Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Đánh giá hiệu quả điều trị của phương pháp đầu châm kết hợp huyết phủ trục ứ thang trên bệnh nhân nhồi máu não sau giai đoạn cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (772.14 KB, 72 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch máu não (TBMMN) là một trong 10 nguyên nhân gây tử
vong và tàn tật chiếm vị trí hàng đầu trong các bệnh lý của hệ thần kinh trung
ương. Theo thống kê, tỷ lệ tử vong của nhóm này đứng hàng thứ hai trên toàn
thế giới, đứng hàng thứ ba sau các bệnh tim mạch và ung thư ở Mỹ, tỷ lệ tàn
phế chiếm vị trí hàng đầu trên toàn thế giới [1], [2], [3].
Trong TBMMN nguyên nhân do Nhồi máu não (NMN) chiếm 80 –
85%, còn do xuất huyết não (XHN) chiếm 15 – 20%. Bệnh có thể xảy ra
với mọi lứa tuổi không phân biệt nghề nghiệp, giới tính, sắc tộc, địa dư,
hoàn cảnh kinh tế xã hội [3].
Mặt khác, chi phí chăm sóc sức khỏe và phí tổn cho việc mất khả năng
lao động là rất lớn. Ở Mỹ con số này là 65.5 tỷ USD trong năm 2008,71.55
tỷ trong năm 2010 [4].
Ở nước ta, TBMMN cũng đang là vấn đề thời sự của y học về tính phổ
biến, tỷ lệ tử vong cao, di chứng nặng nề, chi phí điều trị tốn kém, thiệt hại về
sức khỏe và sức lao động cho gia đình và xã hội [5]. Theo số liệu thống kê
của Lê Văn Thành (2003) tại thành phố Hồ Chí Minh thấy tỷ lệ hiện mắc là
6060/1.000.000 dân [6].
Như vậy, điều trị TBMMN chú trọng vào phục hồi vận động và điều trị
các yếu tố nguy cơ đề phòng tái phát. Bên cạnh thành tựu của Y học hiện đại,
Y học cổ truyền cũng có đóng góp to lớn trong phục hồi chức năng cho bệnh
nhân, đặc biệt là châm cứu. Nhiều phương pháp châm cứu đă được áp dụng như
dùng Hào châm, Mãng châm, Laser châm để châm các huyệt vị toàn cơ thể hoặc
1 số vùng nhất định như Đầu châm, Nhĩ châm, Diện châm với nhiều công thức
huyệt khác nhau nhằm phục hồi lại chức năng vân động cho người bệnh.


2


Đầu châm là phương pháp điều trị bệnh bằng cách châm các điểm kích
thích ở đầu, là một phương pháp kết hợp giữa Y học hiện đại và Y học cổ
truyền. Nó dựa trên lý luận về sự quan hệ mật thiết giữa đầu và các cơ quan
tạng phủ và lý luận về phân khu từng vùng tại vỏ não của Y học hiện đại. Tại
Trung quốc, Đầu châm được phát triển từ những năm 70 của thế kỷ trước với
nhiều trường phái khác nhau và được áp dụng có hiệu quả trong việc điều trị
một số bệnh liên quan đến hệ thống thần kinh như: Di chứng viêm não, tai
biến mạch máu não…
Tại Việt Nam, cho đến nay chưa có nhiều các công trình nghiên cứu về
Đầu châm cũng như việc ứng dụng phương pháp này trên lâm sàng còn nhiều
hạn chế. Để tiếp tục phát huy thế mạnh của châm cứu, đặc biệt để góp phần
tìm hiểu kỹ hơn về hiệu quả của phương pháp Đầu châm trong việc điều trị
phục hồi di chứng Nhồi máu não, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Đánh giá hiệu quả điều trị của phương pháp đầu châm kết hợp Huyết
phủ trục ứ thang trên bệnh nhân nhồi máu não sau giai đoạn cấp” nhằm
mục tiêu:
1.

Đánh giá kết quả điều trị của Đầu châm kết hợp Huyết phủ trục ứ
thang trên bệnh nhân Nhồi máu não sau giai đoạn cấp.

2.

Theo dõi tác dụng không mong muốn của phương pháp điều trị.


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1


TÌNH HÌNH TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO

1

Tình hình tai biến mạch máu não trên thế giới

Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới (TCYTTG), mỗi năm có hơn 15
triệu người mắc TBMMN, 5 triệu người tử vong, 5 triệu người tàn tật vĩnh
viễn do TBMMN. Trong số này, ước tính có khoảng 3,5 triệu người tử vong là
ở các nước phát triển. Các nước phát triển với chủ yếu là người da trắng, tỷ lệ
tử vong ở nhóm người này là 50 ÷ 100/100.000 người mỗi năm [7]. Riêng ở
châu Á, hàng năm tử vong do TBMMN là 2.1 triệu người [1].
Tại Hoa Kỳ hàng năm có khoảng 700.000 ÷750.000 người mới mắc, trong
đó tử vong là 130.000 người. Số sống sót chỉ 10% khỏi hoàn toàn, 25% di chứng
nhẹ, 40% di chứng vừa và nặng cần trợ giúp một phần hoặc hoàn toàn. Chi phí
cho điều trị là 65.5 tỷ USD trong năm 2008, 71.55 tỷ trong năm 2010 [4].
Theo TCYTTG, TBMMN xảy ra đa số ở lớp người cao tuổi và tỷ lệ tăng
nhanh theo tuổi. Khoảng 1/4 các trường hợp xảy ra ở tuổi dưới 65, khoảng 1/2
xảy ra ở độ tuổi dưới 75, ở tuổi 85 là 3000/100.000 người mắc TBMMN.
Trong nhiều độ tuổi, TBMMN ở nam cao hơn ở nữ. Tỷ lệ mới mắc ở nam giới
dao động từ 124 ÷ 338 ca/100.000 người mỗi năm. Tỷ lệ này đối với nữ là
61÷312 ca/100.000 người mỗi năm [8].
Gần đây, nhiều công trình nghiên cứu đó nhấn mạnh đến TBMMN ở
người trẻ. Ở Ấn Độ, tỷ lệ mới mắc ở người trẻ chiếm 11÷ 30% các trường hợp
TBMMN. Ở Pháp tỷ lệ mới mắc ở người trẻ là 10 ÷ 30/100.000 dân, chiếm
5% toàn bộ TBMMN. Ở Italia, khoảng 3.300 trường hợp mới của TBMMN ở
người trẻ xảy ra mỗi năm, tỷ lệ mắc cao hơn tại Hoa Kỳ và các nước đang
phát triển [7].



2

Tình hình tai biến mạch máu não ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, ở nước ra TBMMN đang có chiều hướng gia
tăng cướp đi sinh mạng của nhiều người hoặc để lại di chứng nặng nề gây
thiệt hại to lớn cho gia đình và xã hội.
Theo Nguyễn Văn Đăng (1996) thống kê tại Khoa thần kinh bệnh viện
Bạch Mai từ năm 1991÷ 1993, có 631 trường hợp TBMMN, tăng gấp 2.5 lần
so với thời kỳ từ năm 1986 đến năm 1989 [8].
Lê Văn Thành (2003) điều tra TBMMN ở thành phố Hồ Chí Minh thấy
tỷ lệ hiện mắc là 6060/1.000.000 dân, tăng hơn năm 1993 với tỷ lệ là
4160/1.000.000 dân [6].
Đinh Văn Thắng (2006) theo dõi tỷ lệ TBMMN tại bệnh viện Thanh
Nhàn từ 1999 ÷ 2003, cho thấy năm 2003 n TBMMN tăng 1,58 lần so với
năm 1999, tỷ lệ nam/ nữ là 1,75 [9].
Nguyễn Minh Châu (2011) thống kê cho thấy tỷ lệ bệnh nhân TBMMN
chiếm 26,7% tổng số bệnh nhân vào điều trị nội trú tại bệnh viện Lăo khoa
Trung ương năm 2010 [10].
Sự gia tăng nhanh chóng số lượng người mắc TBMMN đồng nghĩa với
nhu cầu PHCN sau tai biến ngày càng tăng cao. Theo kết quả nghiên cứu của
khoa PHCN bệnh viện Bạch Mai và khoa PHCN bệnh viện tỉnh Thái Bình,
92% người bệnh liệt nửa người đang sống tại nhà vẫn có nhu cầu PHCN [11].
2

TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO THEO Y HỌC HIỆN ĐẠI

1



Định nghĩa và phân loại tai biến mạch máu não

Định nghĩa tai biến mạch máu não
Định nghĩa của TCYTTG (WHO): “Tai biến mạch máu não là các thiếu
sót chức năng thần kinh xảy ra đột ngột với các triệu chứng khu trú hơn là lan
tỏa, các triệu chứng tồn tại quá 24 giờ hoặc tử vong trong 24 giờ, loại trừ
nguyên nhân chấn thương sọ não” [3],[5],[8],[12].




Phân loại tai biến mạch máu não
Tùy thuộc bản chất tổn thương, TBMMN được chia thành 2 thể lớn:

-

Xuất huyết não: xuất huyết vào nhu mô não, chiếm 15 ÷ 20%.

-

Nhồi máu não: xảy ra khi một mạch máu bị tắc một phần hay toàn bộ, khu
vực não mà mạch máu đó cung cấp bị thiếu máu và hoại tử. TBMMN do
NMN chiếm khoảng 80% ÷ 85% tổng số ca.
1.2.2. Nhồi máu não
1.2.2.1. Định nghĩa
Nhồi máu não là hậu quả của sự giảm đột ngột lưu lượng tuần hoàn não do
tắc một phần hay toàn bộ động mạch não, dẫn tới vùng não mà mạch đó nuôi
dưỡng bị thiếu máu và hoại tử, biểu hiện bằng sự xuất hiện đột ngột của các triệu
chứng thần kinh khu trú mà hay gặp nhất là liệt nửa người [2],[7],[8],[12].
Bao gồm 3 loại:

+ Cơn thiếu máu não thoáng qua: Tai biến phục hồi trong 24 giờ. Loại
này được coi như là yếu tố nguy cơ của thiếu máu não cục bộ hình thành.
+ Thiếu máu não cục bộ: Tai biến phục hồi trên 24 giờ và không để lại di
chứng hoặc di chứng không đáng kể.
+ Thiếu máu não cục bộ hình thành: Thời gian hồi phục kéo dài, để lại di
chứng hoặc tử vong.
1.2.2.2. Cơ chế bệnh sinh của nhồi máu não
Hai cơ chế chính chịu trách nhiệm cho NMN cấp: Cơ chế tắc mạch
(huyết khối hoặc lấp mạch) và cơ chế huyết động.
 Cơ chế tắc mạch

Cơ chế này thường xảy ra do lấp mạch hoặc huyết khối tại chỗ và gây tụt
giảm đột ngột lưu lượng máu não khu vực. Lấp mạch não, nguyên nhân gây tắc
mạch được tạo thành trong tim hoặc trong hệ thống mạch máu, di chuyển trong hệ
động mạch, kẹt lại trong một động mạch nhỏ hơn và làm nghẽn một phần hoặc


hoàn toàn động mạch đó. Các nguyên nhân như: Khí, mỡ, Cholesterol, vi trùng, tế
bào u, cục máu đông. Huyết khối tắc mạch, là tình trạng tắc dòng chảy do hình
thành cục huyết khối từ một quá trình bệnh lý tắc nghẽn khởi phát bên trong thành
mạch máu, nguyên nhân hay gặp là xơ vữa động mạch, ít gặp hơn là bóc tách
thành động mạch, co mạch, chèn ép từ bên ngoài như khối u [7].
 Cơ chế huyết động

Thường xảy ra với các trường hợp động mạch bị tắc hoặc hẹp nhưng
tuần hoàn bàng hệ vẫn đủ để duy trì được lưu lượng máu não ở mức đảm bảo
cho hoạt động chức năng não ở điều kiện bình thường. Nếu có bất thường
huyết động làm giảm áp lực tưới máu (hạ huyết áp tư thế, giảm cung lượng
tim) hoặc hiện tượng ăn cắp máu từ vùng não của động mạch hẹp/tắc sang
vùng não khác thì lượng máu não sau sang sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu và

thiếu máu não cục bộ có thể xảy ra. Đột quỵ não xảy ra qua cơ chế huyết động
chủ yếu nằm ở vùng ranh giới, là nơi tiếp giáp giữa các vùng tưới của động
mạch lớn như động mạch não giữa với động mạch não trước hoặc động mạch
não giữa với động mạch não sau [7].
 Cơ chế nhồi máu não trong xơ vữa động mạch não lớn

Xuất huyết não

Nhồi máu não

Hình 1.1. Xuất huyết và nhồi máu não
Huyết khối có thể được tạo thành trên mảng xơ vữa và gây tắc mạch tại chỗ.
Cục thuyên tắc từ các mảng vỡ của mảng xơ hoặc từ cục huyết khối trên
mảng xơ có thể gây lấp mạch ở các động mạch xa hơn.


Gốc các động mạch nhỏ có thể bị tắc do sự phát triển của các mảng xơ trong
động mạch xuất phát ra chúng (động mạch thân nền hoặc động mạch não giữa).
Giảm nặng đường kính lòng mạch do phát triển mảng xơ vữa có thể dẫn
đến giảm tưới máu gây nhồi máu não [13].
1.2.2.3. Sinh lý bệnh học nhồi máu não
Khi có thiếu máu não cục bộ, có nhiều cơ chế như tự điều hòa, tuần hoàn
bàng hệ được phát động để đảm bảo cung cấp Oxy cho vùng thiếu máu. Hậu
quả của thiếu máu phụ thuộc vào mức độ và thời gian thiếu máu. Khi ngừng
cung cấp máu cho não 30 giây, chuyển hóa của não sẽ bị rối loạn, sau một
phút chức năng thần kinh bị đình trệ, sau 5 phút sự thiếu Oxy tạo ra một chuỗi
các rối loạn gây ra tình trạng NMN [14].
 Hiện tượng Pénumbra

Từ Pénumbra là từ tiếng Latinh có nghĩa là hầu như là tối. Thuật ngữ này

dùng để chỉ một trạng thái đặc biệt của vùng thiếu máu não, trong đó các tế
bào thần kinh mất các hoạt động dẫn truyền nhưng về mặt sinh lý thì vẫn
nguyên vẹn và sự chênh lệch Ion (là một đặc trưng của tế bào) vẫn được bảo
tồn. Người ta thấy rằng tất cả các vùng não bị thiếu máu, trước khi gây ra một
ổ hoại tử đều trải qua thời kỳ này. Tùy thuộc vào mức độ giảm sút của lưu
lượng tuần hoàn não và vào vị trí ở vùng ngoại biên của ổ thiếu máu mà thời
kỳ Pénumbra có thể kéo dài khác nhau.
 Phản ứng chuyển hóa ở vùng thiếu máu não

Khi một vùng não bị giảm hoặc mất nuôi dưỡng, sẽ làm thay đổi chuyển
hóa đường, tăng Axit Lactic làm giảm PH máu. Tình trạng toan máu này gây
ra rất nhiều hậu quả xấu: Giảm quá trình Oxy hóa khử, phá hủy hàng rào máu
não, làm tổn thương tế bào thần kinh vốn đang bị thiếu Oxy, làm tăng sự di
chuyển K+ ra ngoài tế bào và Na+ vào trong tế bào kéo theo nước chảy từ
khoang gian bào vào trong tế bào.


 Vai trò làm tổn thương tế bào của một số chất

+ Glutamat: Là một chất dẫn truyền thần kinh, tiền chất của GABA,
tham gia vào quá trình tổng hợp protêin trong tế bào. Sự tăng lên quá mức của
Glutamate trong tế bào thần kinh bị thiếu máu não gây ra ngộ độc cho tế bào
thần kinh.
+ Canxi: Canxi trong tế bào giữ vai trò quan trọng trong điều hòa tổng
hợp các Enzyme và giải phóng các chất dẫn truyền thần kinh. Trong ổ thiếu
máu não, có sự giải phóng các chất kích thích ngộ độc tế bào tác động trên thụ
thể NMDA (N-Metyl- D Asparate) làm cho Canxi xâm nhập ồ ạt vào trong tế
bào và đến lượt nó lại gây ra tổn thương cho tế bào thần kinh.
1.2.2.4. Lâm sàng
Các triệu chứng lâm sàng của nhồi máu não phụ thuộc vào vị trí của ổ

nhồi máu não [14],[15].
 Nhồi máu não nhánh nông của động mạch não giữa

Các rối loạn cảm giác, vận động, thị giác đối diện với bên bị tổn thương
bao gồm: Liệt nửa người với ưu thế tay – mặt do tổn thương hồi trán lên,
giảm cảm giác nông và sâu nửa người do tổn thương hồi đỉnh lên, bán manh,
Aphasie Broca hoặc Vernicke, thờ ơ đôi khi có lú lẫn...
 Nhồi máu nhánh sâu của động mạch não giữa

Liệt hoàn toàn, đồng đều nửa người bên đối diện, thường không có rối
loạn cảm giác, không có rối loạn thị trường, đôi khi có thất ngôn dưới vỏ do
tổn thương nhân xám của bán cầu não ưu thế.
 Nhồi máu toàn bộ của động mạch não giữa

Các triệu chứng nặng nề của cả hai loại nhồi máu nhánh nông và nhánh
sâu kết hợp.


Não bình thường

Nhồi máu não

Hình 1.2. Hình ảnh nhồi máu não
 Nhồi máu động mạch não trước

Ít khi riêng rẽ, thường bị cùng với động mạch não giữa, liệt nửa người ưu
thế ở chân, câm ở giai đoạn đầu, hội chứng thùy trán: Thờ ơ, vô cảm, hưng cảm,
rối loạn chú ý, rối loạn hành vi, rối loạn ngôn ngữ nếu tổn thương bên trái.
 Nhồi máu não động mạch não sau


Triệu chứng thị giác nổi bật: Bán manh, mất đọc, mất nhận thức thị giác,
trạng thái lú lẫn. Giảm cảm giác nông sâu bên đối diện, đau nửa người đối bên,
đau tự phát hoặc do kích thích, cảm giác đau rất mãnh liệt. Liệt nhẹ nửa người
bên đối diện, có thể có động tác múa vờn ở bàn tay bên đối diện với tổn thương.
 Nhồi máu động mạch bên của hành tủy

Ở bên tổn thương: Phân ly cảm giác, còn cảm giác sờ, mất cảm giác đau
nóng, lạnh. Tổn thương dây thân kinh (IX, X, XI): Rối loạn nuốt, phát âm,
nấc, liệt màn hầu, thanh quản. Hội chứng tiền đình: Chóng mặt, nôn,
Nystagmus do tổn thương nhân tiền đình. Ở bên đối diện: Mất cảm giác nửa
người, mất cảm giác đau, nóng, lạnh, còn cảm giác sâu.
 Nhồi máu tiểu não

Nhức đầu, nôn, chóng mặt, hội chứng tiểu não. Có thể là một cấp cứu vì
ép vào thân não hoặc gây não úng thủy cấp do ép vào não thất bốn.


1.2.2.5. Các yếu tố nguy cơ
Các yếu tố nguy cơ được chia làm hai nhóm: Nhóm không thay đổi được
và nhóm có thể thay đổi được [7], [13]. Nhóm không thay đổi được bao gồm:
Tuổi, giới, chủng tộc, di truyền, địa lý. Có thể coi, tuổi, giới, tiền sử gia đình là
những yếu tố nhận dạng khá quan trọng, giúp chúng ta kiểm soát tích cực hơn
các yếu tố nguy cơ khác. Những nghiên cứu trong và ngoài nước đều đưa đến
kết luận TBMMN tăng theo tuổi và tăng vọt lên từ lứa tuổi 50 trở đi. Nam giới bị
TBMMN nhiều hơn nữ từ 1,5 đến 2 [7]. Nhóm có thể thay đổi được:
- Tăng huyết áp: Tăng huyết áp là nguy cơ hàng đầu trong cơ chế bệnh
sinh của TBMMN. Tăng huyết áp tâm thu, tâm trương hay cả tâm thu lẫn tâm
trương là yếu tố nguy cơ độc lập gây ra cả các loại TBMMN khi huyết áp tâm
thu (HATT) từ 160 mmHg trở lên và/hoặc huyết áp tâm trương (HATTr) từ 95
mmHg trở lên, tỉ lệ TBMMN ở người THA so với những người HA bình

thường sẽ tăng từ 2,9 lần (đối với nữ) và 3,1lần (đối với nam) [7], [15].
- Rối loạn Lipid máu: Mức độ HDL thấp (dưới 0,9mmol/l), mức độ cao
của Tryglycerid (trên 2,3mmo/l) cộng với sự tăng huyết áp sẽ tăng gấp đôi
nguy cơ TBMMN [7],[16]. Mới đây, một công trình tập hợp 10 năm nghiên
cứu về nguy cơ TBMMN ở những người có Cholesterol máu tăng cao trên
200mg/l đã cho thấy nguy cơ là 2,9. Nếu điều trị tốt có thể ngăn ngừa được
22.000 người trên 55 tuổi bị TBMMN ở nước Anh. Ở Nhật và Mỹ việc giảm
tỉ lệ chảy máu nội não được cho là có liên quan đến tăng Cholesterol máu [17].
- Béo phì là một yếu tố không trực tiếp gây TBMMN mà thông qua các
bệnh tim mạch. Có sự liên quan rất rõ rệt giữa béo phì, tăng huyết áp và sự đề
kháng Insulin.
- Các bệnh tim mạch: Rung nhĩ không có bệnh lý van tim, nhồi máu cơ
tim cấp, phì đại thất trái, bệnh tim do thấp, các tai biến do van tim giả là
nguyên nhân chủ yếu gây tắc mạch não từ tim. Tần suất và tính phổ biến của


rung nhĩ tăng theo tuổi, với mỗi khoảng 10 năm liên tục sau 55 tuổi tỷ lệ rung
nhĩ tăng gấp đôi [7], [17].
- Đái tháo đường: Là yếu tố nguy cơ gây ra tất cả các thể TBMMN [7],
[13],[17].
- Hút thuốc lá: Hút thuốc lá trực tiếp hay thụ động đều làm tăng nguy cơ
bệnh lý tim mạch và nhất là tùy thuộc số lượng hút kết hợp với thời gian hút.
Nguy cơ tương đối của TBMMN ở người hút thuốc lá nhiều (trên 40
điếu/ngày) gấp hai lần ở người hút thuốc lá ít (dưới 10 điếu /ngày).
- Rượu: Lạm dụng rượu (56 đến 70 gam rượu hàng ngày hoặc say quá
chén) sẽ làm tăng áp lực máu, tăng kết tập tiểu cầu, tăng đông máu, tăng mức
Triglycerid, cơn rung nhĩ kịch phát, bệnh cơ tim và liên quan đến sự gia tăng
của nguy cơ TBMMN (đặc biệt là thể chảy máu não) [7].
- Tiền sử bị tai biến thoáng qua: Nguy cơ xảy ra TBMMN sau cơn thiếu máu
thoáng qua là 10% trong năm đầu tiên, sau đó trong năm tiếp theo có tỷ lệ 5% [7].

Ngoài ra, còn có một số yếu tố khác cũng được xếp vào nhóm này như
sử dụng thuốc ngừa thai, lạm dụng thuốc và sử dụng thuốc gây nghiện, ít vận
động thể lực, hẹp động mạch cảnh chưa có triệu chứng [7],[13],[17].
1.2.2.6. Các xét nghiệm cận lâm sàng
- Các xét nghiệm thường quy
+ Xét nghiệm máu: Công thức máu, đông máu cơ bản, hóa sinh máu
(Glucose, Ure, Creatinin, định lượng Cholesterol –LDL, Cholesterol –HDL,
Cholesterol và Triglycerid, điện giải đồ, Enzyme Gan).
+ Chụp XQ tim phổi.
+ Ghi điện tim, siêu âm ổ bụng tổng quát.
+ Xét nghiệm nước tiểu.
- Các xét nghiệm chuyên biệt.
+ Chụp cắt lớp vi tính sọ não: Nên được làm, vì đây là một trong những


bước thiết yếu đầu tiên trong xử trí bệnh nhân đột quỵ não và giúp loại trừ
chảy máu não [18].
+ Chụp cộng hưởng từ não (MRI). Có thể cung cấp các thông tin cụ thể
về vị trí đột quỵ não, thời gian chảy máu não, và tình trạng nhu mô não [18].
+ Chụp cắt lớp vi tính mạch não (CTA): Thể cung cấp nhanh hình ảnh
toàn bộ động mạch não, và có thể chẩn đoán các hẹp mạch ở trong và ngoài
sọ, túi phình mạch não, hoặc các bóc tách mạch [18].
+ Siêu âm Doppler xuyên sọ: Có thể được thực hiện để phát hiện tình
trạng tắc nghẽn, tái thông, và tắc lại các động mạch não lớn trong sọ theo thời
gian [18].
+ Siêm âm động mạch cảnh: Để đánh giá tắc nghẽn hoặc hẹp động mạch
cảnh trong, cho thấy hướng dòng chảy của động mạch đốt sống [18].
+ Xét nghiệm dịch não tủy: Giúp chẩn đoán phân biệt giữa NMN và
chảy máu trong sọ. Nhồi máu não có dịch não tủy trong, các thành phần dịch
não tủy không thay đổi [18].

1.2.2.7. Chẩn đoán nhồi máu não
+ Lâm sàng: Tính chất xuất hiện đột ngột của các triệu chứng thiếu sót
thần kinh. Khái niệm đột ngột là từ vài phút đến vài ngày. Các triệu chứng
thần kinh ổ, rối loạn ý thức, cơn động kinh. Hỏi bệnh, hỏi về tiền sử bệnh tật,
đặc biệt là các bệnh có liên quan, các yếu tố nguy cơ. Chú ý phát hiện tiền sử
cơn thiếu máu não thoáng qua. Khám toàn thân đặc biệt là tim mạch [3],[4],
[7],[8].
+ Cận lâm sàng
- Chụp cắt lớp vi tính sọ não: Giúp chẩn đoán xác định nhồi máu não, vị
trí, tính chất của tổn thương não, nó cũng giúp chẩn đoán phân biệt với xuất
huyết não, u não...
- Các thăm dò cận lâm sàng khác:






Chụp cộng hưởng từ não.
Chụp động mạch não.
Các xét nghiệm một cách hệ thống.
1.2.2.8. Điều trị nhồi máu não
 Bốn thành tố trong chăm sóc thiếu máu não cục bộ cấp

- Điều trị cấp cứu và tối ưu hóa tình trạng thần kinh.
- Thực hiện quy trình chẩn đoán căn nguyên để dự phòng cấp II.
- Dự phòng suy thoái thần kinh hoặc các biến chứng nội khoa.
- Hồi phục và phục hồi chức năng.
 Điều trị nhồi máu não sau giai đoạn cấp


Sau giai đoạn cấp thường kết hợp nhiều phương pháp để điều trị như thuốc,
vật lý trị liệu, phục hồi chức năng, chế độ ăn uống, sinh hoạt và luyện tập.
a. Điều trị bằng thuốc
-

Thuốc chống ngưng tập tiểu cầu (Aspirin 81mg, Plavix 75mg, Aggrenox..).
Thuốc cải thiện tuần hoàn não, bảo vệ tế bào thần kinh (Cerbrolysin 10ml,

-

Citicoli 0,5g, Gliatilin...).
Điều trị các yếu tố nguy cơ và các bệnh kèm theo: Thuốc tăng huyết áp, rối

-

loạn Lipid máu, đái tháo đường, bệnh lý tim mạch...).
Các biến chứng nội khoa: Huyết khối tĩnh mạch sâu, viêm phổi do hít, nhiễm
trùng đường tiết niệu, loét do bất động lâu ngày, viêm khớp vai...) [19],[20],
[21],[22],[23].
b. Phục hồi chức năng sau giai đoạn cấp
Mục tiêu ban đầu của phục hồi chức năng là ngăn ngừa các biến chứng,
làm giảm mức tối thiểu các khiếm khuyết chức năng và tối đa hóa khả năng phục
hồi chức năng. Các ưu tiên của phục hồi chức năng đột quỵ não sớm là dự phòng
cấp II đột quỵ não, xử trí các bệnh nội khoa phối hợp và ngăn ngừa các biến
chứng. Các thành phần chính của phục hồi chức năng bao gồm: Điều trị rối loạn
ngôn ngữ, vật lý trị liệu, liệu pháp hoạt động, liệu pháp tâm lý – xã hội [11].
3

TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN


Trong YHCT không có bệnh danh TBMMN nói chung và NMN nói


riêng. Căn cứ vào triệu chứng lâm sàng và tính chất xuất hiện đột ngột như
trong giai đoạn cấp của YHHĐ thì YHCT xếp TBMMN vào chứng trúng
phong, giai đoạn sau cấp của YHHĐ với triệu chứng liệt nửa người nổi bật thì
YHCT xếp vào chứng bán thân bất toại [24].
1.3.1. Quan niệm nguyên nhân của chứng trúng phong
Trúng phong còn gọi là thất trúng (đột ngột), bệnh này phát ra gấp vội,
triệu chứng xuất hiện nhiều cách biến hóa giống với tính chất của phong: Dễ
lưu hành, biến đổi nhanh cho nên gọi là trúng phong. Bệnh nhân tối sầm ngã
ra, mê man, kiêm có chứng miệng mặt méo xệch, bán thân bất toại, nói không
thuận lời, có trường hợp không tối ngã mà chỉ mặt méo lệch, không cử động
là chủ chứng [25]. Trong Linh khu nói: “Hư tà xâm vào một phía người, xâm
vào sâu ở phía trong vinh vệ, vinh vệ hơi suy thì chân khí tán mất, tà khí đóng
lại phát thành chứng thiệt khô”, sách Tố Vấn nói: “Về dương khí, giận quá thì
hình khí tuyệt mà huyết dần lên trên làm cho người ta bị trúng phong”, sách
Kim quỹ yếu lược nói: “Kinh lạc trống rỗng, phong tà nhân chỗ hư xâm vào
trong và lấy tà trúng nông sâu, bệnh tình nặng nhẹ mà chia ra trúng lạc, trúng
kinh, trúng phủ, trúng tạng” [26]. Thầy thuốc gần đây đã có một số tổng kết
kinh nghiệm tiền nhân và kết hợp YHHD để tìm ra cơ chế phát sinh bệnh, đã
kết luận rằng chứng này phát sinh chủ yếu do can dương hóa phong, khí huyết
cùng nghịch lên, xông thẳng lên phạm vào não [26],[27].
- Nguyên nhân trúng phong theo YHCT
+ Chính khí suy hư: Người già cơ thể suy yếu, can thân âm hư, can
dương thịnh lên hoặc lo nghĩ phiền lao quá độ, khí huyết suy tổn, chân khí
hao tán hoặc vì giữ gìn không thích đáng, làm cho âm suy ở dưới, dương cang
bốc mạnh lên, dương hỏa phong động, khí huyết nghịch lên che mờ nguyên
thần, đột nhiên phát ra bệnh này [26].
+ Ăn uống không chừng độ: Do ăn uống không điều độ, trung khí suy

hư, tỳ không kiện vận, tụ thấp sinh đờm, đờm uất hóa nhiệt, trở trệ kinh lạc,


che mờ thanh khiếu bệnh nhân đột nhiên hôn mê, ngã ra, méo xệch không cử
động được [26].
+ Tổn thương về tình chí: Ngũ chí quá cực, đàm hỏa thịnh lên hoặc
người vốn âm hư, thủy không hàm mộc, lại vì tình chí tổn thương, can dương
động lên mạnh, dẫn động tâm hỏa, phong hỏa cùng bốc, khí huyết nghịch lên,
tâm thần tối mờ làm cho bỗng nhiên ngã lăn ra không biết gì [26].
+ Khí hư tà trúng vào: Khí huyết không đủ, mạch lạc trống rỗng,
phong tà nhân chỗ hư trúng vào kinh lạc, khí huyết bị trở tắc, cơ nhục gân
mạch mất sự nhu dưỡng hoặc người hình thịnh khí suy, đàm thấp vốn thịnh,
ngoại phong dẫn động đàm thấp, bế trở kinh lạc, làm cho méo xệch không
cử động [26].
1.3.2. Phân loại và điều trị trúng phong
1.3.2.1. Phân loại: Trúng phong chia làm hai loại
- Trúng phong kinh lạc: Không có sự thay đổi về thần chí, bệnh nhẹ. Triệu
chứng là chân tay tê dại, yếu nửa người, nói khó, rêu lưỡi trắng, mạch phù sác.
- Trúng phong tạng phủ: Bệnh xuất hiện đột ngột, liệt nửa người, có hôn
mê. Có hai chứng: Chứng bế, bệnh nhân đột nhiên hôn mê ngã ra, bất tỉnh
nhân sự, hàm răng mím chặt, miệng câm, hai tay nắm chặt, đai tiểu tiện không
được, chân tay mình mẩy cứng đờ, mạch huyền hoạt hoặc trầm hoạt. Chứng
thoát, đột nhiên hôn mê ngã ra, bất tỉnh nhân sự, mắt nhắm, miệng há, thở
nhỏ, tay xòe ra, chân tay lạnh, ra nhiều mô hôi, đại tiểu tiện són ra không
biết, chân tay liệt mềm, lưỡi liệt, mạch tế nhược hoặc mạch vi muốn tuyệt.
1.3.2.2. Điều trị
Trúng phong đựơc chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn cấp tính, giai đoạn
hồi phục, giai đoạn di chứng.
Giai đoạn cấp có ba trạng thái: Không có rối loạn ý thức, bệnh nhân tỉnh
táo, hôn mê nông, hôn mê sâu.



- Điều trị trường hợp không có rối loạn ý thức: Bệnh thường xuất hiện
khi bệnh nhân đang nghỉ ngơi, sau khi làm việc mệt mỏi hoặc sau khi ngủ
dậy. Phong tà trúng kinh lạc làm khí huyết bị trở ngại. Pháp chữa trừ phong,
dưỡng huyết thông kinh hoạt lạc. Bài thuốc “Đại tần giao thang” [28]. Hoặc
do can thận âm hư, phong dương nhiễu lên, hiệp với đàm chạy vào kinh lạc,
lạc mạch không thông gây nên miệng méo, mắt xếch, lưỡi cứng, khó nói, nửa
người không cử động. Pháp chữa tư âm tiềm dương, tức phong thông lạc. Bài
thuốc “Trấn can tức phong thang” [28].
- Điều trị trường hợp hôn mê nông: Thường do phong nhiệt nhiễu thanh
không, đàm thấp hoặc đàm nhiệt làm bế tắc tâm khiếu phong trúng tạng phủ
[28]. Người bệnh thường lúc tỉnh lúc mê, mặt đỏ, người nóng, hàm răng cắn
chặt, nằm không yên, thở thô, có nhiều đờm, đại tiểu tiên không thông, mạch
huyền sác. Pháp điều trị khai bế tỉnh thần. Bài thuốc “An cung ngưu hoàng
hoàn” [26], [28], [29]. Châm cứu chích nặn máu các huyệt Bách hội, Thập
tuyên để thanh nhiệt, hạ áp. Châm kích thích mạnh các huyệt Nhân trung,
Thập nhị tỉnh để khai khiếu tỉnh thần.
- Điều trị giai đoạn hôn mê sâu YHCT gọi là chứng thoát: Đột nhiên hôn
mê sâu, mắt mở, vã mồ hôi, chân tay lạnh, thở yếu, mạch vi muốn tuyệt. Pháp
điều trị hồi dương cố thoát. Bài thuốc “Sâm phụ thang gia vị”. Cứu huyệt
Thần khuyết, hoặc cứu huyệt Quan nguyên, Khí hải đến khi chân tay ấm, sờ
thấy mạch đập [26].
Phục hồi sau giai đoạn cấp: Sau giai đoạn cấp bệnh nhân hoặc tử vong,
hoặc hồi phục để lại di chứng như liệt nửa người, miệng méo, mắt xếch, nói khó.
YHCT kết hợp dùng thuốc và châm cứu, xoa bóp bấm huyệt phục hồi di chứng
đạt hiệu quả cao. Các phương pháp trên đều có tác dụng cơ bản là điều hòa lại sự
mất cân bằng âm dương, làm cho kinh mạch, khí huyết được lưu thông, giúp cơ
thể được khỏe mạnh chống lại tác nhân gây bệnh, phục hồi di chứng.



Điều trị chứng trúng phong sau giai đoạn cấp bằng thuốc YHCT.
+ Thể khí hư huyết ứ: Liệt nửa người, liệt mặt cùng bên, có nói ngọng
hoặc không, song trước khi xảy ra hôn mê thường có dấu hiệu báo động như:
rối loạn cảm giác, nói khó, triệu chứng liệt khởi đầu từ từ, giai đoạn toàn phát
có thể hôn mê vừa và nhẹ hoặc không hôn mê. Bài thuốc “Bổ dương hoàn ngũ
thang” [26], [27].
+ Thể can thận âm hư: liệt nửa người, nửa mặt dưới cùng bên, tay chân
bên liệt tê dại, hay hoa mắt, chóng mặt, mạch huyền tế sác.
Bài thuốc Lục vị gia giảm [27].
+ Thể do phong đàm: Liệt nửa người kèm theo nửa mặt dưới cùng bên, tay
chân tê dại, nặng nề, lưỡi cử động khó, có nói ngọng hoặc không, rêu lưỡi trắng
dầy, nhớt, mạch phù hoạt hoặc huyền hoạt.
Bài thuốc Thiên ma câu đằng ẩm [27].
Điều trị chứng trúng phong sau giai đoạn cấp bằng phương pháp
không dùng thuốc.
+ Điều trị trúng phong bằng châm cứu
- Phác đồ của Bộ Y tế ban hành: Bách hội, Đại chùy, Kiên tỉnh,Tý nhu,
Khúc trì, Thủ tam lý, Chi câu, Ngoại quan, Hợp cốc, Quyền liêu, Hạ quan,
Địa thương, Giáp xa, Liêm tuyền, Ngoại kim tân, Ngoại ngọc dịch, Hoàn
khiêu, Trật biên, Ân môn, Thừa phù, Dương lăng tuyền, Túc tam lý, Thượng
cự hư, Giải khê, Tam âm giao, Giáp tích C4-C7, D12-L5 [30],[31].
- Phác đồ huyệt do Giáo sư Trần Thúy đưa ra: Bách hội, Phong phủ,
Phong trì, Thái dương, Đầu duy, Đại chùy, Kiên ngung, Khúc trì, Thủ tam lý,
Dương trì, Hợp cốc, Dương lăng tuyền, Hoàn khiêu, Thân mạch, Tuyệt cốt,
Côn lôn, Âm lăng tuyền, Thái xung, Giải khê [32].
+ Điều trị trúng phong bằng xoa bóp bấm huyệt
Mục đích tăng cường dinh dưỡng, chống teo cơ, cứng khớp, giúp nhanh



chóng phục hồi chức năng vận động nửa người bên liệt [33]. Bao gồm xoa bóp,
vận động, bấm huyệt vùng đầu mặt, khớp vai, chi trên, chi dưới bên liệt.
1.4. SƠ LƯỢC VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐÀU CHÂM

1.4.1. Sơ lược về phương pháp Đầu châm theo Y học hiện đại
1.4.1.1. Khái niệm
Đầu châm là một phương pháp kết hợp YHHĐ và YHCT, nhưng dựa vào
lý luận thần kinh của YHHĐ, trên cơ sở sự tương ứng giữa các bộ phận da
đầu và các vùng chức năng ở vỏ não. Châm các bộ phận da đầu tương ứng với
các vùng chức năng ở vỏ não làm cho tế bào vỏ não bị kích thích phát sinh tác
dụng phóng ra các xung động dẫn truyền tới cơ thể hoặc cơ quan nội tạng do
vỏ não chi phối. Từ đó các bộ phận bị ức chế hoặc tổn hại khôi phục được
công năng sinh lý bình thường.
1.4.1.2. Cơ sở sinh lý - giải phẫu để phân khu
Theo Atlat giải phẫu người vỏ não được chia thành các trung khu có
khả năng điều khiển chi phối hoạt động của các vùng khác [34].
Trên sơ đồ ta thấy phần vỏ não chi phối vận động tay và chân chủ yếu ở
vùng đỉnh.
Từ góc độ điện sinh lý, đầu là một thể dẫn điện dung tích lớn châm vùng
đầu có thể tạo ra các dòng điện sinh học lan truyền đến não, từ đó cải biến
tính hưng phấn của các tế bào vỏ não làm cho các tế bào thần kinh bị ức chế
trong quá trình NMN, phù não được giải phóng, phục hồi tính hưng phấn và
khả năng trao đổi chất của tế bào thần kinh.


Hình 1.3. Sơ đồ phân khu của vỏ não [34]

Hình 1.4. Các vùng của vỏ não [34]
Trong phương pháp Đầu châm có 2 đường quan trọng nhất trên cơ sở của 2
đường này mà người thầy thuốc xác định được những vùng châm ở đầu.

- Đường 1: chính giữa trước sau (đường dọc giữa đầu nối từ điểm giữa 2
cung lông mày đến đáy hộp sọ).


- Đường 2: tuyến mi chẩm (đường nối từ giữa cung lông mày đến đáy
hộp sọ, đi qua mí tóc trán và loa tai).

Hình 1.5. Cách xác định Đường 1 và Đường 2
1.4.1.3. Sự phân chia các vùng kích thích trên da đầu và tác dụng điều trị
* Vùng vận động: là đường chạy theo mặt bên của đầu, đường này được
xác định bởi:
+ Điểm cách điểm giữa tuyến 0,5 cm về phía sau.
+ Điểm dưới là giao điểm của chân tóc trán với đường 2.
Vùng vận động chia làm 5 phần:
1/5 trên: vùng chi dưới
2/5 giữa: vùng chi trên
2/5 dưới: vùng mặt
Tác dụng: điều trị liệt những vùng tương ứng ở bên đối diện. Đoạn 2/5
dưới điều trị được thất ngôn kiểu vận động, phát âm khó, chảy nước dãi.

Hình 1.6. Vùng vận động


* Vùng cảm giác: đường chạy song song với vùng vận động và cách phía
sau 1,5 cm. Đường này cũng chia 3 đoạn:
1/5 trên: vùng chi dưới
2/5 giữa: vùng chi trên
2/5 dưới: vùng mặt
Tác dụng điều trị những trường hợp đau tê nhức, dị cảm ở những vùng
tương ứng bên đối diện.

* Vùng thất điều và run: đường song song với đường vận động cách
1,5cm về phía trước. Điều trị thất điều ở trẻ em, Parkinson.
* Vùng vận mạch: đường song song với đường vận động và cách 3 cm
về phía trước.
Điều trị các trường hợp phù chi trong liệt trung ương.
* Vùng tiền đình ốc tai: một đoạn nằm ngang dài 4 cm từ đỉnh loa tai lên
1,5 cm là điểm giữa, từ đây kéo ra trước 2 cm, ra sau 2 cm.
Tác dụng: điều trị chóng mặt, giảm thính lực.
* Vùng ngôn ngữ 2: Vị trí là đường song song với đường dọc giữa đầu và dài
3cm. Điểm bắt đầu của đường này nằm dưới khớp xương đỉnh thái dương 2cm.
Tác dụng: điều trị thất ngôn kiểu vận động.
* Vùng ngôn ngữ 3: Từ điểm giữa của vùng tiền đình ốc tai, kéo ra sau
4cm, có thể xem đây là đoạn kéo dài của vùng tiền đình ốc tai.
Tác dụng điều trị thất ngôn kiểu cảm giác.
* Vùng tâm thể vận động: vị trí từ rãnh đỉnh thái dương, kẻ một đường
thẳng đứng và 2 đường nghiêng, tạo thành góc 400, có 2 đường mới mỗi
đường dài 3 cm.
Tác dụng: điều trị chứng ý thức và vận động không phù hợp.
* Vùng vận cảm ở chân: là đường song song với đường giữa và cách
đường giữa 1 cm. Điểm bắt đầu của vùng này tương ứng với điểm trên của
khu cảm giác kéo ra sau 1 cm.


Tác dụng: đau, liệt nặng chi dưới bên đối diện, đau vùng thắt lưng, sa tử
cung, tiểu nhiều do nguồn gốc trung ương.
* Vùng thị giác: xuất phát từ 2 điểm nằm trên đường ngang qua ụ chẩm
1cm và cách đường giữa 1 cm kéo dài lên trên 4 cm.
Tác dụng: điều trị rối loạn thị giác có nguyên nhân vỏ não.
* Vùng thăng bằng: lấy 2 điểm nằm trên đường ngang qua ụ chẩm, cách
đường giữa 3,5 cm, kéo xuống dưới 4 cm thành 1 đường thẳng.

Tác dụng: điều trị rối loạn thăng bằng.
1.4.2. Sơ lược về phương pháp Đầu châm theo Y học cổ truyền
Đầu châm được phát triển dựa trên học thuyết kinh lạc của YHCT, có rất
nhiều kinh lạc và mạch lạc đi qua vùng đầu. Đường đi của các kinh mạch sau
có quan hệ mật thiết với vùng đầu: [32],[35].
- Kinh Túc Dương minh Vị
- Kinh Túc Thái dương Bàng quang
- Kinh Thủ Thái dương Tam tiêu
- Kinh Túc Thiếu dương Đởm
- Kinh Túc Quyết âm Can
- Các mạch: mạch Đốc, mạch Dương kiểu, mạch Dương duy.
Kinh khí trong cơ thể thông qua kinh lạc liên hệ với đầu. YHCT cho rằng
“đầu là phủ của thần minh”. Kinh khí của ngũ tạng lục phủ đều tụ ở đầu.
Có thuyết nói “đầu người ta là nơi tụ họp của các kinh dương; mạch đốc
thống quản các kinh dương và mạch nhâm chịu trách nhiệm về các kinh âm.
Cả hai đều đi qua bộ phận đầu và mặt. Từ góc độ tuần hoàn kinh lạc 6 kinh
dương và kinh túc quyết âm đều lên đầu, 5 kinh âm khác đều thông qua lạc
mạch liên hệ với đầu. Mạch Đốc trong kỳ kinh bát mạch đốc thúc dương khí
toàn thân cũng chạy vòng quanh đầu. Do đó, đầu và toàn thân có quan hệ hữu
cơ chặt chẽ”.


Thiên “mạch yếu tinh vi luận” sách Tố Vấn viết: “đầu giả tinh minh chi
phủ” có nghĩa “tinh khí ngũ tạng của lục phủ đều đi lên đầu” nói rõ mối quan
hệ mật thiết giữa đầu và toàn thân.
Còn có thuyết nói “người ta có trí nhớ nhờ vào não” giúp ta thấy cụ thể
phần quan trọng của não đối với hoạt động tinh thần, đối với thất tình (hỷ, nộ,
ưu, tư, bi, khủng, kinh) là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra bệnh
nội thương. Mừng rỡ quá làm thương tổn tâm, giận dữ quá làm thương tổn
can, kinh hãi quá làm thương tổn thận…[32].

Kinh nghiệm thực tế trên lâm sàng đã chứng minh rằng phương pháp
châm đầu điều trị một số bệnh thuộc hệ thần kinh và một số bệnh về nội tạng
thu được kết quả tương đối cao.
1.4.3. Tình hình nghiên cứu về phương pháp Đầu châm trong nước và
trên thế giới
* Quá trình phát triển của Đầu châm
Đầu châm điều trị trúng phong tại vùng kích thích và có tác dụng đặc
biệt, từ lâu đã được nhiều học giả chú ý. Giáo sư Giao ở viện nghiên cứu
trung y trung quốc đề xuất kích thích vùng vận động và cảm giác bị tổn
thương có thể điều trị bán thân bất toại và rối loạn cảm giác nửa người. Năm
1979 viện nghiên cứu trung y Trung Quốc phát hiện châm các huyệt Bách hội,
Chính doanh, Huyền so điều trị bán thân bất toại thu dược kết quả tốt. Năm
1980 Giáo sư Trang nghiên cứu “vùng ưu tiên” đề xuất vùng đặc biệt “vùng
vận động” không chỉ hạn chế ở hồi trước trung tâm đại não. Giáo sư Lâm đề
xuất điều trị bán thân bất toại không chỉ chọn vùng vận động mà nên đồng thời
chọn cả vùng cảm giác. Ông đề xuất không nên xem đại não như một tập hợp
các vùng chức năng riêng biệt mà nên coi là một chỉnh thể các vùng chức năng
có liên hệ chặt chẽ với nhau. Có nghiên cứu cho thấy vùng kích thích vận động
có hình thoi trước là huyệt Thần đình, sau là Bách hội, hai bên là huyệt Khúc sai.


Tháng 6 năm 1984 tại Tôkyo Nhật Bản nhóm công tác của WHO khu vực Tây
Thái Bình Dương đã thông qua “Tiêu chuẩn hóa huyệt vị Đầu châm” và từ năm
1989 đã được WHO công bố rộng rãi. Đây là cơ sở để phương pháp Đầu châm
phát triển rộng rãi trên toàn thế giới [35],[36].
* Một số công trình nghiên cứu về Đầu châm trên thế giới
- Bao F, Wang DH, Zhang YX, Wang FQ SunH (2008) tại bệnh viện đại học
Y Bắc Kinh nghiên cứu so sánh hiệu quả Đầu châm và Đầu châm kết hợp thể
châm trên bệnh nhân nhồi máu não do xơ vữa mạch giai đoạn cấp cho kết quả:
Hiệu quả điều trị bằng Đầu châm kết hợp thể châm tốt hơn thể châm đơn thuần. [37]

- Zhou L, Zhang HX và cộng sự (2008) tại Bệnh viện Y học cổ truyền
kết hợp Y học hiện đại Vũ Hán Trung quốc nghiên cứu hiệu quả Đầu châm
trên hàm lượng TNF alpha và IL-Beta não và huyết tương ở chuột gây thiếu
máu cấp chi kết quả giảm hàm lượng TNF alpha, IL-Beta ở não và huyết
tương chuột, làm giảm đáng kể hiện tượng thâm nhiễm tế bào viêm [38].
Trong nước có nghiên cứu của Quan Đông Hoa năm 1992 Điều trị phục
hồi di chứng liệt nửa người do tai biến mạch máu não bằng phương pháp
châm đầu và kích thích điện cho kết quả tốt [39].
Năm 2010 Vũ Thị Hải Yến nghiên cứu đánh giá tác dụng phục hồi vận
động ở bệnh nhân NMN bằng thể châm, thuốc YHCT kết hợp với Đầu châm
cho thấy độ liệt được cải thiện tốt [40].
1.5. TỔNG QUAN BÀI THUỐC “HUYẾT PHỦ TRỤC Ứ THANG”

1.5.1. Xuất xứ, cấu tạo bài thuốc
“Huyết phủ trục ứ thang” là bài thuốc cổ phương có nguồn gốc từ
sách “Y lâm cải thác” của Vương Thanh Nhậm – một danh y Trung Quốc
đời nhà Thanh chuyên điều trị chứng huyết ứ [41]. Toàn bộ phương thuốc
có tác dụng hoạt huyết khứ ứ, lý khí chỉ thống, giải trừ uất kết ở khí phận.
Bài thuốc lấy hóa ứ làm chủ đạo, lý khí là bổ trợ, tức là dùng thuốc hành


khí trong nhóm hoạt huyết. Đương quy, Đào nhân, Hồng hoa hoạt huyết
hóa ứ làm chủ dược; Xuyên khung, Xích thược hoạt huyết, hóa ứ; Sinh địa
phối hợp với Đương Quy dưỡng huyết hòa âm; Ngưu tất hoạt huyết thông
mạch; Sài hồ, Chỉ xác, Cát cánh sơ thông khí trệ, giúp thông mạch hoạt lạc;
Cam thảo điều hòa các vị thuốc [42].
1.5.2. Thành phần bài thuốc
Bài thuốc bao gồm 11 vị: Đào nhân, Hồng hoa, Xuyên khung, Đương
quy, Ngưu tất, Sinh địa, Xích thược, Sài hồ, Chỉ xác, Cát cánh, Cam thảo.
+ Đào nhân (Semen Persicae)

Bộ phận dùng là nhân hạt sấy khô của cây Đào Prunus persica, họ hoa
hồng (Rosaceae). Thành phần hóa học chứa hơn 50% là dầu, ngoài ra còn có
3,5% amygdalin ít tinh dầu, men Emusin. Tác dụng dược lý ức chế ngưng tập
tiểu cầu, tăng lưu lượng máu, làm hạ mỡ máu, bảo vệ tế bào gan, tác dụng
chống viêm kháng khuẩn, giảm đau.
Vị đắng ngọt, tính bình quy vào hai kinh tâm và can.Tác dụng phá huyết
hành ứ, nhuận táo, hoạt trường. Chữa huyết ứ, huyết bế, chữa ho, thông kinh
nguyệt sát trùng. Liều lượng 6-12 g/ngày [43].
+ Hồng hoa (Flos Carthami)
Bộ

phận dùng hoa phơi hay sấy khô của cây Hồng hoa

Carthamustinctorius, họ cóc (Asteraceae). Thành phần hóa học chứa 0,3 ÷ 0,6%
chất Carthamin khi thủy phân sẽ cho glucoza và carthamidin.Tác dụng dược lý
ức chế ngưng tập tiểu cầu, làm tăng hưng phấn nhẹ cơ tim, tăng lưu lượng mạch
vành, làm hạ mỡ máu, tăng miễn dịch, tăng hàm lượng kháng thể, tăng hoạt
động thực bào.
Vị cay ấm, vào hai kinh tâm và can. Tác dụng hoạt huyết thông kinh, hóa
ứ chỉ huyết. Chữa kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh đặc biệt điều trị chứng
huyết ứ. Liều dùng 6 ÷ 12g/ngày [43].


×