất cả về vật chất lẫn tinh thần. Do đó, khi ly hôn, cha
mẹ muốn dành đc quyền nuôi con, phải lưu ý để xem xét đến
nguyện vọng của con khi con đủ 7 tuổi. Để có những định
hướng đúng đắn, vừa cho con điều kiện sống tốt nhất, vừa đảm
bảo được mong muốn của con.5
2.9. Cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Khoản 1, 2, 3 và 4 của Điều 95 trong Luật hôn nhân và gia
đình năm 2014 quy định về điều kiện mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo có nội dung như sau:
5 Thiều Thị Vân Anh, “Tòa phải hỏi ý kiến của con để quyết định việc giao cho bố hay mẹ nuôi dưỡng khi nào?”,
Văn phòng luật sư Đồng Đội, 18/06/2015.

23


“1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện
trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
2. Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các
điều kiện sau đây:
a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ
không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản;
b) Vợ chồng đang không có con chung;
c) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
3. Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau
đây:
a) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng
nhờ mang thai hộ;
b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;

c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm
quyền về khả năng mang thai hộ;
d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có
sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;
đ) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
4. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với
quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản.”
Thứ nhất: theo quy định tại điểm b): “Vợ chồng đang
không có con chung”. Nếu quy định như trên tức là đã hạn chế
quyền có con thứ hai, nói cách khác là những người vì lý do nào
24


đó nên không may mắn là chỉ sinh được một con thì sẽ bị cắt
mất quyền được làm cha, làm mẹ của con thứ hai. Trong khi đó,
chính sách của Nhà nước khuyến khích mỗi gia đình có một đến
hai con.
Thứ hai: điều kiện đối với người mang thai hộ được quy
định tại Điểm a, Khoản 3 cũng ở Điều 95 như sau: “3. Người
được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Là
người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ
mang thai hộ...” Theo quy định trên, ai sẽ là người xác nhận, cơ
quan nào có đầy đủ tư cách về mặt tư pháp để xác nhận cho
người có nhu cầu mang thai hộ? Chưa hết, việc xác nhận này
được chứng thực trên những loại giấy tờ gì?... Việc xác nhận
người mang thai hộ cùng hàng bên vợ hoặc bên chồng với vợ
hay chồng người cần mang thai hộ nếu là trách nhiệm của cơ
quan hành chính, vậy thì người ký phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật như thế nào về việc xác nhận này. Việc xin giấy xác

nhận này do vợ hoặc chồng người có nhu cầu mang thai hộ tự lo
về mặt thủ tục hành chính hay người mang thai hộ phải làm.
Thứ ba: đối với những vợ chồng tuy đã có con chung,
nhưng người con bị khuyết tật nên muốn được nhờ người khác
mang thai hộ thì không được pháp luật cho phép. Vì trong Luật
hôn nhân và gia đình không có điều khoản nào quy định về vấn
đề này. Bởi vì hiện nay, pháp luật Việt Nam coi người khuyết tật
cũng là người có quyền lợi, nghĩa vụ của một công dân. Tuy
nhiên, xét ở góc độ nhân đạo thì đối với những vợ chồng trong
hoàn cảnh này nếu có thêm một đứa con từ việc mang thai hộ
với sức khỏe tốt, sau này sẽ chăm sóc cha mẹ già yếu và người
anh/chị bị khuyết tật... là rất nhân đạo.
25


×