Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên năm học 2018 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.05 KB, 15 trang )

BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC 2018-2019
Họ và tên: Nguyễn Thị Thuẫn
Đơn vị: Trường Tiểu học Hải Ninh
Câu 1: Sau khi học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh với chuyên đề năm 2018 “Xây dựng phong cách, tác phong công tác
của người đứng đầu, của cán bộ đảng viên”, thầy (cô) hãy trình bày quan
điểm của Bác về phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán
bộ đảng viên. Từ đó thầy cô hãy liên hệ thực tế bản thân mình cần làm gì để
tu dưỡng, rèn luyện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Trả lời:
Phong cách Hồ Chí Minh là những đặc trưng giá trị mang đậm dấu ấn Hồ
Chí Minh, được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người. Phong
cách Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người
để lại cho dân tộc ta. Là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm phong cách tư duy,
phong cách làm việc, phong cách ứng xử, phong cách diễn đạt, phong cách sinh
hoạt…
Phong cách Hồ Chí Minh là phong cách của người Việt Nam. Đó là phong
cách của một con người với nhân cách siêu việt, cái tâm trong sáng, cái đức cao
đẹp, cái trí minh mẫn, cái hành mực thước, phong cách của một lãnh tụ, một vĩ
nhân, một chiến sĩ cộng sản chân chính, của người công dân số một của Việt Nam.
Đó còn là phong cách của người anh hùng giải phóng dân tộc, đồng thời cũng là
nhà văn hóa kiệt xuất. Phong cách của Người không chỉ là bài học, là chuẩn mực
cho việc xây dựng phong cách người cán bộ cách mạng mà còn bồi dưỡng nhân
cách cho các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau.
Sau khi học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với
chuyên đề năm 2018 “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng
đầu, của cán bộ đảng viên”, tôi xin trình bày quan điểm của Bác về phong cách, tác
phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ đảng viên:
*Quan điểm của Bác về phong cách, tác phong công tác của người đứng
đầu:


- Phong cách dân chủ, nhưng quyết đoán
+ Cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu không được quan liêu, hách dịch,
coi thường quần chúng nhân dân. Phải biết đời sống thực của Nhân dân, băn
khoăn, trăn trở của dân để kịp thời uốn nắn và tháo gỡ cùng dân.
+ Cán bộ lãnh đạo, nhất là những người đứng đầu, là người có trọng trách
trong một tập thể, vừa phải thực hành dân chủ, lắng nghe ý kiến của tập thể, đồng
thời phải quyết đoán, nhận thức đầy đủ trách nhiệm và dám ra quyết định, dám
làm, dám chịu trách nhiệm. Đây cũng chính là việc thực hiện nghiêm nguyên tắc
“tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”.
- Phong cách lãnh đạo sâu sát


+ Vai trò: Lãnh đạo sâu sát sẽ nâng cao được tính khách quan, minh bạch,
tăng cường được công tác kiểm tra, giám sát, từ đó kiểm soát tốt hơn đối với việc
thực thi quyền lực, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng tài sản của Nhà nước,
của Nhân dân, góp phần phòng, chống tham nhũng có hiệu quả.
+ Cách thức: Hồ Chí Minh yêu cầu dựa vào quần chúng nhân dân để giám
sát, kiểm tra, nhằm loại trừ các hành vi trục lợi, ăn cắp, tham ô, đục khoét, biến của
công thành của riêng. Theo Hồ Chí Minh, sau khi nghị quyết đã được ban hành,
phải tổ chức tốt việc thực hiện để nghị quyết đi vào cuộc sống. Điều đó gắn liền
với công việc kiểm tra, giám sát. Muốn tốt, “phải đi tận nơi, xem tận chỗ”. Theo
Người, sở dĩ sự thật còn bị bưng bít vì sự kiểm tra, giám sát của các ngành, các cấp
không nghiêm túc, chưa chặt chẽ. Vì thế, người lãnh đạo cần phải đi cơ sở, gặp gỡ
quần chúng, đọc báo, đọc thư của Nhân dân; kiểm tra, giám sát, động viên, khen
thưởng, nhắc nhở, phê bình, kỷ luật kịp thời...
- Khéo dùng người, trọng dụng người tài
+ Là người lãnh đạo giỏi thì phải khéo dùng người và trọng dụng nhân tài.
+ Việc dùng người phải hợp lý, đúng năng lực và sở trường của họ, đúng
người, đúng việc và phải cho họ hiểu rõ mọi mặt các công việc mà họ phụ trách.
+ Việc trọng dụng nhân tài theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là

phải làm thường xuyên, liên tục như “người làm vườn vun trồng những cây cối quý
báu.
- Phong cách cách mạng, khoa học, năng động, sáng tạo
+ Một yêu cầu quan trọng trong phong cách của người đứng đầu, người lãnh
đạo là phải có sự thống nhất giữa tính đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng
động, sáng tạo, sự nhạy cảm với cái mới.
+ “Trung với Đảng”, “trung với nước, hiếu với dân" là phẩm chất chính trị
cơ bản, thể hiện trong mọi hoạt động của người lãnh đạo, quản lý.
+ Nhiệt tình cách mạng là yếu tố cơ bản trong phẩm chất của người cán bộ
đứng đầu, người lãnh đạo.
+ Tính khoa học phải được đảm bảo bằng tri thức khoa học. Nhiệt tình cách
mạng chỉ thực sự đem lại hiệu quả khi nó được thống nhất với các tri thức khoa
học và trên cơ sở khoa học.
+ Để có tri thức khoa học, người cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu phải chịu
khó học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ về chính trị, văn hóa, nghiệp vụ cũng
như nắm được tình hình trong và ngoài nước. Việc học tập phải thường xuyên, liên
tục, học tập cả lý luận và kiến thức khoa học, thực tiễn.
+ Trong công việc, phải kiên định về nguyên tắc nhưng mềm dẻo, linh hoạt
về sách lược, hình thức, phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành.
*Quan điểm của Bác về phong cách, tác phong công tác của cán bộ đảng
viên:
- Phong cách dân chủ, quần chúng:
+ Phong cách dân chủ hay “cách làm việc dân chủ” là phong cách hàng đầu
mà người cán bộ cần phải có.
+ Không khí dân chủ thực sự trong nội bộ phải được tạo ra bằng cách thành
tâm lắng nghe và khơi gợi cho cán bộ, đảng viên, quần chúng, cấp dưới nói hết
quan điểm, ý kiến của mình.


+ Người có phong cách dân chủ là thực hành tốt nguyên tắc “tập thể lãnh

đạo, cá nhân phụ trách”; biết phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều người;
thành thực lắng nghe ý kiến phê bình của cấp dưới và nghiêm túc sửa mình với
tinh thần “cầu thị”.
+ Dân chủ nhưng có định hướng, có lãnh đạo, dân chủ phải đi đến sự tập
trung chứ không phải dân chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức.
+ Gắn bó mật thiết với phong cách dân chủ là phong cách quần chúng. Hồ
Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải có phong cách làm việc quần chúng, xuất
phát từ vấn đề có tính nguyên tắc về vai trò của quần chúng nhân dân: “Dễ mười
lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
+ Phong cách quần chúng yêu cầu người cán bộ phải gần gũi quần chúng,
lắng nghe và thấu hiểu mong muốn của quần chúng. Người cán bộ phải thường
xuyên đi xuống cơ sở mà mình phụ trách, tìm hiểu thực trạng đời sống, tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng.
+ Phong cách quần chúng không có nghĩa là “theo đuôi quần chúng” mà
phải có bản lĩnh vững vàng để vừa nâng cao trình độ, giác ngộ dân trí của quần
chúng, tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của một bộ phận quần chúng
“chậm tiến”, vừa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình.
- Phong cách khoa học:
+ Khi xem xét và quyết định mọi việc đều phải điều tra, nghiên cứu, phân
tích toàn diện, phải tôn trọng quy trình ra quyết định, tranh thủ ý kiến của tập thể
lãnh đạo và quần chúng.
+ Làm việc phải có mục đích và kế hoạch rõ ràng, thiết thực; biết quý trọng
thời gian, phân bổ và tập trung giải quyết dứt điểm từng công việc; không ôm đồm;
phải có tầm nhìn tổng thể, không được rơi vào “Bệnh cận thị”; phải có cách đánh
giá đúng người, đúng việc, sắp xếp công việc cho hợp lý; có kiểm tra, giám sát
công việc; có rút kinh nghiệm cho lần sau và cho người khác.
- Phong cách nêu gương:
+ Mỗi cán bộ, đảng viên đều phải tự làm gương trong mọi công việc, từ nhỏ
đến lớn, thể hiện thưòng xuyên về mọi mặt; phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư, nói phải đi đôi với làm để cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo.

+ Cần nêu gương trên ba mối quan hệ với mình, với người, với việc. Đối với
mình phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự
kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân; phải tự phê bình
mình như rửa mặt hằng ngày. Đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm
tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng. Đối với việc,
dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng” đặt việc
công lên trên, lên trước việc tư.
+ Cách thức nêu gương: nói phải đi đôi với làm trong công tác và lối sống,
trong mọi lúc, mọi nơi; phải nêu gương thường xuyên, liên tục.
+ Để giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả cao, cần “Lấy gương người tốt,
việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau”.
*Bản thân là một cán bộ đảng viên, tôi nhận thấy để tu dưỡng, rèn luyện
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mình cần phải:
- Tăng cường rèn luyện, xây dựng phong cách làm việc của bản thân theo
quan điểm của Bác.


- Tích cực nghiên cứu, học tập và tham gia tuyên truyền chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, nâng cao bản lĩnh chính trị, tuyệt đối trung
thành, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng.
- Bản thân tôi luôn yên tâm công tác và chấp hành tốt nội quy, quy chế của
ngành, tin tưởng tuyệt đối vào đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước, thực hiện tốt cuộc vận động "hai không" và thực hiện tốt các cuộc vận động
khác.
- Bản thân tôi không ngừng học tập và rèn luyện để nâng cao trình độ
chuyên môn, cũng như trình độ lí luận chính trị cụ thể như: Về chuyên môn tham
gia đầy đủ, nghiêm túc các đợt học tập bồi dưỡng chuyên môn do phòng giáo dục
và nhà trường tổ chức. Về chính trị tham gia đầy đủ các buổi học nghị quyết,
chuyên đề do Đảng uỷ xã Hải Ninh tổ chức.
- Thực hiện nghiêm quy định của ban chấp hành trung ương về những điều

đảng viên kkông được làm và hưỡng dẫn của Ủy Ban kiểm tra Trung ương về việc
thực hiện quy định này.
- Gương mẫu, đi đầu trong đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, sẵn sàng nhận và chịu trách nhiệm khi vi phạm, quyết tâm sửa chữa, khắc
phục.
- Luôn quan tâm gần gũi để thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của
học sinh, phụ huynh. Luôn biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến tham gia của đồng
nghiệp, cấp trên.
- Gương mẫu trong tự phê bình và phê bình theo tinh thần nghị quyết Trung
ương 4 khóa XI.
- Luôn luôn xung phong, gương mẫu trong trong công tác, luôn luôn trau dồi
đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ của
công dân nơi cư trú.
- Có ý thức trách nhiệm, tận tụy với công việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao; tích cực học tập, nghiên cứu, tiếp thu và vận dụng có hiệu quả các tri
thức khoa học công nghệ hiện đại, các sáng kiến kinh nghiệm nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả giáo dục, công tác, học tập.
- Chân thành giúp đỡ đồng chí đồng nghiệp trong công tác, trong cuộc sống,
bảo vệ uy tín danh dự của đồng chí, đồng nghiệp, không tranh công, đổ lỗi, né
tránh, đùn đẩy trách nhiệm cho người khác, kiên quyết đấu tranh chống các biểu
hiện chia rẽ bè phái gây mất đoàn kết nội bộ trong nhân dân.
- Đổi mới tác phong làm việc, tác phong công tác, nhất là phong cách công
tác gần dân, tôn trọng nhân dân, có trách nhiệm với học sinh, sâu sát tới học sinh.
- Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức trong sáng, gương mẫu khiêm
tốn giản dị, chống bệnh thành tích, hình thức.
- Phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, thực hiện nghiêm nguyên tắc "Tập
trung dân chủ".
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm, chủ động, tích cực, quyết liệt trong công
việc, nói đi đôi với làm.
Câu 2: Thế nào là sinh hoạt chuyên môn theo hướng tập trung nghiên

cứu bài học? Đồng chí hãy thiết kế một hoạt động trong sinh hoạt chuyên môn
theo hướng tập trung nghiên cứu bài học mà mình đã thực hiện trong năm?
Trả lời:


Sinh hoạt chuyên môn là hoạt động được thực hiện thường xuyên theo định
kỳ nhằm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm cho giáo viên theo
chuẩn nghề nghiệp thông qua việc dự giờ, phân tích bài học.
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học cũng là hoạt động sinh hoạt
chuyên môn nhưng ở đó giáo viên tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến
người học như: Học sinh học thế nào? Học sinh đang gặp khó khăn gì trong học
tập? nội dung và phương pháp dạy học có phù hợp, có gây hứng thú cho học sinh
không, kết quả học tập của học sinh có được cải thiện không? Cần điều chỉnh gì và
điều chỉnh như thế nào?
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học không tập trung vào việc
đánh giá giờ học, xếp loại giáo viên mà nhằm khuyến khích giáo viên tìm ra
nguyên nhân tại sao học sinh chưa đạt kết quả như ý muốn và có biện pháp để nâng
cao chất lượng dạy học, tạo cơ hội cho học sinh tham gia vào quá trình học tập;
giúp giáo viên có khả năng điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp
với đối tượng học sinh của lớp, trường mình.
* Sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học gồm có 4 bước:
- Bước 1: Xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch bài học nghiên cứu
- Bước 2: Tiến hành dạy và dự giờ
- Bước 3: Suy ngẫm, thảo luận về giờ dạy
- Bước 4: Áp dụng cho thực tiễn dạy học hàng ngày
Trong năm học 2018 - 2019, tôi đã thực hiện chuyên đề cấp trường môn Ôn
Toán lớp 3 ; Bài: Ôn luyện tuần 9 (Tiết 1) – theo tài liệu ôn luyện buổi 2. Tôi thiết
kế bước 1 (Chuẩn bị bài dạy ) như sau:
Chọn bài để dạy: Chọn bài dạy đúng chương trình học của học sinh theo tài
liệu ôn luyện buổi 2.

Các GV trong tổ 1-2-3 của tôi đã có một cuộc thảo luận chi tiết, cụ thể bài
học tiến hành nghiên cứu như:
- Đây là loại bài học gì?
- Mục tiêu bài học là gì?
Dựa vào chuẩn kiến thức - kĩ năng để lập mục tiêu của bài, cụ thể là:
+ Biết sử dụng ê-ke để kiểm tra, nhận biết góc (vuông, không vuông) và vẽ được
góc vuông (trường hợp đơn giản)
+ Biết tên gọi, kí hiệu của đơn vị độ dài đề-ca-mét, héc-tô-mét và quan hệ giữa
chúng.
+ Sử dụng ê-ke và chuyển đổi đơn vị đo độ dài đề-ca-mét, héc-tô-mét ra mét thành
thạo
+ Tự hoàn thành được bài tập và biết chia sẻ cùng bạn; tự đánh giá được kết quả
bài làm
- Cách giới thiệu bài học như thế nào? (Bài này có thể giới thiệu trực tiếp)
- Sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy học thế nào cho đạt hiệu quả
cao? (Sử dụng phương pháp dạy học phân hóa, PPDH theo hướng phát triển năng
lực của HS; HS chuẩn bị các vật dụng cần thiết cho bài học như ê-ke, thước,...)
- Nội dung bài học chia ra những đơn vị kiến thức nào? (Bài này chia ra 2
nội dung kiến thức: Tạo hỗn hợp gia vị; Tìm hiểu phương pháp tách các chất ra
khỏi hỗn hợp)
- Dự kiến tổ chức hoạt động dạy học nào tương ứng?


Dự kiến có 2 hoạt động dạy học:
A. Hoạt động thực hành:
- Hoàn thành các bài tập 1, 2, 3, 6 trang 46, 47 (theo logo tài liệu hướng dẫn ôn
luyện)
- Hoàn thành các bài tập bổ sung ở phiếu học tập (HĐ cá nhân theo đối tượng HS)
B. Hoạt động ứng dụng: Luyện tập sử dụng ê-ke để kiểm tra, nhận biết
góc (vuông, không vuông) và vẽ góc vuông.

Dự kiến tích hợp nội dung giáo dục nào là phù hợp? (Tích hợp lòng say mê,
yêu thích toán học nói chung và toán có yếu tố hình học nói riêng)
Sau khi kết thúc cuộc họp này, tôi sẽ hình thành giáo án từ đại cương bài đã
chọn, cụ thể như sau:
ÔN TOÁN:
ÔN LUYỆN TUẦN 9 (TIẾT 1)

I.MỤC TIÊU:
- Biết sử dụng ê-ke để kiểm tra, nhận biết góc (vuông, không vuông) và vẽ được
góc vuông (trường hợp đơn giản)
- Biết tên gọi, kí hiệu của đơn vị độ dài đề-ca-mét, héc-tô-mét và quan hệ giữa
chúng.
- Sử dụng ê-ke và chuyển đổi đơn vị đo độ dài đề-ca-mét, héc-tô-mét ra mét thành
thạo
- Tự hoàn thành được bài tập và biết chia sẻ cùng bạn; tự đánh giá được kết quả bài
làm
II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC:
- GV: Ê-ke, thước, Phiếu BT bổ sung
- HS: Ê-ke, thước
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
Khởi động: Ban văn nghệ bắt cho lớp hát một bài
Việc 1: GV giới thiệu bài và nêu mục tiêu bài học.
Việc 2: HS chia sẻ mục tiêu bài học
A. HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH
- Nhất trí như tài liệu hướng dẫn
- Hoàn thành các bài tập 1, 2, 3, 6 trang 46, 47
*Đánh giá:
- Biết sử dụng ê-ke để vẽ được góc vuông (trường hợp đơn giản) trong BT1 và
kiểm tra, nhận biết góc (vuông, không vuông) trong BT2
- Biết quan hệ giữa đơn vị đo độ dài đề-ca-mét, héc-tô-mét; chuyển đổi đơn vị đo

độ dài đề-ca-mét, héc-tô-mét ra mét trong BT3 và làm được các phép tính với đơn
vị đo độ dài đề-ca-mét, héc-tô-mét trong BT6.
- Sử dụng ê-ke và chuyển đổi đơn vị đo độ dài đề-ca-mét, héc-tô-mét ra mét thành
thạo
- Tự giác làm bài và chia sẻ với bạn, tự đánh giá được kết quả bài làm
Hoàn thành các bài tập bổ sung sau và đổi phiếu chia sẻ với bạn:
Bài 1: Dùng ê-ke kiểm tra số góc vuông trong hình bên và điền vào chỗ chấm.


A
Có .......góc vuông

B
O

D

C

Bài 2: Viết kết quả vào chỗ chấm :
a) 4dam5m = ........m
b) 8hm3m = .........m
*Đánh giá :
- Biết sử dụng ê-ke để kiểm tra, nhận biết đúng góc (vuông, không vuông) trong
BT1(Có 6 góc vuông)
- Biết quan hệ giữa đơn vị đo độ dài đề-ca-mét, héc-tô-mét, mét và biến đổi đúng
đơn vị đo độ dài đề-ca-mét, héc-tô-mét ra mét trong BT2:
a) 45m
b) 830m
- Tư duy linh hoạt, sáng tạo, tự làm được bài và biết chia sẻ kết quả với bạn.

B. HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG
Luyện tập sử dụng ê-ke để kiểm tra, nhận biết góc (vuông, không vuông)
và vẽ góc vuông.
PHIẾU HỌC TẬP
Hoàn thành các bài tập sau và đổi phiếu chia sẻ với bạn:
Bài 1: Dùng ê-ke kiểm tra số góc vuông trong hình bên và điền vào chỗ chấm.
A
B

Có .......góc vuông

O
D

Bài 2: Viết kết quả vào chỗ chấm :
a) 4dam5m = ........m

C

b) 8hm3m = .........m

Câu 3: Thầy (cô) hãy trình bày kết quả bồi dưỡng một Module mà mình
tâm đắc và vận dụng có hiệu quả nhất trong năm học 2018 - 2019.
Trả lời:
Trong năm học 2018 - 2019, Module mà tôi tâm đắc và vận dụng có hiệu
quả nhất là Module TH32: Dạy học phân hóa ở Tiểu học. Module TH32 trang bị
cho tôi những hiểu biết cơ bản về dạy học phân hóa; phương pháp tiến hành dạy
học phân hóa và có kĩ năng tổ chức, kết hợp các điều kiện để dạy học phân hóa ở
tiểu học có hiệu quả:
1. Tầm quan trọng của việc dạy học phân hoá ở cấp tiểu học:



Quá trình dạy học gồm hai hoạt động có quan hệ hữu cơ: hoạt động dạy của
giáo viên (GV) và hoạt động học của HS. Cả hai hoạt động này đều được tiến hành
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục. Trong quá trình dạy học, cần dựa trên nhu cầu,
hứng thú, thói quen và năng lực của người học. Chính vì vậy, việc dạy học theo
nhóm đối tượng sẽ giúp cho tất cả HS đều tích cực học tập. Từ đó đạt được chuẩn
kiến thức, kĩ năng của bài học, đồng thời phát triển năng lực học tập của từng HS.
- Dạy học phân hóa sẽ giúp chúng ta khai thác tối đa năng lực của học sinh
khá giỏi.
- Dạy học phân hóa cũng sẽ giúp chúng ta phụ đạo, kèm cặp học sinh yếu
kém tiến bộ trong học tập.
- Tiến hành khảo sát, phân loại đối tượng học sinh ngay từ đầu năm học.
- Lập kế hoạch kèm cặp giúp đỡ và bồi dưỡng các em.
- Luôn quan tâm tới từng đối tượng học sinh, phát huy khả năng học tập của
từng em.
- Trong mỗi tiết học ( tiết chính ) giáo viên cần phải chú ý tới các đối tượng
học sinh . Học sinh yếu đưa các câu hỏi dễ nhằm tạo hứng thú và giúp các em nắm
dược các kiến thức cơ bản của môn học. Với học sinh khá giỏi đưa thêm câu hỏi
mở rộng để phát huy khả năng sáng tạo của các em.
- Tiết Bồi dưỡng – phụ đạo mà dạy nội dung toán cần được GV nghiên cứu
kĩ từ khâu soạn bài. Bài soạn cần thể hiện rõ nội dung phân hoá đối tượng học sinh.
2. Phương pháp thực hiện dạy học phân hoá đối tượng ở một số môn học
ở tiểu học.
Như chúng ta đã biết, đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) ở tiểu học tập
trung theo những định hướng cơ bản: Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của HS; hình thành và phát triển khả năng tự học cho HS; đảm bảo tính phù hợp
với đối tượng giáo dục và đặc điểm vùng, miền; đảm bảo tính trực quan; thực hiện
dạy học tích hợp… nhằm khơi dậy hứng thú học tập cho HS.
Ở tiểu học, đảm bảo tính phù hợp với đối tượng giáo dục là tôn trọng sự phát

triển của mỗi cá nhân, tạo cơ hội phát triển tối đa khả năng cho mỗi người học qua
dạy học phân hoá, bồi dưỡng HS có năng lực, phụ đạo HS yếu, HS có khó khăn
trong học tập… Chấp nhận sự đa dạng trong giáo dục thể hiện tính nhân văn của
GDTH. Tính phù hợp trong dạy học ở tiểu học còn thể hiện ở sự phù hợp với đặc
trưng môn học, hoạt động giáo dục; phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
lớp học, của nhà trường, của địa phương…
Phương pháp thực hiện dạy học phân hoá đối tượng ở một số môn học ở tiểu
học gắn liền với việc tổ chức dạy học. Tổ chức dạy học ở tiểu học linh hoạt, đa
dạng phù hợp với mỗi đối tượng HS và điều kiện của nhà trường. Có thể tổ chức
học theo cá nhân, theo nhóm, theo lớp; có thể học trong lớp hoặc ngoài lớp; có thể
chuẩn bị bài ở nhà hay sinh hoạt theo các câu lạc bộ… giúp HS học tập hứng thú
và đạt kết quả cao. Ví dụ, có thể tổ chức theo hướng các hoạt động giáo dục trên cơ
sở phù hợp khả năng và nhu cầu của HS, chia HS theo các nhóm: Nhóm củng cố
kiến thức; nhóm bồi dưỡng năng khiếu, sở thích; nhóm phát triển thể chất; nhóm
phát triển nghệ thuật; nhóm hoạt động xã hội… Nên dành thời gian thích đáng cho
việc tự học của HS với sự hướng dẫn, giúp đỡ thích hợp của GV. Tất cả hướng vào
mục tiêu phát triển toàn diện cho HS.
Như vậy, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học ở tiểu học phải phù hợp


với nội dung, đối tượng, điều kiện cụ thể của mỗi lớp học. GDTH thực hiện mục
tiêu dạy chữ - dạy người, hướng tới mục tiêu phát triển con người toàn diện. Với
mục tiêu đó, GV cần có cách nhìn tổng thể, tích hợp các nội dung giáo dục của các
môn học, giải quyết hài hoà các nhiệm vụ học tập, đó cũng chính là giải pháp tối
ưu để đạt chất lượng, hiệu quả giáo dục ở tiểu học.
3. Các điều kiện để thực hiện hiệu quả việc dạy học phân hoá ở tiểu học:
a. Sơ lược một số vấn đề về cơ sở lí luận
Theo tác giả Nguyễn Bá Kim, DHPH có thể được thực hiện theo hai hướng:
“DHPH trong” và “DHPH ngoài”. DHPH trong (hay còn gọi là phân hóa nội tại) là
sử dụng những biện pháp phân hóa thích hợp với các đối tượng khác nhau trong

cùng một lớp học, trong cùng khoảng thời gian, đảm bảo thống nhất một chương
trình và kế hoạch dạy học. Nhìn bề ngoài “DHPH trong” không có gì khác biệt so
với các lớp học thông thường. “ DHPH ngoài” là sử dụng những biện pháp phân
hóa thích hợp để phân hóa rõ rệt về nội dung và cả hình thức tổ chức dạy học, tức
là hình thành những nhóm ngoại khóa, lớp chọn, trường chuyên, sử dụng chương
trình chuyên biệt, nội dung và kế hoạch
dạy học không lệ thuộc chặt chẽ vào SGK.
Trong thực tiễn DH hiện nay, thường có hai hình thức DHPH gọi là “DHPH
trung gian” và “DHPH bộ phận”. DHPH trung gian là DHPH dựa trên sự thống
nhất của mục tiêu dạy học cho tất cá các đối tượng HS. HS có thể chọn một môn
học hay lĩnh vực học tập mà mình ưa thích hoặc có sở trường để học chuyên sâu
theo chương trình và tài liệu riêng. Hình thức này ở tiểu học được gọi là dạy học
theo chương trình tự chọn. DHPH bộ phận là DHPH diễn ra ở cấp độ tổ chức hoạt
động dạy học. Trong cùng một nội dung học tập, GV vận dụng các phương pháp và
kĩ thuật dạy học tích cực để tạo cơ hội cho HS được học tập phù hợp với nhịp độ
phát triển của cá nhân, nhằm đạt hiệu quả học tập cao nhất ở mỗi HS. Như vậy có
thể coi DHPH trung gian là một cấp độ của DHPH ngoài và DHPH bộ phận là một
cấp độ của DHPH trong.
* Quy trình thực hiện DHPH ở tiểu học thường diễn ra như sau: Đánh giá,
phân loại trình độ, năng lực học tập của HS. Xây dựng kế hoạch, nội dung và lựa
chọn hình thức, phương pháp dạy học cho phù hợp với từng nhóm đối tượng hoặc
từng đối tượng đặc biệt. Tổ chức triển khai thực hiện. Kiểm tra, đánh giá và điều
chỉnh, hoàn thiện.
b. Một số khó khăn trong thực tiễn hiện nay khi thực hiện dạy học phân hóa
Qua trực tiếp làm công tác giảng dạy và qua trao đổi với các đồng nghiệp,
tôi đã tổng hợp được một số khó khăn khi tiến hành dạy học phân hóa như sau:
- Sĩ số lớp học hiện nay khá đông (mỗi lớp thường trên dưới 30 HS), nên
việc dạy học phù hợp với từng đối tượng HS rất khó. Chưa kể đến việc HS có thể
học tốt môn này nhưng chưa tốt môn khác nên cần phải có nhiều cách chia nhóm,
phân loại đối tượng HS phù hợp theo từng môn học.

- Cơ sở vật chất còn thiếu thốn; thiếu chương trình, tài liệu tham khảo; thiếu
phương tiện kĩ thuật, đồ dùng dạy học,...
- Trình độ đào tạo và năng lực sư phạm của đội ngũ GV tiểu học hiện nay
chưa đồng đều, chưa có nhiều GV có năng lực và kinh nghiệm trong việc DHPH.
- GV tiểu học phải dạy nhiều môn nên khó khăn trong việc chuẩn bị kế
hoạch bài dạy theo định hướng phân hóa.


- Có thể xuất hiện những biểu lộ mất tự tin hay mặc cảm về tâm lí đối với
HS đầu cấp khi bị xếp vào nhóm yếu, kém cũng như tâm lí lo lắng của phụ huynh
HS.
Để khắc phục những khó khăn trong thực tiễn nói trên, cần phải kết hợp
nhiều giải pháp tổng thể như điều chỉnh sĩ số lớp học; tăng cường cơ sở vật chất,
phương tiện dạy học; tổ chức biên soạn chương trình, nội dung; bồi dưỡng chuyên
đề cho đội ngũ GV, tăng cường học liệu cho HS.... Trong đó cần ưu tiên cho việc
nâng cao năng lực nghề nghiệp GV, hỗ trợ cho GV những nghiệp vụ sư phạm để
DHPH có hiệu quả là cần thiết.
c. Một số biện pháp về nghiệp vụ sư phạm để thực hiện dạy học phân hóa ở
tiểu học đạt hiệu quả
Trong từng công đoạn của tiến trình DHPH như đã trình bày ở trên, GV cần
thực hiện những biện pháp về nghiệp vụ sư phạm như sau:
* Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra để đánh giá, chẩn đoán, phân loại đối
tượng HS theo trình độ
- Kết hợp kiểm tra định kì, kiểm tra thường xuyên và quan sát lớp học: GV
cần thận trọng khi đưa ra kết luận một HS nào đó thuộc nhóm trình độ nào. Do vậy,
cần phải kết hợp nhiều hình thức kiểm tra trong dạy học để có kết quả khách quan
và chính xác. Ngoài việc kiểm tra định kì và kiểm tra thường xuyên, GV nên có sổ
tay ghi chép kết quả quan sát, theo dõi hàng ngày, trong đó lưu ý đến những trường
hợp đặc biệt, hoặc quá xuất sắc hoặc quá yếu để tiến hành DHPH phù hợp.
- Kết hợp kiểm tra độ khó và độ nhanh, tăng cường cho HS tự đánh giá:Hiện

nay, GV thường chỉ thiết kế đề kiểm tra theo độ khó. Để có thể phân loại sâu hơn,
GV thiết kế đề kiểm tra kết hợp độ khó và độ nhanh, tức là tăng số lượng bài tập
trong mỗi lần kiểm tra, kết quả đánh giá không theo thang điểm 10 mà là GV ghi
nhận trong cùng một khoảng thời gian đó, HS làm đúng được bao nhiêu bài. Cách
làm này khuyến khích HS phát huy hết khả năng của mình đồng thời có thể tự
đánh giá khả năng của mình so với các bạn.
*Phân bậc nhiệm vụ trong thiết kế kế hoạch bài dạy
Phân bậc nhiệm vụ học tập đối với nội dung mang tính lí thuyết:Kĩ thuật cơ
bản cho việc thiết kế này là chia nhỏ nội dung học tập ra thành nhiều nhiệm vụ. HS
khá, giỏi sẽ thực hiện nhiệm vụ khó hơn hoặc nhiều nhiệm vụ hơn hoặc thực hiện
không có sự hướng dẫn. HS TB hoặc yếu sẽ thực hiện ít nhiệm vụ, đơn giản hơn
hoặc ít hơn, hoặc được những chỉ dẫn, hỗ trợ nhiều hơn.
Khi tổ chức DHPH nội dung thực hành luyện tập và sửa bài tập, thường yêu
cầu cao về năng lực tổ chức và quản lý lớp học của người GV. Do đó GV cần dự
kiến về thời gian và biện pháp sao cho phù hợp nhất để phát huy khả năng của từng
HS.
* Linh hoạt trong tổ chức hoạt động nhóm khi dạy học phân hóa
Tùy theo mục tiêu dạy học, việc chia nhóm có thể theo nhiều cách: Nhóm
đôi (nhóm đối ngẫu), nhóm ngẫu nhiên, nhóm hỗn hợp và nhóm phân theo trình
độ. Trong dạy học phân hóa, nhóm hỗn hợp được sử dụng khi nhiệm vụ của các
nhóm là như nhau, với mục đích là HS giỏi sẽ giúp đỡ HS yếu hơn. Nhóm theo
trình độ được sử dụng khi mức độ yêu cầu của nhiệm vụ từng nhóm khác nhau,
như ví dụ nêu ở trên hoặc trong thực hành giải bài tập để mỗi nhóm được yêu cầu
làm những bài tập với độ khó khác nhau.


* Giao tiếp trong dạy học phân hóa
Đối với GV, lời nói của GV trong dạy học hoặc giao tiếp với HS rất có ý
nghĩa vì đặc điểm tâm lí cơ bản của lứa tuổi này là vô tư và hồn nhiên, các em đặt
rất nhiều niềm tin vào giáo viên. Do vậy, GV cần có kĩ thuật nói rõ ràng, tốc độ

vừa phải, dễ nghe, thân thiện nhưng nghiêm túc và luôn khuyến khích. Không nên
gay gắt hay nặng lời với những HS yếu kém. Với mỗi trường hợp, cần tìm hiểu
nguyên nhân để có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ HS phù hợp.
Đối với HS, GV nên khuyến khích HS nói lại bằng ngôn ngữ của mình khi
hiểu một nội dung học tập nào đó. Ví dụ như mô tả lại cách hiểu các mối quan hệ
trong một bài toán, cách thực hiện các bước giải một bài toán, ... để giúp HS hiểu
sâu sắc và ghi nhớ tốt hơn, đồng thời giúp GV có cơ sở để đánh giá HS trung thực
hơn.
*Kết quả vận dụng trong dạy học sau khi bồi dưỡng module TH32:
Sau khi bồi dưỡng module TH32, tôi đã tiến hành thực hiện dạy học phân
hóa trong các tiết dạy Toán, Tiếng Việt tại lớp chủ nhiệm. Tôi không chỉ vận dụng
trong các tiết dạy hình thành kiến thức mới mà còn vận dụng rất hiệu quả trong các
tiết ôn luyện vào buổi thứ hai trong ngày. Phương pháp dạy học phân hóa đã giúp
tôi phát huy tối đa sự chủ động, sáng tạo, khả năng tìm tòi khám phá của đối tượng
HS khá, giỏi mà còn giúp tôi phát huy tốt hiệu quả trong việc kèm cặp, phụ đạo
giúp HS yếu, trung bình nắm kiến thức cơ bản và lấp lỗ hỏng kiến thức. Vào đầu
năm học, đối tượng HS khá, giỏi lớp tôi chưa thành thạo tron việc giải các bài tập
khó, nâng cao nhưng cuối năm đã giải thành thạo và có khả năng tư duy sáng tạo
rất tốt. Qua khảo sát đầu năm, lớp tôi cũng có 5 em chưa hoàn thành và có dấu hiệu
bị hỏng kiến thức lớp dưới nhưng sau khi vận dụng phương pháp dạy học phân hóa
tôi đã tích cực kèm cặp, hỗ trợ và giúp các em theo kịp các bạn trong lớp, cuối năm
các em đều hoàn thành các môn học và hoạt động giáo dục, hoàn thành chương
trình lớp học.

III. Nội dung bồi dưỡng 3
Các Module bồi dưỡng trong năm học (TH02, TH32, TH 43, TH45), tôi thấy
tâm đắc và vận dụng có hiệu quả trong năm học là Module TH 32 - Dạy học phân
hóa đối tượng học sinh ở Tiểu học.
Bám sát mục tiêu giáo dục tiểu học, nhiệm vụ của giáo dục tiểu học, khái niệm
của dạy học phân hóa, ý nghĩa của việc dạy học phân hoá ở cấp tiểu học và phương

pháp thực hiện dạy học phân hoá đối tượng ở một số môn học ở tiểu học. Đặc biệt
là bám sát vào chỉ tiêu, biện pháp của nhà trường, tổ chuyên môn và chỉ tiêu đăng
kí của lớp 2.1 trong năm học 2018- 2019, tôi đã áp dụng các phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học và các khâu tiến hành dạy học phân hóa ở một số môn học cụ
thể đó là môn Toán, Tiếng Việt như sau:
1. Tiến hành khảo sát, phân loại đối tượng học sinh ngay từ đầu năm học.
*Đối tượng học sinh nổi trội.
- Môn Tiếng Việt : HS đọc đúng, to, rõ ràng, ngắt nghỉ lấy hơi đúng chỗ, bước
đầu thể hiện được giọng đọc, viết đảm bảo tốc độ, tìm từ, đặt câu nhanh, viết được
đoạn văn ngắn giàu hình ảnh.


- Môn Toán : Kĩ năng làm tính, giải toán, tìm thành phần chưa biết của phép
tính,… đúng, nhanh. Ngoài ra làm được một số dạng bài tập nâng cao từ kiến thức
đã đxược học.
Kết quả khảo sát chất lượng của lớp đầu năm học 2018 - 2019 và những em có
khả năng phát triển trong qua sự theo dõi đề nghị của các giáo viên năm trước).
Thực trạng của đối tượng học sinh nổi trội:
- Môn Tiếng Việt:
+ Lượng kiến thức về phân môn Tiếng Việt đối với HS lớp 2 quá nhiều. Các
hoạt động về tìm từ, các mẫu câu, viết đoạn văn đây là năm đầu tiên các em được
làm quen nên các em rất mơ hồ.
+ Một số từ trong các bài được học khó hiểu, do đó các em chậm trong việc tìm
và hiểu các từ ngữ.
+ Kĩ năng viết câu, đoạn văn của HS chưa tốt.
- Môn Toán
+ Do đặc điểm lứa tuổi, khả năng tư duy của các em chưa cao nên việc giải các
bài toán nâng cao còn rất chậm.
+ HS chưa biết cách dựa vào kiến thức cơ bản để triển khai, mở rộng trong
cách giải và các bước giải.

+ Chưa biết lí luận, dẫn dắt khi làm các bài tập có nhiều bước giải.
+ Các bài tập được GV hướng dẫn làm các em lại hay quên nếu không được
giải nhiều lần.
+ Khả năng nhận dạng bài tập thuộc kiến thức bài học còn chậm.
*Đối tượng học sinh còn hạn chế
- Lớp 21 có tổng số 37 em.
- Đối tượng HS trong lớp (Từ đầu năm học 2018 - 2019, HS đọc, viết tìm từ,
viết đoạn văn còn chậm, tiếp thu Toán còn hạn chế).
Thực trạng của đối tượng học sinh còn hạn chế:
Đặc điểm chung của các em mức độ tiếp thu bài rất chậm, khả năng nhận diện,
ghi nhớ vần còn hạn chế, chữ viết không đúng mẫu, chưa đúng khoảng cách, đọc
còn đánh vần; tìm từ, đặt câu, viết đoạn văn còn quá mơ hồ. Kĩ năng tính, giải toán
còn chậm; chưa biết vận dụng kiến thức đã học vào làm toán, ít chú ý xây dựng
bài, về nhà không ôn bài cũ, không chuẩn bị bài mới, có thói quen nhìn bài bạn
mỗi khi làm bài tập, không tích cực trong hoạt động nhóm; năng lực tự học, tự giải
quyết vấn đề còn hạn chế,...
2. Áp dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và các khâu tiến
hành dạy học phân hóa ở một số môn học (Toán, Tiếng Việt)
- Lập kế hoạch kèm cặp giúp đỡ và bồi dưỡng các em.
- Tiết Bồi dưỡng – phụ đạo mà dạy nội dung toán cần được GV nghiên cứu kĩ
từ khâu soạn bài. Bài soạn cần thể hiện rõ nội dung phân hoá đối tượng học sinh.
2.1. Dạy học phân hóa trong giờ học chính khóa.
- Lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền tảng.
- Tìm cách đưa đối tượng HS còn hạn chế theo kịp trình độ chung.
- Tìm cách đưa diện học sinh nổi trội đạt những yêu cầu nâng cao trên cơ sở đã
đạt được những yêu cầu cơ bản.
Trong giờ học chính khóa, tôi thường sử dụng những hình thức phân hóa sau:


+ Đối xử cụ thể ngay trong những giờ dạy học đồng loạt dựa trên trình độ phát

triển chung.
Ví dụ: GV giao nhiệm vụ phù hợp với từng loại đối tượng, khuyến khích học
sinh hạn chế khi các em tỏ ý muốn trả lời câu hỏi, phân hóa việc giúp đỡ, kiểm tra
và đánh giá học sinh.
+ Ra bài tập có phân bậc hoặc ra thêm bài tập để đào sâu, nâng cao cho HS nổi
trội.
+ Phân hóa sự giúp đỡ của GV, HS còn hạn chế được giúp đỡ nhiều hơn học
sinh nổi trội.
+ Tác động qua lại giữa các học sinh, lấy chỗ mạnh của học sinh này để điều
chỉnh nhận thức cho học sinh khác.
+ Phân hóa bài tập vận dụng về nhà theo số lượng bài tập, theo nội dung bài
tập, theo yêu cầu về tính độc lập. Ra riêng bài tập cho học sinh còn hạn chế và ra
riêng bài tập cho học sinh nổi trội.
Cụ thể:
*Đối với môn Tiếng Việt
+ GV tìm thêm tài liệu để cung cấp cho các em thêm các dạng về tìm từ, đặt
câu theo mẫu Ai- là gì? Ai- làm gì? Ai- thế nào? Các câu hỏi gợi ý để các em dựa
vào đó trình bày đoạn văn ngắn,... . Hướng dẫn các em cách học (theo quy trình 4
việc).
+ HD các em nắm vững các dấu hiệu của câu và cách vận dụng.
+ Luyện kỹ năng làm các bài tập về thực hành ngữ âm và thực hành chính tả.
+ Đọc kĩ đề bài, nắm chắc yêu cầu của bài tập. Hướng dẫn các em nắm vững:
đề bài yêu cầu trả lời được điều gì? Cần nêu bật được ý gì?
*Đối với môn Toán:
- Với mỗi bài tập nâng cao, hướng dẫn HS nhận diện được dạng bài tập đó
thuộc phạm vi kiến thức nào, từ đó, dựa vào kiến thức cơ bản để triển khai, mở
rộng các bước giải.
Ví dụ: Bố năm nay 34 tuổi, bố hơn con 26 tuổi. Hỏi con năm nay bao nhiêu
tuổi?
+ Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề toán, xác định bài toán thuộc dạng toán

gì đã học. ( Bài toán về ít hơn).
+ Khi học sinh đọc và xác định đúng dạng toán, các em dễ dàng đặt lời giải, lập
phép tính để giải bài toán đó.
- Với các bài tập có nhiều bước giải, GV hướng dẫn cụ thể dựa vào các dữ kiện
của bài toán để các em hiểu và biết cách lí luận, dẫn dắt theo từng bước.
- Mỗi dạng bài tập, GV cho HS giải nhiều lần; thường xuyên ôn tập, củng cố để
các em nhớ kĩ và khỏi nhầm lẫn giữa dạng này với dạng khác.
2.2. Hoạt động ngoại khóa
Kết hợp với GV Tổng phụ trách Đội trong nhà trường, các tiết sinh hoạt Sao
nhi đồng cuối tuần, các giờ đọc sách,... để cho HS tham gia các hoạt động lĩnh hội
kiến thức, thực hành kĩ năng nhằm gây hứng thú cho các em học tập bộ môn, đào
sâu mở rộng kiến thức.
2.3. Bồi dưỡng học sinh nổi trội
Trong quá trình học tập một môn học, có những học sinh có trình độ kiến thức,
kĩ năng và tư duy vượt trội so với các học sinh khác, có khả năng hoàn thành


nhiệm vụ môn học một cách dễ dàng. Việc bồi dưỡng cho đối tượng HS này được
tiến hành trong những giờ học đồng loạt bằng những biện pháp phân hóa, mặt khác
được thực hiện bằng cách bồi dưỡng tách riêng trên nguyên tắc tự nguyện.
Nội dung bồi dưỡng HS nổi trội bao gồm:
- Nghe thuyết trình những tri thức bộ môn bổ sung cho nội khóa.
- Giải những bài tập nâng cao.
- Thực hành và ứng dụng môn học.
- Làm nồng cốt cho những sinh hoạt ngoại khóa bộ môn.
- Đưa thêm câu hỏi mở rộng để phát huy khả năng sáng tạo của các em.
2.4. Giúp đỡ những học sinh còn hạn chế
Trước những yêu cầu dạy học đồng loạt của bộ môn, một số học sinh gặp khó
khăn, kết quả kiểm tra thường xuyên ở mức dưới trung bình. Sự hạn chế học tập
một bộ môn có nhiều biểu hiện, trong đó có các biểu hiện cơ bản: Nhiều lỗ hỏng về

kiến thức, kĩ năng; tiếp thu chậm; phương pháp học tập bộ môn chưa tốt.
Việc giúp đỡ học sinh hạn chế một bộ môn được tiến hành bên cạnh những giờ
học đồng loạt bằng các biện pháp phân hóa, đồng thời cần tách riêng diện học sinh
này để giúp đỡ vào cuối buổi học.
Nội dung giúp đỡ đối tượng học sinh còn hạn chế tôi thường thực hiện theo các
hướng:
- Luyện tập vừa sức (gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại và mức độ, sử
dụng bài tập phân bậc)
- Đưa các câu hỏi dễ nhằm tạo hứng thú và giúp các em nắm dược các kiến
thức cơ bản của môn học.
- Lấp "lỗ hỏng" về kiến thức và kĩ năng.
- Đảm bảo nhứng tiền đề về kiến thức, kĩ năng cho những tiết lên lớp.
- Bồi dưỡng phương pháp học tập bộ môn.
Cụ thể:
- Đối với môn Toán:
+ Đưa ra các dạng bài toán giải đơn giản với con số nhỏ (có đồ dùng minh họa)
để em dễ hình dung, hướng dẫn cách tìm các bước giải và cách đặt lời giải phù hợp
với phép tính.
+ Hướng dẫn cách đọc kĩ các dạng toán trước khi làm bài.
+ Rèn thói quen tính toán cẩn thận, chính xác.
- Đối với môn Tiếng Việt:
+ Luyện kĩ năng đọc to, rõ ràng, ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ, đọc đúng tốc độ.
Khuyến khích các em đọc có diễn cảm.
+ Luyện kĩ năng tìm từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động, từ chỉ đặc điểm, từ trái
nghĩa và các mở rộng vốn từ thuộc chủ điểm đã học.
+ Luyện viết chữ đúng mẫu chữ, viết đảm bảo tốc độ.
+ Luyện đặt câu theo mẫu: Ai – là gì? Ai – làm gì? Ai – thế nào?...
+ Luyện viết đoạn văn ngắn.
Ngoài việc hỗ trợ, giúp đỡ các em tiếp thu kiến thức, GV đặc biệt chú ý đến
các vấn đề :

- Thương yêu quan tâm, động viên, nhắc nhở, nắm bắt cụ thể hướng phấn đấu
của em vì mục tiêu, kế hoạch chung của lớp, của trường…
- Động viên, khích lệ, tuyên dương kịp thời.


2.5. Thực hiện các khâu tiến hành dạy học phân hóa ở lớp học
- Đánh giá, phân loại học sinh:
Tìm hiểu đối tượng, thấy được ưu điểm và mặt hạn chế còn tồn tại của đối
tượng dạy học. Đây là cơ sở để xác định mục tiêu dạy học hợp lí, phù hợp với đối
tượng. Để thực hiện tốt khâu đầu tiên này, tôi đã kết hợp linh hoạt và đa dạng các
hình thức kiểm tra để đánh giá, chẩn đoán, phân loại đối tượng học sinh theo trình
độ cụ thể.
+ Kết hợp kiểm tra định kì, kiểm tra thường xuyên và quan sát lớp học. Trong
qua trình dạy học, tôi luôn dùng sổ tay ghi chép kết quả quan sát, theo dõi hàng
ngày, trong đó lưu ý đến những trường hợp đặc biệt để tiến hành phân hóa phù
hợp.
+ Kết hợp kiểm tra độ khó và độ nhanh, tăng cường cho học sinh tự đánh giá.
Cách làm này đã khuyến khích học sinh phát huy hết khả năng của mình đồng
thời có thể tự đánh giá khả năng của mình so với các bạn.
- Xác định mục tiêu cho nhóm đối tượng hoặc từng đối tượng đặc biệt.
- Lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức cho các nhóm đối tượng,
cho từng đối tượng.
- Tổ chức thực hiện theo mục tiêu đã xác định với các nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức đã lựa chọn.
- Kiểm tra, đánh giá và tổ chức cho học sinh tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả
học tập (hoạt động) của các nhóm đối tượng. Khâu này cũng đã giúp cho GV thu
được những thông tin ngược ý nghĩa để có sự điều chỉnh kịp thời và hiệu quả.
- Điều chỉnh, hoàn thiện chương trình, phương pháp, cách thức dạy học phân
hóa đã tiến hành để thu được hiệu quả cao hơn trong những lần tiếp theo.
3. Kết quả đạt được.

*Chất lượng HSNK:
Đạt 2 giải Nhì, 1 giải ba, hội thi chữ viết cấp trường.
Đạt 1 giải ba vẽ tranh tập thể.
Đạt 1 giải nhất về phần thi kiến thức trong ngày hội HS Tiểu học cấp trường.
*Chất lượng đại trà:

Toán

Kết quả
Số
HS Đạt điểm Đạt điểm
Đạt
Đạt
TS
được
9 ; 10
7;8
điểm
điểm
HS
đánh
5;6
3;4
giá SL %
SL %
SL % SL %
37
37
27 73,0 8 21,6 1 2,7 0
0


T. Việt

37

Khối
lớp

37

26

70,3

9

24,3

1

2,7

0

0

Đạt
Ghi
điểm
chú

1;2
SL %
1 2,7
1

2,7

Như vậy nhìn vào kết quả đạt được ở trên, một lần nữa khẳng định rằng, dạy
học phân hóa đối tượng mà bản thân tôi đã áp dụng đã mang lại hiệu quả. Chất
lượng học tập của các em ngày càng tiến bộ. Nhiều em đã phát huy hết được năng
lực sở trường của mình.



×