Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Giải pháp đáp ứng nhu cầu đi du lịch cho sinh viên bộ môn du lịch, trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, đại học quốc gia thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 55 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN DU LỊCH
------------

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN

GIẢI PHÁP ĐÁP ỨNG NHU CẦU ĐI DU LỊCH CHO
SINH VIÊN BỘ MÔN DU LỊCH,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN,
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nhóm tác giả:
Lê Văn Toàn
Võ Thị Thanh Hằng
Hoàng Thị Trang
Nguyễn Ngọc HạMy
Võ Nhật Trường
Lớp: 1720DAI03302

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 2018


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................3
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..........................................................................4
3. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................6
4. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................6
5. Mẫu khảo sát ........................................................................................................6


6. Câu hỏi nghiên cứu ..............................................................................................7
7. Giả thuyết nghiên cứu ..........................................................................................7
8. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................7
9. Kết cấu của đề tài .................................................................................................8
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................9
CHƯƠNG 1. THỰC TRẠNG NHU CẦU ĐI DU LỊCH CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐẠI HỌC QUỐC
GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...........................................................................9
1.1. Tổng quan về nhu cầu đi du lịch .......................................................................9
1.2. Khái quát về nhu cầu đi du lịch của sinh viên ................................................15
CHƯƠNG 2. NHU CẦU VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NHU CẦU ĐI DU
LỊCH CỦA SINH VIÊN BỘ MÔN DU LỊCH, TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
...................................................................................................................................19
2.1. Khái quát về nhu cầu đi du lịch của sinh viên Bộ môn Du lịch, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh .19
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu đi du lịch của sinh viên Bộ môn Du lịch,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh ................................................................................................................20

[1]


2.2. Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu đi du lịch của sinh viên Bộ môn
Du lịch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh ...................................................................................................31
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÁP ỨNG NHU CẦU ĐI DU LỊCH CỦA SINH
VIÊN BỘ MÔN DU LỊCH, TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN, ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ....................33
3.1. Xây dựng mô hình “Bạn đồng hành du lịch”..................................................33

3.2. Thành lập Câu lạc bộ “Sinh viên Du lịch” .....................................................35
3.3. Thiết kế website “Easy Travelling” ................................................................37
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 42

[2]


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn và đang dần khẳng định vị trí trên trường quốc tế. Bên cạnh đó
đời sống văn hóa xã hội của người dân ngày càng được nâng cao, họ không
những cần đầy đủ về nhu cầu vật chất mà còn mong muốn thỏa mãn về nhu cầu
tinh thần như vui chơi, giải trí và du lịch. Thực tế hiện nay, du lịch đang trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta, đóng góp một phần GDP không nhỏ vào nền
kinh tế quốc dân. Theo Tổng cục Du lịch Việt Nam, tính đến năm 2017, nước ta
đã thu hút hơn 12 triệu lượt khách quốc tế, tăng 29,1% so với năm 2016 1. Do vậy,
đi du lịch trở thành một nhu cầu tất yếu của con người trong xã hội hiện đại ngày
nay. Đối với sinh viên, nhu cầu đi du lịch cũng rất quan trọng, giúp họ giải tỏa áp
lực sau những tiết học căng thẳng, đồng thời khám phá về thế giới xung quanh.
Nói đến việc đào tạo nhân lực du lịch và hướng tới hội nhập thị trường
khu vực ASEAN, Bộ môn Du lịch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những cơ sở uy tín
hàng đầu trong việc đào tạo cử nhân ngành Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành.
Do đó, sinh viên Bộ môn sẽ được rèn luyện kĩ năng tư duy, kĩ năng giao tiếp, biết
thích ứng với môi trường làm việc áp lực cao. Trong suốt bốn năm đào tạo, sinh
viên được tham gia các chuyến thực tập thực tế với mục đích tiếp cận các nhân tố
có liên quan đến hoạt động du lịch, từ đó đưa ra những đề xuất trong các bài báo
cáo tổng kết.
Bàn về nhu cầu đi du lịch đối với sinh viên Bộ môn Du lịch, Trường Đại

học Khoa học Xã hội Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
chúng tôi nhận ra điều đó thực sự cần thiết. Họ cũng là những người có tri thức,
có đời sống tinh thần phong phú và mong muốn ngày càng được trau dồi, hoàn
thiện bản thân mình nhiều hơn. Hơn thế nữa, sinh viên Bộ môn Du lịch là nguồn
nhân lực tiềm năng cho ngành du lịch nước nhà trong tương lai. Do đó, nhu cầu
được di chuyển đến các tuyến điểm cũng như trải nghiệm dịch vụ từ các sản
www.vietnamtourism.com, Tổng cục Du lịch Việt Nam, Khách quốc tế đến Việt Nam
tháng 12 và cả năm 2017, 02/01/2018.
1

[3]


phẩm du lịch cho sinh viên Bộ môn Du lịch là cần thiết hơn bao giờ hết. Sinh viên
học ngành Du lịch không chỉ đi để thỏa mãn nhu cầu giải trí cá nhân mà còn đi để
tiếp nhận kiến thức thực tế phục vụ quá trình học tập chuyên ngành. Từ những
trải nghiệm trên chuyến đi, họ có thể sáng tạo thêm những sản phẩm du lịch mới
mẻ trên quan điểm của một người hoạt động trong ngành “công nghiệp không
khói”. Tuy nhiên, hiện trạng chung của sinh viên Bộ môn Du lịch hiện nay vẫn
chưa sắp xếp được thời gian và điều kiện tài chính để có thể đi du lịch. Họ chỉ
được tiếp cận với các chương trình du lịch thông qua những chuyến thực tập thực
tế hằng năm đã lên kế hoạch từ Bộ môn. Chính vì lí do trên nhu cầu đi du lịch của
sinh viên Bộ môn vẫn chưa được đáp ứng một cách chủ động. Họ vẫn còn gặp
nhiều khó khăn trong việc thực hiện hóa những chuyến đi của riêng mình.
Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng tôi chọn “Giải pháp đáp ứng nhu cầu đi
du lịch cho sinh viên Bộ môn Du lịch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu
khoa học với mong muốn đề xuất giải pháp đáp ứng nhu cầu đi du lịch cho sinh
viên Bộ môn Du lịch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong quá trình thu thập dữ liệu, chúng tôi đã tiếp cận với một số công
trình và tài liệu có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề nghiên cứu.
“Nhập môn khoa học Du lịch” của Trần Đức Thanh (in lần thứ tư, năm 2005) là
một trong những tài liệu cần thiết đối với sinh viên ngành Du lịch. Những khái
niệm cơ bản như: lịch sử hình thành và phát triển của ngành Du lịch, động cơ và
các loại hình du lịch, điều kiện để phát triển du lịch, tính thời vụ trong du lịch,
nhu cầu du lịch, các yếu tố ảnh hưởng đến du lịch v.v…
Tương tự, “Giáo trình Kinh tế du lịch” của Nhà xuất bản Lao động – Xã
hội do Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa đồng chủ biên (trực thuộc trường
Đại học Kinh tế Quốc dân) cũng đề cập đến những kiến thức nền tảng trong du
lịch nhưng ở một góc nhìn khác. “Giáo trình Xã hội học đại cương” (năm 2011
của nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) của Tạ Minh cũng
là một tài liệu tham khảo về khái niệm nhu cầu và tháp nhu cầu của Maslow.
[4]


Đinh Tiên Minh với “Giáo trình Marketing căn bản” cũng có khai thác sâu hơn
về định nghĩa nhu cầu và nhu cầu du lịch ở khía cạnh Marketing. Ngoài ra, nhóm
sinh viên Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh đã hoàn thành một đề tài nghiên cứu cho môn học “Lý thuyết Thống kê”
liên quan đến nhu cầu đi du lịch của sinh viên. Đó là đề tài “Khảo sát nhu cầu đi
du lịch, dã ngoại của sinh viên làng Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh”.
Có thể nói, đây là đề tài có cách tiếp cận vấn đề tương tự với đề tài mà chúng tôi
đang nghiên cứu (về phương pháp, mục đích nghiên cứu và ý nghĩa khoa học).
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu lại tập trung vào việc khảo sát và thu thập số liệu
về nhu cầu đi du lịch và dã ngoại của sinh viên làng Đại học mà chưa phân tích
nguyên nhân cụ thể cũng như chưa đưa ra giải pháp thiết thực để giải quyết vấn
đề đó. Hơn nữa, có một thực tế là phần lớn những nguồn tài liệu đó đều được viết
dưới hình thức là giáo trình nhằm trang bị cho sinh viên những mảng kiến thức

riêng lẻ ở từng học phần trong chương trình đào tạo. Đó chưa phải là dạng tài liệu
nghiên cứu thực tiễn tình hình cũng như nghiên cứu chuyên sâu về nhu cầu đi du
lịch của con người nói chung và sinh viên nói riêng.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng thu thập được một số tài liệu liên quan đến
sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh. Đầu tiên, đề tài nghiên cứu về “Thực trạng sử dụng tiếng Anh
xen lẫn tiếng Việt của sinh viên khoa Ngữ văn Anh khoá 15, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh” đã đi sâu
nghiên cứu về mức độ nhận thức của sinh viên khoa Ngữ văn Anh khoá 15,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh về hiện tượng sử dụng tiếng Anh xen lẫn tiếng Việt trong giao tiếp hằng
ngày. Để thực hiện được mục tiêu ấy, nhóm sinh viên nghiên cứu đã giải quyết ba
vấn đề. Vấn đề thứ nhất, người đọc sẽ nhận được những hiểu biết chung thế nào là
xen lẫn ngôn ngữ Anh- Việt. Vấn đề thứ hai, thực trạng đó đang xảy ra như thế nào
với đối tượng nghiên cứu. Cuối cùng, nhóm tác giả đã đưa ra những giải pháp và
kiến nghị. Tiếp theo, chúng tôi tiếp cận một tài liệu có đối tượng nghiên cứu khác
liên quan tới “Thực trạng tự học của sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chi Minh”. Mục tiêu nghiên cứu
của bài viết tường minh thực trạng tự học của sinh viên Bộ môn Lưu trữ học và
[5]


Quản trị văn phòng, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, sinh viên còn biết được các phương
pháp và tầm quan trọng của việc tự học thông qua nghiên cứu đề tài. Đồng thời,
sinh viên Bộ môn có thể chọn ra phương pháp tự học tốt nhất cho bản thân mình
để đem lại kết quả tốt nhất và tiết kiệm thời gian, chi phí học tập. Cuối cùng, một
tài liệu khác mà chúng tôi tiếp cận được có liên quan đến khách thể nghiên cứu là
công trình “Thực trạng sử dụng thư viện của sinh viên Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh” của nhóm sinh

viên Khoa Địa lý. Đề tài được thực hiện với mục đích nâng cao ý thức của sinh
viên trong việc sử dụng thư viện trường sao cho hợp lí.
So với những đề tài nói trên, đề tài mà nhóm tác giả lựa chọn để khai thác
thể hiện tính mới. Những đề tài khác tuy rất thiết thực đối với sinh viên nhưng nó
chỉ tập trung vào việc khai thác các hiện trạng mà chưa đem đến giải pháp cần
thiết, cụ thể có tính chiều sâu. Chúng tôi mang đến đề tài này với nhằm mục đích
sinh viên, đặc biệt là sinh viên chuyên ngành Du lịch có thể vừa có cơ hội học tập,
vừa có thể ứng dụng vào hoạt động giải trí sau giờ học.
Trên cơ sở đó, chúng tôi kế thừa và tiếp tục nghiên cứu nhằm đưa ra giải
pháp đáp ứng nhu cầu đi du lịch của sinh viên bộ môn Du lịch, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất giải pháp đáp ứng nhu cầu đi du lịch cho sinh viên Bộ môn Du
lịch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Phạm vi thời gian: Từ tháng 2/2018 đến tháng 4/2018
5. Mẫu khảo sát
Sinh viên Bộ môn Du lịch khóa 2016-2020 và khóa 2017-2021, Trường
[6]


Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh
6. Câu hỏi nghiên cứu
Làm thế nào để đáp ứng nhu cầu đi du lịch cho sinh viên Bộ môn Du lịch,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ
Chí Minh?

7. Giả thuyết nghiên cứu
Để đáp ứng nhu cầu đi du lịch, sinh viên Bộ môn Du lịch, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh cần
phải:
-

Xây dựng mô hình “Bạn đồng hành du lịch”

-

Thành lập câu lạc bộ “Sinh viên Du lịch”

-

Thiết kế website và sổ tay “Easy Travelling”

8. Phương pháp nghiên cứu
Để chứng minh cho giả thuyết nghiên cứu, nhóm chúng tôi sử dụng 02
phương pháp nghiên cứu cơ bản. Đó là: phương pháp nghiên cứu tài liệu và
phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
-

Phương pháp nghiên cứu tài liệu là để thu thập những thông tin sau: cơ sở
lý thuyết liên quan đến chủ đề nghiên cứu, thành tựu lý thuyết đã đạt được
liên quan đến chủ đề nghiên cứu, kết quả nghiên cứu của đồng nghiệp đã
công bố trên các ấn phẩm, chủ trương và chính sách liên quan đến nội
dung nghiên cứu, số liệu thống kê2. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
nghiên cứu các tài liệu về đối tượng nghiên cứu là “nhu cầu đi du lịch” và
khách thể nghiên cứu “sinh viên Bộ môn Du lịch, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh”.


-

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là một cuộc phỏng vấn, nhưng không
đối thoại trực tiếp bằng lời, mà bằng cách đưa những câu hỏi in sẵn trên

Vũ Cao Đàm (2012), Giáo trình phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam, trang 77.
2

[7]


giấy, gửi trước đến những người được phỏng vấn để nhận được ý kiến trả
lời theo những câu hỏi mà người nghiên cứu đặt ra3. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi tiến hành phát 50 bảng hỏi cho sinh viên Bộ môn Du lịch
khóa 2016-2020 và 50 bảng hỏi cho sinh viên Bộ môn Du lịch khóa 20172021.
9. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
bài báo cáo nghiên cứu khoa học sinh viên của nhóm chúng tôi được kết cấu
thành 3 chương và 8 tiết.

Vũ Cao Đàm (2012), Giáo trình phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam, trang 89.
3

[8]


PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. THỰC TRẠNG NHU CẦU ĐI DU LỊCH CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐẠI HỌC
QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1. Tổng quan về nhu cầu đi du lịch
1.1.1. Định nghĩa về nhu cầu của Maslow
Trong lĩnh vực tâm lý học, có rắt nhiều thuyết khác nhau nghiên cứu về nhu
cẩu của con người. Trong đó phổ biến và có tính xác thực nhất là “Lý thuyết về nhu
cầu của Maslow”.

Cấu trúc của “Tháp nhu cầu” có 5 tầng, trong đó, những nhu cầu con người
được liệt kê theo một trật tự thứ bậc hình tháp kiểu kim tự tháp. Những nhu cầu cơ
bản ở phía đáy tháp phải được thoả mãn trước khi nghĩ đến các nhu cầu cao hơn.
Các nhu cầu bậc cao sẽ nảy sinh và mong muốn được thoả mãn ngày càng mãnh liệt
khi tất cả các nhu cầu cơ bản ở dưới (phía đáy tháp) đã được đáp ứng đầy đủ. 5 tầng
trong “Tháp nhu cầu của Maslow”:
Tầng thứ nhất: Nhu cầu sinh lý (physiological) - thức ăn, nước uống, nơi trú
ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi.

[9]


Tầng thứ hai: Nhu cầu an toàn (safety) - cần có cảm giác yên tâm về an toàn
thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.
Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc
(love/belonging) - muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình
yên ấm, bạn bè thân hữu tin cậy.
Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng, tôn trọng (esteem) - cần có cảm giác
được tôn trọng, kinh mến, được tin tưởng.
Tầng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân (self-actualization) - muốn
sáng tạo, được thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có được và

được công nhận là thành đạt.
Những nhu cầu trong “Tháp nhu cầu Maslow” cho ta thấy rằng ở mỗi cấp độ
cao hơn, nhu cầu của con người càng trở nên đa dạng hơn. Bắt đầu từ những nhu
cầu cơ bản, đáp ứng được yếu tố vật chất thì càng lên cao, những nhu cầu đó lại
thiên về phương diện thỏa mãn yếu tố tinh thần. Tuy nhiên, nói như thế không có
nghĩa là khi nhu cầu mới được nảy sinh thì người ta phủ nhận và có thể bỏ qua
những nhu cầu thấp (cũ) hơn. Tất cả những nhu cầu đó đều có mối quan hệ tương
hỗ với nhau nhằm đảm bảo một cuộc sống hoàn thiện. Lấy ví dụ như con người
không thể thỏa mãn nhu cầu tự hoàn thiện mà không đảm bảo được nhu cầu đảm
bảo tính mạng hoặc không được đáp ứng những nhu cầu về sinh lý (không thể
không ăn, không uống được)…
Do sự phát triển không ngừng của xã hội, nhu cầu của con người ngay càng
trờ nên phong phú, đa dạng hơn, do vậy về sau Maslow đã bổ sung thêm hai thang
bậc nhu cầu hoàn thiện, đó là: Nhu cầu về thẩm mỹ, cảm nhận cái đẹp; Nhu cầu
hiểu biết.
Tuy nhiên, theo Giáo sư Hellmut Schette trường kinh doanh INSEAD
(Pháp), các nhu cầu trong bậc thang MasIow chỉ phản ánh những giá trị trong văn
hoá phương Tây. Ông cho rằng nhu cầu “tự khẳng định mình” (đề cao chủ nghĩa cá
nhân trong văn hoá phương Tây) sẽ không được chấp nhận như nhu cầu cao nhất
trong các xã hội châu Á vốn đề cao các giá trị tập thể. Sự thoả mãn cao nhất không
bắt nguồn từ hành động của bản thân mỗi cá nhãn mà xuất phát từ phản ứng của
[10]


người khác đối với một hành động nào đó. Dựa theo thuyết Maslow, Giáo sư
Hellmut Schette đề nghị một mồ hình, gọi là “Hành vi người tiêu dùng châu Á”
như sau:
-

Nhu cầu cơ bản (physiological)


-

Nhu cầu an toàn (safety)

-

Nhu cầu thuộc về một nhóm (belonging)

-

Nhu cầu danh tiếng (prestige)

-

Nhu cầu tự khẳng định mình (self-actualisation)

Dù vậy, đến tận bây giờ, “Lý thuyết về nhu cầu của Maslow” vẫn được sử dụng
rộng rãi và phổ biến trong xã hội. Do đó, nghiên cứu này của nhóm tác giả sẽ vẫn
dựa trên cơ sở lý thuyết đó của Maslow để phân tích và diễn giải.
1.1.2. Định nghĩa và đặc điểm về nhu cầu du lịch
Nhu cầu du lịch là một loại nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con người, nhu
cầu này được hình thành và phát triển trên nền tảng của nhu cầu sinh lý (sự đi lại)
và các nhu cầu tinh thần (nhu cầu nghỉ ngơi, tự khẳng định, nhận thức, giao tiếp).
Nhu cầu du lịch phát triển là kết quả tác động của lực lượng sản xuất trong xã hội và
trình độ sản xuất trong xã hội. Trình độ sản xuất trong xã hội càng cao, các mối
quan hệ xã hội càng hoàn thiện thì nhu cầu du lịch của con người càng trở nên gay
gắt hơn. Du lịch là một hoạt động cốt yếu của con người và của xã hội hiện đại, đã
trở thành một hình thức quan trọng trong việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của con
người đồng thời là phương tiện giao lưu trong các mối quan hệ giữa con người với

con người.
Về lý luận hay thực tiễn thì cũng phải thừa nhận rằng “Tháp nhu cầu
Maslow” có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc nghiên cứu nhằm nắm bắt nhu cầu du
lịch của du khách, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà có được sự cộng hưởng
từ nhiều yếu tố thuận lợi như thời gian nhàn rỗi nhiều, tình hình chính trị ổn định và
hòa bình, du lịch trở nên phổ biến với nhiều người, … đã làm cho việc nghiên cứu
nhu cầu du lịch là hết sức quan trọng và cần thiết.

[11]


Đặc biệt, đối với sinh viên ngành Du lịch, nếu áp dụng “Tháp nhu cầu
Maslow” vào việc nghiên cứu nhu cầu du lịch của nhóm đối tượng này, ta có thể
thấy nhu cầu chính yếu được quan tâm nhất chính là nhóm nhu cầu thứ ba – nhóm
nhu cầu tự thể thiện bản thân (Self-actualization needs).
Nhu cầu du lịch là một trong các nhu cầu đặc biệt của con người, bao gồm
hàng loạt các nhu cầu khác như: nhu cầu nhận thức, thẩm mỹ, giao tiếp, … Trong
khi tiêu dùng nhu cầu du lịch, có sự phát sinh các nhu cầu khác như: nhu cầu mua
sắm, tiêu dùng các hàng hóa khác… Đây là nhu cầu về đời sống văn hóa tinh thần,
mang tính cá nhân và chịu sự chế ước của xã hội. Thỏa mãn nhu cầu thiết yếu để
con người tồn tại và phát triển để tiếp tục thỏa mãn các nhu cầu tiếp theo. Nhu cầu
đặc trưng là nguyên nhân quan trọng nhất có tính chất quyết định thúc đẩy con
người đi du lịch. Nếu nhu cầu này được thỏa mãn thì coi như đã đạt được mục đích
của chuyến đi. Và việc thỏa mãn nhu cầu bổ sung là làm dễ dàng và thuận tiện hơn
trong hành trình di du lịch của khách.
1.1.3. Nguyên nhân phát sinh nhu cầu du lịch
Du lịch ngày càng được khẳng định là một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ
biến, nhu cầu và khả năng đi du lịch ngày một tăng cả về số lượng và chất lượng.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự phát sinh của nhu cầu du lịch. Nhóm tác giả
đã thực hiện một khảo sát nhỏ và xác định được những nguyên nhân chính như sau:

-

Thời gian nhàn rỗi: Đây là điều kiện tất yếu cần thiết để có thể tham gia vào
hoạt động du lịch. Thời gian rỗi của nhân dân ở từng nước được quy định
trong luật lao động hoặc trong hợp đồng lao động. Xu hướng hiện nay, tỷ lệ
thời gian nghỉ ngơi ngày càng tăng trong khi thời gian làm việc có xu hướng
ngày càng giảm. Đây là một trong những yếu tố làm tăng nhu cầu du lịch của
con người. Thời gian rỗi nằm trong quỹ thời gian, còn thời gian dành cho du
lịch, thể thao và nghỉ ngơi lại nằm trong thời gian rỗi. Các cơ sở du lịch sẽ
trở thành nguồn tiết kiệm thời gian rỗi và là tiền đề vật chất cho việc kéo dài
thời gian rỗi của nhân dân lao động, kích thích họ sử dụng thời gian rỗi một
cách hợp lý để thoả mãn nhu cầu thể chất và tinh thần cho toàn dân.

-

Mức sống về vật chất và trình độ văn hoá chung : Xét về mức sống vật chất,
có thể thấy rằng thu nhập của nhân dân là chỉ tiêu quan trọng và là tiền đề vật
[12]


chất để họ có thể tham gia du lịch. Đây là yếu tố quyết định nhu cầu có khả
năng thanh toán của khách du lịch. Các nước có nền kinh tế phát triển, có thu
nhập quốc dân cao thường có vị trí quan trọng trong phát triển du lịch thế
giới. Xét về trình độ văn hoá của nhân dân, có thể thất rằng trình độ văn hoá
của nhân dân được phản ánh thông qua hệ thống và chất lượng giáo dục đào
tạo, số sách báo xuất bản, chất lượng của các phương tiện thông tin đại
chúng.. Thông thường, nếu trình độ dân trí càng cao thì nhu cầu về du lịch
càng tăng và trình độ phát triển du lịch cũng càng cao để đảm bảo phục vụ
khách du lịch một cách văn minh, lịch sự.
-


Thói quen tiêu dùng và sinh hoạt của người dân : Đây cũng là một tiêu chí
dẫn đến sự phát sinh về nhu cầu du lịch.

-

Điều kiện về tài nguyên du lịch : Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du
lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Tài nguyên du lịch là một điều
kiện cần cho việc hình thành nhu cầu du lịch. Tài nguyên du lịch là đích đến
của chuyến đi, là động lực để lôi kéo khách du lịch ra khỏi nhà để tiêu dùng
dịch vụ du lịch. Sức hút của tài nguyên du lịch phụ thuộc vào quy mô, số
lượng và chất lượng của tài nguyên du lịch đó.

-

Điều kiện về giao thông vận tải : Trước đây, giao thông vận tải là tiền đề cho
sự phát triển du lịch, ngày nay, giao thông vận tải lại càng khẳng định vị trí
của nó đối với sự phát triển của du lịch, đặc biệt là du lịch quốc tế. Yêu cầu
về giao thông vận tải đối với du lịch gồm : số lượng phương tiện vận chuyển,
chất lượng phương tiện (tốc độ vận chuyển, tính tiện lợi, tính an toàn), giá cả
hợp lý, sự phối hợp giữa các phương tiện vận chuyển với nhau nhằm tiết
kiệm thời gian trong tuyến du lịch và nâng cao chất lượng phục vụ khách du
lịch.

-

Tình hình an ninh – chính trị : Không khí chính trị hoà bình sẽ đảm bảo cho
việc mở rộng các mối quan hệ kinh tế và xã hội nói chung và quan hệ trao
đổi du lịch nói riêng. Không khí chính trị hoà bình thường sẽ có sức thu hút
đối với khách du lịch quốc tế và nội địa vì họ có cảm giác an toàn, yên ổn và

đảm bảo cuộc sống của mình trong chuyến du lịch. Một đất nước hay có
những biến cố về thiên tai, về xã hội như đảo chính, cách mạng, sự kỳ thị dân
[13]


tộc, các loại bệnh dịch,... sẽ ảnh hưởng đến sự an toàn của du khách cũng
như gây khó khăn trong việc đi lại, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bị tàn
phá,.. và vì vậy ảnh hưởng đến sự phát triển của du lịch. Những điều kiện
trên ảnh hưởng trực tiếp và độc lập đến hoạt động du lịch, vì vậy, hoạt động
du lịch chỉ phát triển khi tất cả các điều kiện đó ngày càng được hoàn thiện
và phát triển.
-

Những điều kiện về sự sẵn sàng phục vụ khách du lịch : Về điều kiện về tổ
chức, sự có mặt của bộ máy quản lý nhà nước về du lịch, hệ thống các thể
chế quản lý, các chính sách và cơ chế quản lý cũng như các tổ chức và doanh
nghiệp chuyên trách về du lịch để thực hiện các hoạt động kinh doanh du
lịch. Về điều kiện về hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội bao gồm hệ thống
đường sá, nhà ga, sân bay, bến cảng, đường sắt, công viện, mạng lưới thương
nghiệp, hệ thống thông tin viễn thông, hệ thống điện, … Về điều kiện về cơ
sở vật chất kỹ thuật du lịch, người làm du lịch phải đảm bảo việc thoả mãn
các nhu cầu của khách du lịch về ăn, ở, đi lại,... như khách sạn, nhà hàng, hệ
thống phương tiện vận chuyển, các khu giải trí, cửa hàng, công viên, đường
sá, hệ thống cấp thoát nước, mạng lưới điện,... trong khu vực cơ sở du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc khai thác
các tài nguyên du lịch, giữ vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm du lịch. Cuối cùng là điều kiện về kinh tế. Việc đảm bảo nguồn
vốn để duy trì và phát triển du lịch cũng như thiết lập các mối quan hệ kinh
tế với bạn hàng: trong việc cung ứng hàng hoá và dịch vụ đủ về số lượng
đảm bảo về chất lượng. Từ đó mà tạo điều kiện tăng thu ngoại tệ cho các tổ

chức du lịch và cho đất nước.

-

Một số sự kiện và tình hình đặc biệt : Các cuộc đại hội, các hội nghị, các
cuộc hội đàm dân tộc hoặc quốc tế, các cuộc thi olympic, các cuộc kỷ niệm
tín ngưỡng hoặc chính trị, các dạ hội liên hoan, các lễ hội lớn nhỏ, ... cũng
đóng vai trò có ích trong sự phát triển du lịch, vì đây là điều kiện để tuyên
truyền, quảng cáo cho các giá trị văn hoá và lịch sử của đất nước đón khách
đồng thời khắc phục tính thời vụ trong du lịch.

-

Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác, tuy nhiên chúng chiếm số lượng
[14]


không nhiều như : môi trường ngày càng bị ô nhiễm nên nhu cầu về nghỉ
ngơi tĩnh dưỡng ở những nơi gần gũi với thiên nhiên ngày càng cao; các
chương trình bảo hiểm, phúc lợi lao động do chính phủ tài trợ, du lịch trả
góp; cơ cấu nghề nghiệp; mức độ đô thị hoá; …
1.1.4. Đặc điểm của nhu cầu du lịch
Nhu cầu du lịch là một trong các nhu cầu đặc biệt của con người, bao gồm hàng
loạt các nhu cầu khác như: nhu cầu nhận thức, thẩm mỹ, giao tiếp, … Trong khi tiêu
dùng nhu cầu du lịch, có sự phát sinh các nhu cầu khác như: nhu cầu mua sắm, tiêu
dùng các hàng hóa khác… Đây là nhu cầu về đời sống văn hóa tinh thần, mang tính
cá nhân và chịu sự chế ước của xã hội. Thỏa mãn nhu cầu thiết yếu để con người
tồn tại và phát triển để tiếp tục thỏa mãn các nhu cầu tiếp theo. Nhu cầu đặc trưng là
nguyên nhân quan trọng nhất có tính chất quyết định thúc đẩy con người đi du lịch.
Nếu nhu cầu này được thỏa mãn thì coi như đã đạt được mục đích của chuyến đi.

Và việc thỏa mãn nhu cầu bổ sung là làm dễ dàng và thuận tiện hơn trong hành trình
di du lịch của khách.
1.2. Khái quát về nhu cầu đi du lịch của sinh viên
1.2.1. Đặc điểm chung của sinh viên
Sinh viên là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng. Ở đó họ được
truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuẩn bị cho công việc sau này của
họ. Họ được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt được trong quá trình học.
Quá trình học của họ theo phương pháp chính quy, tức là họ đã phải trải qua bậc
tiểu học và trung học.
Sinh viên mang đầy đủ những đặc điểm chung của con người, nhưng họ còn
mang đặc điểm riêng: Tuổi đời còn trẻ, thường từ 18 đến 25. Sinh viên vì thế dễ tiếp
thu cái mới, thích cái mới, thích sự tìm tòi và sáng tạo. Đây cũng là tầng lớp xưa
nay vẫn khá nhạy cảm với các vấn đề chính trị - xã hội, đôi khi cực đoan nếu không
được định hướng tốt. Một số đặc điểm cơ bản của sinh viên:
Tính thực tế: Thể hiện ở việc chọn ngành chọn nghề, ở việc hướng đến lựa
chọn những kiến thức để học sao cho đáp ứng nhu cầu thực tế, chuẩn bị kinh
nghiệm làm việc cho tương lai, định hướng công việc sau khi ra trường, thích những
[15]


công việc đem lại thu nhập cao, ... Nói chung là tính mục đích trong hành động và
suy nghĩ rất rõ.
Tính năng động: Nhiều sinh viên vừa đi học vừa đi làm (làm thêm bán thời
gian, hoặc có khi là thành viên chính thức của một cơ quan, công ty), hình thành tư
duy kinh tế trong thế hệ mới (thích kinh doanh, muốn tự mình lập công ty ngay khi
đang còn là sinh viên), thể hiện sự tích cực chủ động (tham gia phong trào tình
nguyện). Nhiều sinh viên cùng một lúc học hai trường.
Tính cụ thể của lý tưởng: Đang có một sự thay đổi trong lý tưởng sống gắn
liền với sự định hướng cụ thể. Một câu hỏi vẫn thường được đặt ra là: sinh viên
hôm nay sống có lý tưởng không, lý tưởng ấy là gì, có sự phù hợp giữa lý tưởng của

cá nhân và lý tưởng của dân tộc, của nhân loại không. Có thể khẳng định là có,
nhưng đang xuất hiện những đặc điểm lý tưởng có tính thế hệ, lý tưởng gắn liền với
bối cảnh đất nước và quốc tế rất cụ thể. Lý tưởng hôm nay không phải là sự lựa
chọn những mục đích xa xôi, mà hướng đến những mục tiêu cụ thể, gắn liền với lợi
ích cá nhân.
Tính liên kết (tính nhóm): Những người trẻ luôn có xu hướng mở rộng các
mối quan hệ, đặc biệt là những quan hệ đồng đẳng, cùng nhóm. Các nghiên cứu của
hai nhà xã hội học người Pháp về bản sắc xã hội dưới góc độ nhóm là Taspen và
Turnez, đã đưa đến kết luận: Tính nhóm phụ thuộc vào môi trường xã hội xung
quanh chúng ta đang sống. Sự thay đổi của đời sống tinh thần trong sinh viên trước
xu hướng toàn cầu hoá (cả mặt thuận lợi và hạn chế của xu hướng này) đang hướng
mạnh đến tính cộng đồng.
Tính cá nhân: Trào lưu dân chủ hoá, làn sóng công nghệ thông tin và việc
nâng cao dân trí đã làm ý thức cá nhân ngày càng rõ, đặc biệt rõ trong những người
trẻ có học vấn là sinh viên. Họ tự ý thức cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai
trò cá nhân. Dường như có sự đề cao lợi ích hơn nghĩa vụ cá nhân. Sự hy sinh và
quan tâm đến người khác thấp đi, và nếu có thì đánh giá dưới góc độ kinh tế thực
dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ. Xuất hiện thái độ bàng quan với xung quanh ở
một bộ phận sinh viên.
Có thể thấy rằng sinh viên là tầng lớp chiếm vị trí quan trọng trong xã hội,
sinh viên hội tụ đầy đủ những yếu tố, phẩm chất để trở thành lực lượng chủ chốt,trở
[16]


thành chủ nhân tương lai trong việc xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Chính vì vậy thời gian sinh viên
ngồi trên đường đại học là quãng thời gian vô cùng quan trọng trong qúa trình lâu
dài tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, phương pháp tư duy và bản lĩnh chính trị, ngoài
ra cần rèn luyện thêm đạo đức, phẩm chất cá nhân để hoàn thiện bản thân hơn.
1.2.2. Xác định nhu cầu đi du lịch của sinh viên

Theo tác giả Hoàng Minh: “Sinh viên là lực lượng đông đảo trong xã hội, là
nguồn lực tri thức hàng đầu của đất nước mai sau. Quan tâm, xem xét đáp ứng
những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của sinh viên là việc làm có ý nghĩa góp
phần bồi dưỡng, xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, phục vụ đất nước
trong tương lai. Ngoài nhiệm vụ chính là học tập và nghiên cứu khoa học, sinh viên
có nhu cầu rất chính đáng là tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh”.
Chính vì vậy việc tìm hiểu về nhu cầu du lịch của sinh viên là rất cần thiết. Khi
phân tích đến vấn đề này, nhóm tác giả chủ yếu tập trung vào bốn khía cạnh chính.
Khi đi du lịch sinh viên luôn hướng tới việc tiếp cận thực tiễn và tích lũy
kiến thức. Theo tập chí khoa học trường đại học Cần Thơ có viết: “Đối với sinh
viên, nhu cầu thích học hỏi khám phá luôn được coi trọng hàng đầu, trong đó có
nhu cầu đi thực tế, tham quan tận mắt, chứng kiến học hỏi là rất cần thiết. Nhằm
phục vụ cho việc học tập, tích lũy kinh nghiệm trong tương lai”. Sinh viên là bộ
phận vẫn còn trong quá trình học tập, trau dồi học hỏi do đó nhu cầu tiếp cận thực
tiễn và tích lũy kiến thức là không thể thiếu. Nếu chỉ chăm chăm tập trung vào
những điều mà bạn được học trên lớp thì chắc hẳn kiến thức sẽ không bao giờ toàn
diện được. Việc đi du lịch, khám phá thế giới bên ngoài thực sự sẽ tăn sự am hiểu
thêm về những nền văn hóa khác nhau, về các điểm đến hấp dẫn, từ đó bổ sung vào
khổi kiến thức mà bạn đang có. Việc tích lũy kiến thức hay kinh nghiệm cần phải
trải qua một quá trình dài bởi sự cọ xát thực tế, do đó khi ta được đến nhiều nơi và
học hỏi thêm được nhiều phong tục tập quán thì lúc đó đã thực sự đã bồi đắp thêm
cho vốn hiểu biết của bản thân mình.
Bên cạnh đó, du lịch còn là cách mang đến cho sinh viên những trải nghiệm
thiết thực và thú vị. Đi là để hiểu, để biết và để trải nghiệm. Du lịch đối với con
người nói chung và đối với sinh viên nói riêng là để trải qua những cảm giác khác
[17]


nhau, là để thử tìm tòi, khám phá về thế giới xung quanh, từ đó mang đến cho bản
thân những cảm nhận, những kỉ niệm khác biệt. Du lịch chính là cầu nối giúp sinh

viên đặt chân đến nhiều miền đất mới, được trải nghiệm và thấu hiểu những giá trị
sống.
Đồng thời, sinh viên đi du lịch còn nhằm thỏa mãn nhu cầu về vui chơi, giải
trí. Trên giảng đường, sinh viên luôn phải chịu nhiều áp lực từ bài vở, từ những mối
quan tâm đến vấn đề tài chính và các mối quan hệ mới phát sinh. Nhiều sinh viên
luôn phải sống với thái độ khó chịu, mệt mỏi và cảm thấy căng thẳng cả ngày. Do
đó, việc tham gia một chuyến đi du lịch sẽ là giải pháp tốt nhất để sinh viên giải tỏa
được những buồn phiền lo lắng nói trên. Tránh xa những gánh nặng về thi cử,
những suy nghĩ tiêu cực trong cơ hội nghề nghiệp sau này để đến với một thế giới
khác, thoải mái hơn, yên bình hơn. Du lịch chính là cách bạn tìm cho mình một
không gian riêng, một bầu không khí riêng, mới mẻ và khác biệt. Ở đó, bạn có thể
thư giãn đầu óc, tham gia các hoạt động vui chơi cùng bạn bè và sẽ cảm thấy vui vẻ,
hứng khởi trở lại. Những hoạt động nói trên có thể khiến bạn cảm thấy tràn trề năng
lượng sống, có thêm nhiều động lực giúp nâng cao hiệu quả học tập hơn.
Bên cạnh những nhu cầu nói trên, đi du lịch còn giúp trau dồi kỹ năng sống.
Sinh viên thường chỉ quanh quẩn tiếp xúc, nói chuyện với ba mẹ, anh em, bạn bè,
đồng nghiệp, … Tuy nhiên, trong chuyến đi du lịch chắc chắn họ sẽ gặp nhiều
người, bạn phải trò chuyện, hỏi đường… với những người xa lạ, chưa từng quen
biết. Việc này sẽ giúp rèn luyện kỹ năng giao tiếp, một kỹ năng rất cần thiết trong
cuộc sống. Tất cả đều phụ thuộc vào kỹ năng giao tiếp từ việc hỏi thăm đường đi,
về phong tục tập quán, về món ăn, về văn hóa bản địa. Đi du lịch là tiếp xúc với
những cái mới: văn hóa mới, phong tục mới, thói quen mới, con người mới, món ăn
mới… Bạn phải học cách làm quen, hành xử phù hợp với những nơi bạn đến. Đón
nhận các tình huống, vượt qua khó khăn và thích nghi với môi trường khác biệt sẽ
giúp bạn khám phá khả năng tìm ẩn của bản thân, thu thập được những kĩ năng cần
thiết để tồn tại và phát triển cho dù trong bất kì hoàn cảnh nào. Những trải nghiệm
sẽ rèn luyện con người thích ứng nhanh và biến chuyển khả năng để đáp ứng được
các thay đổi của môi trường.

[18]



CHƯƠNG 2. NHU CẦU VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NHU CẦU ĐI
DU LỊCH CỦA SINH VIÊN BỘ MÔN DU LỊCH, TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái quát về nhu cầu đi du lịch của sinh viên Bộ môn Du lịch, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1. Khái quát về Bộ môn Du lịch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Về lịch sử hình thành, Bộ môn Du lịch thuộc Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, chính thức thành Bộ
môn độc lập trực thuộc Trường từ ngày 01/04/2013 được tách bộ môn Địa lý Du
lịch, trực thuộc Khoa Địa lý Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
(nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh) và hiện đang là một trong những cơ sở uy tín hàng đầu trong
việc đào tạo cử nhân ngành Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành. Chương trình đào
tạo của Bộ môn chủ yếu tập trung theo ba chuyên ngành chính: Hướng dẫn du lịch,
Quản trị lữ hành và Quản trị Nhà hàng, Khách sạn, Resort.
Về tầm nhìn và sứ mạng, Bộ môn Du lịch là đơn vị đào tạo, nghiên cứu và
đóng vai trò tích cực trong việc đào tạo nhân lực du lịch cho cả nước và hướng tới
hội nhập thị trường lao động khu vực ASEAN. Hơn thế nữa, Bộ môn Du lịch là cơ
sở cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao và có bản sắc riêng trong lĩnh vực du
lịch, góp phần khẳng định vị thế của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh tại Thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng và cả nước nói chung. Triết lí giáo dục của Bộ môn trong giai đoạn phát triển
từ 2016 đến 2020 là “Giáo dục toàn diện, xây dựng bản sắc riêng và hướng tới hội
nhập khu vực”4.

www.dulich.hcmussh.edu.vn, Bộ môn Du lịch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn, Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh, Giới thiệu chung.
4

[19]


2.1.2. Về đặc điểm của sinh viên Bộ môn Du lịch, trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Sinh viên Du lịch nói chung và sinh viên Bộ môn Du lịch, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng
hầu hết đều là những người trẻ năng động, hoạt bát, ham học hỏi, thích giao lưu kết
bạn và có mong muốn khám phá. Để phù hợp với ngành nghề, ngay từ những ngày
đầu tiên ngồi trên giảng đường, sinh viên Bộ môn Du lịch, trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã được học
bài học đầu tiên về tác phong của người làm du lịch. Trải qua quá trình 4 năm rèn
luyện và trau dồi về cả kiến thức và kỹ năng, hầu hết các sinh viên Du lịch sẽ hội tụ
đầy đủ tố chất của một người làm du lịch như: hoạt ngôn; hiểu biết tường tận về
kiến thức văn hoá, lịch sử, địa lý, xã hội; sức khoẻ tốt; kỹ năng giao tiếp tốt; khả
năng kiên trì và chịu đựng được môi trường làm việc áp lực cao; thành thạo ít nhất
một ngoại ngữ; có khả năng xử lý tình huống tốt;…
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu đi du lịch của sinh viên Bộ môn Du
lịch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh
Từ thực tế cho thấy, nhu cầu đi du lịch của sinh viên nói chung và sinh viên
Bộ môn Du lịch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn nói riêng là rất lớn.
Nhóm tác giả đã thực hiện một khảo sát với quy mô Bộ môn nhằm khảo sát, tìm
kiếm kết quả và đưa ra đánh giá chi tiết về nhu cầu đi du lịch của sinh viên Bộ môn
Du lịch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Vì giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài trong thời gian từ tháng 02/2018
đến tháng 04/2018, do vậy mà số lượng phiếu được phát ngẫu nhiên, trải đều cho

sinh viên hai khoá (2016 – 2020 và 2017 – 2021) của Bộ môn Du lịch, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn (mỗi khoá 50 phiếu).
Tổng số phiếu phát ra như đã nói là 100 phiếu cho sinh viên hai khoá (50
phiếu cho sinh viên khoá 2016 – 2020; 50 phiếu cho sinh viên khoá 2017 – 2021).
Tuy nhiên, tổng số phiếu hợp lệ thu về là 63 phiếu đối với cả hai khoá sinh viên.

[20]


Bảng 1.1. Thống kê khảo sát sinh viên hai khoá 2016 – 2020, 2017 –
2021, Bộ môn Du lịch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
SỐ PHIẾU HỢP LỆ

KHOÁ

SỐ PHIẾU KHÔNG
HỢP LỆ

2016 – 2020

38

12

2017 - 2021

25

25


2.2.1. Về thu nhập cá nhân, độ tuổi, giới tính
Kết quả thống kê thể cho thấy, cả ba yếu tố (thu nhập cá nhân, độ tuổi, giới
tính) đều có nhu cầu đi du lịch. Tuy nhiên, tuỳ vào tính cụ thể của mỗi yếu tố mà
nhu cầu cũng sẽ khác nhau.

Mức thu nhập hàng tháng của sinh viên

18.60%
34.90%

Dưới 1,000,000 vnđ
Từ 1,000,000 đến 2,000,000 vnđ
Trên 2,000,000 vnđ

46.50%

Về thu nhập cá nhân, nhóm nghiên cứu đã có một câu hỏi khảo sát về vấn đề
việc làm thêm hiện tại của sinh viên. Trong tổng 63 phiếu hợp lệ, số sinh viên hiện
đang có công việc làm là 37 sinh viên (chiếm 58.7%), còn lại 26 sinh viên (chiếm
41.3%) là chưa hoặc đang tìm kiếm công việc. Trong nhóm sinh viên đã có công
việc làm thêm, nhóm sinh viên có thu nhập rơi vào khoảng từ 1.000.000 đến
2.000.000 vnđ chiếm gần một nửa khảo sát, cụ thể là 20 phiếu (chiếm 46.5%). Thu
nhập dưới 1.000.000 vnđ gồm 15 phiếu (chiếm 34.9%). Thấp nhất là nhóm sinh
viên có thu nhập trên 2.000.000 vnđ với 8 phiếu chọn (chiếm 18.6%). Từ kết quả
[21]


khảo sát trên, có thể thấy rằng, hầu hết thu nhập của sinh viên hai khoá (2016 –
2020 và 2017 – 2021) rơi vào khoảng từ 1.000.000 đến 2.000.000 vnđ. Tuy nhiên,
dù đã có hay chưa có việc làm, dù thu nhập rơi vào khoảng cao hay thấp thì nhu cầu

đi du lịch vẫn rất cao đối với toàn bộ sinh viên làm khảo sát. Tuỳ vào khoản tài
chính mà cá nhân sinh viên sở hữu mà nhu cầu đi du lịch của mỗi sinh viên sẽ khác
nhau.
Số lượng sinh viên thực hiện khảo sát

Giới tính

30,20%
69,80%

Nam

39,70%

Khoá 2016 - 2020
60,30%

Nữ

Khoá 2017 - 2021

Về độ tuổi và giới tính, do đặc thù của ngành học Du lịch, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và đối
tượng khảo sát mà nhóm tác giả hướng đến mà độ tuổi và giới tính không có sự
khác biệt nhiều. Độ tuổi của nhóm người làm khảo sát thường dao động từ 19 tuổi
(sinh năm 1999) đến 21 tuổi (sinh năm 1997). Sinh viên làm khảo sát chủ yếu là nữ
với 44/63 phiếu (chiếm 69.8%). Do chủ yếu đối tượng khảo sát là những sinh viên
trẻ, năng động và thích khám phá nên nhu cầu du lịch ở họ là rất cao.
2.2.2. Về mục đích chuyến đi, phương tiện sử dụng
Về mục đích của chuyến đi, 48 phiếu (chiếm 76.2%) lựa chọn việc đi vì

khám phá, trải nghiệm. 45 phiếu dành cho việc muốn tìm niềm vui, giải toả căng
thẳng. 28 phiếu (chiếm 44.4%) muốn đi để hoàn thiện bản thân hơn. 24 sinh viên
(38.1%) cho rằng họ đi vì muốn thảo mãn sở thích và đam mê. Số ít còn lại (1.6%)
nói rằng việc họ đi du lịch sẽ tạo động lực kiếm tiền cho họ. Có thể thấy, có rất
nhiều mục đích khác nhau của sinh viên khi đi du lịch. Chung quy lại, việc đi du
lịch sẽ giúp họ làm giàu về cả thể xác lẫn tinh thần. Sinh viên là một bộ phận trí

[22]


thức của xã hội nên việc đi để học hỏi và khám phá thế giới là nhu cầu hàng đầu của
họ. Chính vì thế, công tác giải quyết nhu cầu đi du lịch của sinh viên nên gắn với
việc cung cấp kiến thức và nâng cao kỹ năng cho sinh viên qua mỗi hành trình họ
trải qua.
Lý do sinh viên thích đi du lịch
Để tiêu tiền để có động lực kiếm tiền

Hoàn thiện bản thân

Thoả mãn đam mê, sở thích

Muốn khám phá, trải nghiệm

Muốn tìm niềm vui, giải toả căng thẳn

Về phương tiện sử dụng, có đến 96.8% sinh viên lựa chọn việc đi du lịch tự
túc. Cụ thể, có đến 90% sinh viên mong muốn họ sẽ được tự đi du lịch bằng xe máy
của mình hoặc mua vé xe khách rồi thuê xe máy để tự khám phá. Phương tiện máy
bay hoặc tàu lửa chỉ được số ít lựa chọn hoặc chỉ được lựa chọn cho những chuyến đi
có khoảng cách địa lý lớn. Nguyên nhân xuất phát từ nhu cầu muốn tự khám phá của

sinh viên. Họ là những người trẻ năng động, nhiệt huyết và có ham muốn được chinh
phục những điều mới mẻ, do đó họ chọn việc đi du lịch tự túc như một cách để họ
chứng tỏ sức trẻ của mình. Bên canh đó, đối tượng khảo sát của nghiên cứu là sinh
viên du lịch. Họ được đào tạo để trở thành những người khai thác và tổ chức du lịch.
Việc đi du lịch tự túc sẽ giúp sinh viên du lịch có một cái nhìn toàn diện và chi tiết về
điểm đến, tiềm năng và khả năng khai thác du lịch. Việc đi tự túc cũng sẽ giúp sinh
viên du lịch trau dồi kỹ năng tính toán, chi tiêu sao cho hợp lý nhất. Thêm vào đó, do
đã có kiến thức về chuyên ngành, sinh viên du lịch có thể nhìn thấy những thuận lợi
và cả khó khăn trong hành tình, để từ đó họ có thể tổ chức những tour tuyến hoàn
chỉnh nhất.

[23]


2.2.3. Về thời gian rảnh rỗi và mong đợi từ chuyến đi
Thời gian rảnh rỗi là một nhân tố đóng vai trò quan trọng trong việc kích
thích nhu cầu du lịch. Do đó, nhóm chúng tôi đã tiến hành đặt một câu hỏi liên quan
đến vấn đề này “Bạn thường đi du lịch vào thời điểm nào trong năm?”. Kết quả thu
được từ phản hồi của khách thể khảo sát. Theo như kết quả của biểu đồ trên thì phần
đông sinh viên Bộ môn Du lịch (47,6%) lựa chọn thời điểm “dịp nghỉ hè” để bắt
đầu những chuyến đi du lịch của mình. Ý kiến khác cho rằng nên đi du lịch vào
“ngày thường” chiếm tỷ lệ không đáng kể (19%). Hai phương án chọn “dịp Lễ, Tết”
và “sau những kì thi” có kết quả phần trăm tương đương nhau, lần lượt là 39,7% và
38,1%. Phương án chọn “khác” chiếm tỉ lệ thấp nhất với 11,9%. Một số trả lời cho
phương án này được nhóm chúng tôi thu thập được như: “khi có cơ hội để đi” hoặc
“thích đi là đi”, … Do đó, nhận thấy được kết quả khả thi từ khảo sát, nhóm chúng
tôi cũng đồng tình việc lựa chọn thời điểm “dịp nghỉ hè” để đi du lịch là phù hợp.
Vào dịp nghỉ hè, sinh viên Bộ môn sẽ kết thúc một năm học trên ghế nhà
trường do đó các bạn sẽ có nhiều thời gian hơn để lên kế hoạch chuẩn bị đi du lịch
cùng với gia đình, bạn bè hoặc người yêu với mục đích mong muốn giải tỏa căng

thẳng, áp lực sau mùa thi cử hay mong muốn hoàn thiện bản thân thông qua việc
khám phá những vùng đất mới mà trước đó họ chưa từng đặt chân đến. Hơn thế
nữa, dịp nghỉ hè cũng chính là lúc “mùa cao điểm” của du lịch. Trong thời điểm
này, những yếu tố khác liên quan đến việc cung ứng trong việc phục vụ cho du lịch
như: cơ sở cung ứng du lịch, thông tin trải nghiệm hoặc thậm chí cung cách phục vụ
đối với người hoạt động trong ngành du lịch sẽ được cải thiện tốt đến mức có thể.
Chính vì yếu tố này sẽ tác động đến việc lựa chọn thời gian đi du lịch không những
của sinh viên Bộ môn Du lịch mà còn là của tất cả mọi người.
Tiếp theo, nhóm chúng tôi tiến hành khảo sát về đối tượng có liên quan đến
việc tác động đến nhu cầu đi du lịch của sinh viên Bộ môn đó là “người đồng hành”
của khách thể nghiên cứu. Về “người đồng hành” trong chuyến đi du lịch, kết quả
của nhóm chúng tôi sau quá trình khảo sát được biểu thị bằng biểu đồ bên dưới:

[24]


×