Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở huyện ứng hòa, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.18 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ TÁCH

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG Ở HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2019



VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ TÁCH

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG Ở HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

Ngành: Triết học
Mã số: 8 22 90 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ HOÀI



HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi; các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực
và có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Tách


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................. 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG................................................................ 7
1.1. Khái niệm đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông.........7
1.2. Học sinh trung học phổ thông và vai trò của giáo dục đạo đức đối với học
sinh trung học phổ thông................................................................................................................. 12
Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI HIỆN NAY................................................................................................................................ 31
2.1. Khái quát về huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội và đặc điểm của học sinh
trung học phổ thông trên địa bàn huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội........................... 31
2.2. Những thành tựu và hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội hiện nay.............................39
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở

HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY.......................................... 56
3.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực của các chủ thể trong giáo
dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở huyện Ứng Hòa, thành phố
Hà Nội hiện nay.................................................................................................................................. 56
3.2. Đổi mới chương trình, nội dung, phương thức giáo dục đạo đức cho học
sinh trường trung học phổ thông ở huyện Ứng Hòa cho phù hợp với mục đích
giáo dục.................................................................................................................................................. 62
3.3. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, đồng bộ ở các trường trung
học phổ thông ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội hiện nay......................................... 66
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 75


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
2

Chữ viết tắt
GDCD

Chữ viết đầy đủ
Giáo dục công dân

1

GDĐĐ

Giáo dục đạo đức

3


GDĐT

Giáo dục đào tạo

4

THPT

Trung học phổ thông

5

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tỉ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm qua các năm học......................................... 40
Bảng 2.2: Kết quả xếp loại học lực và đỗ tốt nghiệp các trường THPT ở huyện
Ứng Hòa................................................................................................................................... 42
Bảng 2.3: Tự đánh giá của học sinh về thực hiện tốt những chuẩn mực đạo đức
xã hội......................................................................................................................................... 44


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta hiện nay đang ở trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng văn minh,

vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đó, điều quan trọng
là phải xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, cả về chính trị tư tưởng,
trí tuệ, đạo đức, lối sống cũng như thể chất. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng đã khẳng định “Phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản,
mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả của giáo dục và đào tạo, đáp ứng ngày càng tốt
hơn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo
dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả
năng sáng tạo của mỗi cá nhân, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt
và làm việc hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2030 nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ
tiên tiến trong khu vực”[19, tr.115].
Trong quá trình giáo dục thế hệ trẻ là học sinh, sinh viên hiện nay, Đảng ta luôn
quan tâm đến phát triển toàn diện mọi mặt Đức - Trí - Thể -Mỹ, cùng các kỹ năng
cơ bản góp phần hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Trong đó giáo dục đạo đức được coi là yếu tố hàng đầu, là nền tảng để hình
thành nhân cách của con người. Vì vậy việc giáo dục đạo đức cho học sinh được xác
định là một quá trình lâu dài, xuyên suốt trong quá trình giáo dục. Nó đòi hỏi có sự
phối hợp chặt chẽ của gia đình – nhà trường - xã hội. Muốn đưa đất nước sánh vai
cùng các nước trên thế giới thì phải đào tạo ra lớp người đủ “trí” và “đức”. Những
lớp người đó không ai khác chính là thế hệ trẻ những học sinh, sinh viên đang ngồi
trên ghế nhà trường, họ phải được trang bị đủ về đức và tài để trở thành chủ nhân
tương lai của đất nước. Cho nên việc giáo dục đạo đức cho học sinh trở thành một
trong những mục tiêu chính của giáo dục phổ thông, được xem là nền tảng, gốc rễ
để tạo ra nội lực tiềm tàng vững chắc cho các mặt giáo dục khác.
Trong những năm qua, xã hội có sự chuyển biến không ngừng, sâu rộng và to
lớn về mọi mặt, trong đó giáo dục đạo đức nhằm xây dựng nền tảng đạo đức mới,
đạo đức trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy
được thế mạnh, đồng thời khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường. Bên cạnh tác
động tích cực, sự ảnh hưởng mặt trái nền kinh tế thị trường len lỏi vào môi trường

1



học đường tạo nên một vấn đề đáng lo ngại hiện nay, đó là sự suy thoái đạo đức
nghiêm trọng của một bộ phận học sinh. Biểu hiện của sự suy thoái đạo đức học
sinh đó là: có lối sống thực dụng, thiếu ước mơ và hoài bão, sống thiếu lý tưởng, xa
rời đạo đức truyền thống, tiếp thu thiếu chọn lọc lối sống từ bên ngoài, đua đòi học
hành sa sút... làm xói mòn nghiêm trọng giá trị truyền thống tốt đẹp đạo đức thanh
niên Việt Nam. Hơn nữa, sự du nhập văn hóa phương Tây với sản phẩm đồ trụy,
không lành mạnh thông qua các phương tiện như phim ảnh, game, internet... tác
động làm ảnh hưởng đến tâm, sinh lý của các em học sinh dẫn đến quan điểm về
tình bạn, tình yêu sai lầm. Tình trạng bạo lực học đường không chỉ đối với các em
nam sinh, mà còn có cả các em nữ sinh. Tất cả những biểu hiện đó cho thấy, sự lệch
lạc trong suy nghĩ và hành vi về nhân cách đạo đức học sinh, gióng lên hồi chuông
cần thức tỉnh, cảnh báo về lối sống, nhân cách của giới trẻ hiện nay.
Ứng Hòa là một huyện phía Nam của thành phố Hà Nội, có 28 xã và 1 thị trấn
với 5 trường THPT trên địa bàn. Ứng Hòa là một huyện có truyền thống hiếu học,
đa số học sinh trên địa bàn đều ngoan có ý thức học tập, bên cạnh đó còn một số học
sinh ý thức học tập và đạo đức chưa tốt, như vô lễ với thầy cô giáo, trốn học, nghiện
game, mắc vào các tệ nạn xã hội, bạo lực học đường… làm suy thoái và xói mòi
truyền thống hiếu học của huyện Ứng Hòa.
Chính vì vậy, việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nói chung và học sinh THPT
huyện Ứng Hòa nói riêng là việc làm quan trọng, cần thiết. Nó đòi hỏi phải có
những giải pháp thích hợp để khắc phục biểu hiện lệch lạc về đạo đức của học sinh
nhằm giúp các em phát triển hài hòa cả về tài và đức đáp ứng nguồn nhân lực ngày
càng cao để phát triển đất nước. Những lí do trên đây đã thôi thúc tôi chọn vấn đề
“Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở huyện Ứng Hòa, thành
phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức từ lâu đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên
cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau và nhiều công trình đã công bố, tiêu biểu như:


Cuốn sách “Đạo đức mới” của tác giả Vũ Khiêu nêu lên vấn đề đạo đức những
truyền thống đạo đức cao đẹp của dân tộc. Tác giả cho rằng “Nói tới đạo đức là nói

2


tới mối quan hệ giữa người với người, là nói tới thái độ, trách nhiệm và những quy
tắc xử lý mối quan hệ giữa bản thân mình và những người chung quanh, với gia
đình, với bạn bè, với làng xóm và đất nước, với giai cấp và loài người” [31, tr.13].
Tác giả Trần Văn Giàu với công trình “Giá trị tinh thần truyền thống của dân
tộc Việt Nam” [22]. Nội dung công trình này tập trung đi vào phân tích những giá trị
đạo đức truyền thống quý báu căn bản của dân tộc Việt Nam, từ đó đề xuất được
những giải pháp để kế thừa có chọn lọc, phát huy truyền thống tinh hoa của dân tộc
trong công cuộc xây dựng đất nước, giữ nước.
Trong cuốn “Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã
hội kinh tế” của tác giả Phạm Minh Hạc [25]. Ngoài việc luận giải khái niệm giáo
dục, nội dung chủ yếu đi sâu vào vị trí và vai trò của giáo dục đối với phát triển kinh
tế - xã hội, khẳng định nhân tố con người là nhân tố quyết định đối với việc phát
triển đất nước hiện nay. Vì vậy, để phát triển nhân tố con người thì cần chú trọng
việc giáo dục đào tạo con người có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu của đất
nước.
Cuốn sách “Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” của tác giả Trịnh Duy Huy [28]. Đã trình bày tác động của kinh tế
thị trường đối với đạo đức và hệ thống lý luận, thực trạng, giải pháp để xây dựng
đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Bài viết “Tình cảm đạo đức và giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện
nay” của tác giả Nguyễn Văn Phúc [52], đã đưa ra một cách nhìn khái quát về vai
trò của tình cảm đạo đức trong đời sống con người, trên cơ sở đó khẳng định sự cần
thiết phải giáo dục tình cảm đạo đức trong đời sống xã hội.

Công trình nghiên cứu” Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường
ở nước ta hiện nay” Nguyễn Trọng Chuẩn- Nguyễn Văn Phúc ( Đồng chủ biên)
(Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003), là một công trình tập hợp nhiều
bài tham luận của nhiều nhà khoa học, trong đó có bài viết “Vai trò của giáo dục
đạo đức đối với sự phát triển nhân cách trong cơ chế thị trường”. Tác giả Nguyễn Văn
Phúc cho rằng, nền kinh tế thị trường bên cạnh “những mặt tích cực còn gây ra những
hiện tượng tiêu cực tới nhân cách mỗi người. Do vậy, tính kiêu ngạo, thói phô trương,
sự đua đòi theo mốt một cách vô lối,…ích kỷ… là những hiện tượng thường thấy hiện
nay chúng che giấu sự nghèo nàn và méo mó về nhân cách”[53, tr. 220]. Cho nên giáo

3


dục đạo đức phải hình thành và củng cố trong con người một niềm tin sâu sắc vào
những giá trị đích thực và lâu bền của con người.” Tình thương, trách nhiệm, lương
tâm, sự trung thực và khiêm tốn…là những phẩm chất nhân cách không thể mua bán
được, không thể đổi thay được” [53, tr.221].
Trong cuốn”Đạo đức học” của tác giả Phạm Khắc Chương, Trần Văn Chương
[10] đã cho rằng học sinh là đối tượng là chủ thể của giáo dục đạo đức, muốn cho
công tác giáo dục thành công nhất định phải hiểu đối tượng và phải tôn trọng đối
tượng là một chủ thể, những tiềm năng quý giá như ‘Ham hoạt động, ham hiểu biết,
đòi hỏi được sự chủ động, độc lập sáng tạo, thích ứng tiếp thu cái mới…”
Cuốn sách “Giáo dục đạo đức với sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam
hiện nay” của Trần Sỹ Phán [51] tác giả cho rằng đạo đức có vai trò quan trọng đối
với sự phát triển nhân cách của mỗi con người, do vậy cần giáo dục đạo đức cho
sinh viên Việt Nam hiện nay và một số nội dung cơ bản cần giáo dục đạo đức cho
sinh viên, đồng thời để công tác giáo dục có hiệu quả thì phải có những quan điểm
định hướng và một số giải pháp cụ thể trong đó đề cập tới phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập và rèn luyện đó là yếu tố tự
giáo dục.

* Ngoài ra còn có một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về giáo dục đạo đức
cho học sinh.
Luận án “Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển nhân cách con người Việt
Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay” [63]. Tác giả bàn về vấn đề đạo đức và ảnh
hưởng của nền kinh tế thị trường đối với việc hình thành nhân cách con người Việt
Nam hiện nay. Đề cao vai trò của thế hệ trẻ đối với sự phát triển của đất nước, đồng
thời đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của đạo đức.
Luận án tiến sĩ Giáo dục học “Giáo dục lòng nhân nghĩa cho học sinh trung học
phổ thông trong giai đoạn hiện nay”của Nguyễn Xuân Thanh (2009) [58]. Trong
luận án này, tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục lòng
nhân nghĩa cho học sinh trung học phổ thông, trên cơ sở đó xác định hệ thống các
biện pháp giáo dục nhằm nâng cao kết quả giáo dục lòng nhân nghĩa cho học sinh
trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
Trong luận án tiến sĩ tâm lý học “Định hướng giá trị nhân cách của học sinh
trung học phổ thông” của Nguyễn Thị Mai Lan (2009) [34], tác giả đã xây dựng cơ

4


sở lý luận về định hướng phát triển nhân cách của học sinh THPT, đồng thời phân
tích các yếu tố tác động đến định hướng giá trị nhân cách của học sinh THPT, từ đó
đề xuất một số kiến nghị góp phần vào việc giáo dục nhân cách cho học sinh phổ
thông hiện nay.
Ở bài viết “Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức trong trường phổ thông hiện
nay” của Phạm Nguyên Nhung (2013) trong tạp chí Lý Luận chính trị [47], tác giả
đã khẳng định một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng giáo
dục trong trường phổ thông hiện nay là phải tăng cường có hiêụ quả việc giảng dạy
môn Giáo dục công dân - một môn học có ảnh hưởng trực tiếp đến việc cung cấp tri
thức đạo đức cũng như điều chỉnh hành vi đạo đức của học sinh.
Công trình “Một số vấn đề lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội” do Huỳnh

Khái Vinh chủ biên (2001) [65], tác giả chỉ rõ: Lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã
hội là những yếu tố cơ bản trong đời sống của mỗi con người, gắn liền với các cơ sở
kinh tế, chính trị, tư tưởng và mọi mặt của đời sống xã hội. Từ thực trạng tác động
của các yếu tố đó, tác giả đưa ra giải pháp để xây dựng lối sống, đạo đức, chuẩn giá
trị xã hội.
Có thể nói, các nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ được nội dung, tầm quan
trọng, cũng như đề xuất một số giải pháp thiết thực để giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Những kết quả nghiên cứu trên đã cung cấp thêm tài liệu tham khảo bổ ích để
chúng tôi thấy cần phải đi sâu nghiên cứu vấn đề “Giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội hiện nay”, qua đó luận giải
những đặc điểm có tính quy luật, đề xuất một số giải pháp cơ bản giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học phổ thông ở huyện Ứng Hòa. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan
trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của thành phố Hà Nội.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích và làm rõ thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở
Ứng Hòa, thành phố Hà Nội hiện nay.

5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
phổ thông.
- Phân tích vai trò và nội dung của giáo dục đạo đức đối với học sinh THPT.
- Làm rõ thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở huyện Ứng Hòa,

thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo
dục đạo đức cho học sinh THPT ở huyện Ứng Hòa – Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở
huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội từ năm 2013 cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích và
tổng hợp; phương pháp quy nạp, diễn dịch, phương pháp kết hợp logic và lịch sử,
phương pháp điều tra xã hội học, thống kê thực tế tại các trường THPT huyện Ứng
Hòa, thành phố Hà Nội hiện nay và các phương pháp chung của khoa học xã hội.
6.Ý nghĩa của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã hệ thống hóa và góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận về giáo dục
đạo đức cho học sinh THPT.
6.2 .Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, tài liệu nghiên cứu trong công
tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở Ứng Hòa, thành phố Hà Nội nói riêng,
toàn quốc nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn có kết cấu gồm 3
chương, 07 tiết.

6



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Khái niệm đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông

1.1.1 . Khái niệm đạo đức
Trong triết học phương Tây, khái niệm đạo đức bắt nguồn từ tiếng latinh là
“mos”, có nghĩa là lễ thói. “Moralis” có nghĩa là thói quen. Đạo đức theo tiếng gốc
của Hi Lạp cổ là “ethicos” cũng có nghĩa là thói quen, tập quán… Nói đến đạo đức
tức là nói đến những thói quen, tập quán, sinh hoạt và ứng xử của con người trong
cộng đồng, xã hội. Thời kỳ này, nội dung đạo đức học nổi tiếng bậc nhất ba vấn đề:
Thứ nhất, những phẩm hạnh như công bằng, dũng cảm, chân thực, trung thành,…
là gì? Thứ hai, những quy luật đạo đức có tính bắt buộc hay không, hay chúng chỉ
là có tính chất tương đối. Thứ ba, mục đích của cuộc sống và hạnh phúc con người.
Đến thế kỷ XVIII, tư tưởng đạo đức có bước tiến lớn nhờ tư tưởng của các nhà
duy vật Pháp, họ đã phát triển đạo đức duy vật và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống
lại đạo đức thần học tôn giáo. Họ đã kết luận: Con người không phải sinh ra là đã
có đạo đức mà đạo đức nảy sinh dưới sự tác động của môi trường xã hội, trước hết
là chính trị và pháp luật. Do vậy, con người cần thay đổi điều kiện xã hội nếu muốn
đạt đến đạo đức cao cả. Họ đã tìm thấy và nhận định bản chất đạo đức của con
người thể hiện ở mối quan hệ làm sao cho thỏa mãn lợi ích riêng và lợi ích chung.
Theo các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại cho rằng: Đạo có
nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người trong xã hội; đức dùng
để nói đến nhân đức, đức tính, nhìn chung đức là biểu hiện của đạo. Do đó, đạo đức
chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải
tuân theo.
Tư tưởng triết học của Nho giáo về đạo đức cá nhân chính là ngũ thường
“nhân – nghĩa – lễ - trí – tín” được coi là nòng cốt của nguyên tắc đạo đức, trong đó
lấy nhân làm gốc. Khổng Tử cho rằng “Người quân tử là người Nhân. Nhân là

người toàn đức. Nhân là thương người kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (có nghĩa là:
những gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác). Cho nên, “Nhân” ở đây
là đức tính toàn diện, là cái gốc đạo đức của con người, nên “Nhân” chính là đạo
làm người. Đức và tài phải đi đôi với nhau, nhưng Đức phải là gốc. Do đó, Khổng

7


Tử đã đề xuất đường lối “Đức trị” – đường lối trị nước bằng đạo đức mang đậm
dấu ấn của ông.
Kế thừa một cách khoa học và có chọn lọc những tư tưởng trước đây về đạo
đức, lần đầu tiên trong lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng học thuyết đạo
đức mang tính khoa học và cách mạng.
C. Mác và Ph. Ăngghen đưa ra quan niệm đạo đức của mình: “Đạo đức là sản
phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan, là sản phẩm của hoạt động thực
tiễn và nhận thức của con người. Những quan hệ người – người, cá nhân – xã hội càng
có ý thức, càng tự giác, ý nghĩa và hiệu quả của chúng càng có tính chất xã hội rộng
lớn thì hành động của con người càng có đạo đức. Đạo đức đã là một sản phẩm của xã
hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại” [38, tr. 43]. Ngoài ra các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin còn dự báo về sự xuất hiện của một nền đạo đức mới đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Đạo đức mới bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của giai
cấp vô sản, là đạo đức tiên tiến nhất trong lịch sử đạo đức xã hội. Nói về đạo đức cộng
sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng “Đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn
bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản
đang và tạo ra xã hội mới của những người cộng sản [49, tr.214].

Trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức
của nhân loại. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển và sáng tạo những giá trị đạo đức
mới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Theo Người, những chuẩn mực đạo đức cách
mạng Việt Nam thể hiện ở nội dung sau: trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, luôn yêu thương, quý trọng con người, sống có tình có

nghĩa và có tinh thần quốc tế trong sáng… Người quan niệm lấy đức làm gốc
không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đạo đức, coi nhẹ mặt tài. Tiêu chí để đánh giá
chính xác đạo đức là ở hành động, ở việc làm, và cách đối nhân xử thế. Đạo đức
phải được xem xét trong ba mối quan hệ cơ bản: với mình, với người và với công
việc. Do vậy quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức không phải là lý tưởng cao
xa, mà là những thái độ, hành vi, việc làm cụ thể của mỗi người, hằng ngày, hàng
giờ trong cuộc sống sinh hoạt, trong học tập, trong lao động và chiến đấu. Người đề
ra những nguyên tắc đạo đức đó để cho bản thân mình thực hiện, sau đó mới giáo
dục người khác. Người cho rằng, người thực sự có đạo đức thì bao giờ cũng cố
gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn thành nhiệm

8


vụ được giao. Tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ II, Người chỉ ra “Thanh niên
phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất
giỏi, nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm gì ích lợi cho xã hội mà
còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm
hại gì, nhưng cũng không có lợi gì cho loài người” [45, tr .172]. Người đưa ra
những phẩm chất cần thiết trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho Thanh
niên: trung với nước, hiếu với dân, tinh thần dũng cảm, hăng say trong lao động,
tinh thần đoàn kết, chống chủ nghĩa cá nhân…
Theo từ điển Tiếng việt “Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư
luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người với nhau và đối với
xã hội” [64, tr.12].
Theo G. Bendzeladze “Đạo đức của con người là năng lực phục vụ một cách tự
giác và tự do những người khác và xã hội. Nơi nào không có những hành động tự
giác của con người thì nơi đó không có nhân phẩm, không thể thực sự có đời sống
xã hội. Đặc trưng của đời sống con người và của bản thân tính người (hoặc nhân
phẩm) là ở đạo đức và nội dung của đạo đức. Chính là năng lực phục vụ tự nguyện,

tự giác lợi ích của người khác và của toàn xã hội. “[3, tr.104].
Trong giáo trình Đạo đức học Mác-Lênin do Vũ Trọng Dung chủ biên, tác giả cho
rằng “Đạo đức chính là phép ứng xử có nhân phẩm giữa người này với người khác
được điều chỉnh bằng dư luận xã hội. Đạo đức luôn luôn là quan hệ điều chỉnh các
hành vi của con người trong sinh tồn và giao tiếp xã hội; là phương thức xác lập mối
quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội” [11, tr.12].

Như vậy, có thể đưa ra định nghĩa về đạo đức như sau:” Đạo đức là một hiện
tượng xã hội - là một hình thái ý thức đặc biệt, phản ánh các mối quan hệ hiện thực
bắt nguồn từ bản thân cuộc sống con người của xã hội loài người, là tập hợp
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách cư
xử của con người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội. Chúng được
thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống dân tộc và sức mạnh của dư luận
xã hội.”
Những giá trị phổ biến của đạo đức thể hiện trong các khái niệm phạm trù như:
Thiện, ác, công bằng, lẽ phải, nhân đạo, tình thương, lương tâm, trách nhiệm, trung

9


thực, tự trọng,… Thang giá trị của đạo đức biến đổi theo dòng lịch sử, đạo đức có
tính nhân bản, tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại. Ý thức đạo đức của mỗi
cá nhân được hình thành nhờ có giáo dục, nhờ có sức mạnh của dư luận xã hội và
sự tu dưỡng của từng cá nhân…
Với ý nghĩa đó, sự phát triển đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ xã hội. Đạo
đức bao gồm một hệ thống tri thức về giá trị và định hướng giá trị đạo đức, tình
cảm và lý tưởng đạo đức, trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất. Bởi
vì, do như cầu phối hợp trong sinh hoạt hàng ngày, trong sản xuất… từ đó nảy sinh
khát vọng sống có trách nhiệm với nhau, sống vì cộng đồng, sống được tôn trọng
mà hình thành nên tình cảm đạo đức. Cho nên, nếu thiếu đi yếu tố tình cảm đạo đức

thì những khái niệm phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận bằng con
đường lý tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức.
1.1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông
Giáo dục là một khái niệm đa nghĩa, khi phân tích giáo dục với tư cách là một
hiện tượng xã hội ta thấy “Giáo dục là một hiện tượng văn minh chỉ có ở xã hội loài
người, về bản chất đó là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội
của các thế hệ con người” [66, tr.25]
Theo từ điển Tiếng việt “Giáo dục là tác động có hệ thống đến sự phát triển
tinh thần, thể chất con người, để họ dần dần có được những phẩm chất năng lực
như yêu cầu đề ra” [13]. Ở khái niệm này, ta có thể hiểu, giáo dục là một quá trình
hai mặt, một mặt nó là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục, mặt khác
thông qua sự tác động này làm cho đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hoàn
thiện, tự nâng mình lên qua giáo dục.
Giáo dục là sự dẫn dắt của thế hệ trước đối với thế hệ sau, một sự dẫn dắt có
mục đích, có kế hoạch, có nội dung và có phương pháp được chọn lọc. “Giáo dục là
con đường ngắn nhất giúp thế hệ trẻ phát triển, bỏ qua những vấp váp, sai lầm
không cần có trong cuộc sống” [66, tr.49].
Các yếu tố của giáo dục bao gồm: Giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội.
Giáo dục nhà trường có vai trò quan trọng đến hình thành nhân cách của học sinh.
Bởi vì nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, có đội ngũ các nhà sư phạm
được đào tạo chính quy, có nội dung phương pháp giáo dục khoa học phù hợp với
lứa tuổi. Giáo dục gia đình được tiến hành trong suốt cả cuộc đời mỗi con người,

10


trong giáo dục gia đình cũng hình thành nên nhân cách của mỗi cá nhân, các quan
hệ tình cảm kính trên, nhường dưới, chị ngã em nâng, quan hệ huyết thống, sự
gương mẫu của cha mẹ, … đã tạo nên sự gắn kết bền chặt của các thành viên trong
gia đình.

Quá trình giáo dục còn bao gồm cả tự giáo dục “Tự giáo dục là hoạt động có ý
thức của con người, là giai đoạn phát triển cao của nhân cách. Tự giáo dục được
hình thành trên cơ sở con người tự ý thức được mục tiêu của cuộc sống và cố gắng
tìm ra các phương thức tốt nhất để đạt được mục tiêu đó” [66, tr.45 - 46].
Với những nội dung trình bày nêu trên, có thể hiểu “Giáo dục đạo đức là quá
trình tác động hình thành cho học sinh ý thức tình cảm, niềm tin và thói quen hành
vi đạo đức, thể hiện trong cuộc sống hàng ngày đối với gia đình, cộng đồng, làng
xóm, với bạn bè và tập thể” [66, tr .302].
Giáo dục đạo đức giúp cho mỗi cá nhân các giá trị xã hội, biết hành động theo
lẽ phải, biết sống vì mọi người, vì sự tiến bộ và phồn vinh của đất nước. Sản phẩm
cuối cùng của giáo dục đạo đức là hành vi đạo đức được thể hiện trong cuộc sống
hàng ngày, đặc biệt là trong học tập.
Giáo dục đạo đức giúp cá nhân nâng cao trình độ nhận thức các giá trị đạo đức,
góp phần to lớn trong việc chuyển các quan niệm đạo đức từ tự phát sang tự giác,
từ bị động sang chủ động. Không ngừng nâng cao trình độ, khả năng nhận thức các
giá trị đạo đức cho mỗi cá nhân từ trình độ nhận thức thông thường lên trình độ
nhận thức khoa học.
Giáo dục đạo đức góp phần tích cực trong việc truyền lại cho thế hệ đang
trưởng thành những giá trị đạo đức, mà thế hệ trước đã tạo ra, được thể hiện trong
các truyền thống quý báu của dân tộc. Giúp học sinh nhận ra các giá trị đạo đức,
nhận thấy giá trị nhân văn, nhân ái, góp phần nhân đạo hóa con người để hình thành
nhân cách tốt đẹp. Chẳng hạn, qua giáo dục chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc
tế vô sản, những giá trị đạo đức tốt đẹp như: lòng tự hào dân tộc, ý thức và hành vi
sẵn sàng bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia…đã làm cho thế hệ trẻ thấy được
những giá trị lớn lao, ý nghĩa đích thực của cuộc sống hòa bình, tự do, độc lập
“Những giá trị ấy trở thành tình cảm, động lực thôi thúc họ vượt qua mọi khó khăn,
gian khổ để bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia…” [ 51, tr..60].

11



Giáo dục đạo đức còn góp phần tạo ra những giá trị đạo đức mới, xây dựng
những phẩm chất đạo đức mới như chủ nghĩa tập thể, tinh thần dũng cảm, thái độ
cần cù trong lao động,… đồng thời giáo dục đạo đức cũng góp phần tích cực vào
việc khắc phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, “lệch chuẩn” chống lại các hiện
tượng phi đạo đức, những thói hư tật xấu.
Do vậy, giáo dục đạo đức có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành ý thức,
tình cảm, cũng như các hành vi đạo đức của con người, đặc biệt là lứa tuổi THPT.
Nhận thức được vai trò to lớn của đạo đức mới, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
rất quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức. Người cho rằng “Có tài mà không có
đức thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội… nếu có đức mà không
có tài… cũng không có lợi gì cho loài người. Theo quan niệm đó, người có nhân
cách trước hết phải là người có đạo đức. Tài năng của con người muốn phát triển
phải dựa trên cơ sở phát triển của đạo đức. Tài của con người được biểu hiện ở trình
độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,… Đức là động lực thúc đẩy cá nhân
thể hiện được năng lực, tài năng của mình, vì chỉ có trong tập thể, con người mới
bộc lộ ra những năng lực của mình. Do vậy, đức đã tạo điều kiện cho tài phát triển.
Ngày nay, trước những biến động phức tạp của đạo đức trong xã hội, trong đó có sự
suy thoái về đạo đức của một bộ phận thanh niên học sinh. Đại hội VIII, Đảng ta đã
khẳng định “ cùng với đổi mới nội dung giáo dục theo hướng cơ bản, hiện đại phải
tăng cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa học, lòng yêu nước, ý
chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước” [17, tr.29].
1.2. Học sinh trung học phổ thông và vai trò của giáo dục đạo đức đối với
học sinh trung học phổ thông
1.2.1. Học sinh trung học phổ thông
Học sinh các trường THPT có độ tuổi từ 15 - 18 bao gồm các khối lớp 10, lớp
11, lớp12. Theo các nhà tâm lý học thì về mặt sinh lý, thời kỳ này còn được gọi là
tuổi dạy thì” một vùng đất không của ai cả”. Ở tuổi này thường biểu lộ các biến đổi
về nội tiết, tiết ra các hormore khác nhau tác động đến mọi khía cạnh của đời sống,
sinh ra nhiều rối loạn về sự tăng trưởng. Sự thay đổi về nội tiết dẫn đến những cảm

xúc bột phát: dễ xúc động, hay cáu kỉnh, nhạy cảm, dễ có phản ứng và thường trở
lên khó bảo hoặc thu mình lại. Tuổi này có sự thay đổi nhanh chóng về thể chất và
tâm tính, có xúc cảm cao và dễ bị kích thích, sự lý tưởng hóa quan niệm sống và

12


muốn thành đạt một cách tối đa, cũng như thiếu kiên định về lập trường đạo đức và
nghề nghiệp tương lai.
Ở lứa tuổi này, các em gái thường có chỉ số cao hơn về cảm xúc, về tính nhạy
cảm, về trực giác, sự mềm mại và xu hướng lãng mạn, trong khi nam thanh niên,
thích thiên về lý trí, thực tế, đôi chút mang tính thực dụng. Trong lĩnh vực tự ý thức
cũng có sự khác nhau; Nam thanh niên có xu hướng cho mình là người mạnh mẽ,
nhiều năng lượng, có uy lực và là người tháo vát thạo việc hơn các cô gái cùng trang
lứa. Tính chất tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ, nhất quán hơn, đồng thời
phát triển tính phê phán, phân tích được nội dung cơ bản của khái niệm trừu tượng,
quan hệ nhân quả trong tự nhiên và xã hội. Đó là cơ sở để hình thành thế giới quan.
Tuy nhiên nhiều em chưa phát huy hết khả năng suy nghĩ độc lập, còn kết luận vội
vàng theo cảm tính.
Các em thường yêu cái mới, thích cái vui và chuộng cái đẹp, nhạy cảm, sôi
động, linh hoạt, táo bạo, sống nặng tình cảm hơn lý trí. Sự giao tiếp của các em vượt
xa khỏi phạm vi gia đình và nhà trường, các em cần sự giúp đỡ của cha mẹ, thầy cô
lại muốn tỏ ra độc lập, nhiều khi gây lúng túng cho người lớn. Vì vậy để củng cố
lòng tự trọng cho các em, người lớn cần tôn trọng ý kiến của các em, nhưng đồng
thời lại phải giáo dục cho các em biết giới hạn. Do vậy thái độ can thiệp thô bạo,
thái độ áp đặt đối với các em đều dẫn đến kết quả không mong muốn đó là sự phản
kháng mạnh mẽ.
Các em bắt đầu có ý thức nhìn nhận, tự đánh giá bản thân, ý thức về thân thể của
mình. Độ tuổi này các em đã biết phân biệt đúng, sai nhưng các em thường lười suy
nghĩ, hành động theo bản năng hoặc bị bạn bè lôi cuốn, buông xuôi theo hoàn cảnh.


Như vậy, tâm lý, ý thức và tự ý thức của học sinh THPT rất phức tạp, vì vậy
việc giáo dục đạo đức cho các em cần phải căn cứ vào những đặc điểm đó để có
hình thức giáo dục có hiệu quả.
Có thể nói, học sinh THPT Việt Nam đều có tinh thần hiếu học, vượt khó, thông
minh ngoan ngoãn. Nhiều em đạt giải cao trong kỳ thi trong nước, quốc tế, sống có lý
tưởng, có tình yêu quê hương đất nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển, biến đổi mọi
mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì đối
tượng THPT đang bị tác động mạnh mẽ theo hướng tiêu cực đến tâm sinh lý, tình cảm.
Thể hiện ngày càng có nhiều học sinh sa vào ăn chơi, đua đòi, bắt

13


chước lối sống nước ngoài, sao nhãng học tập, buông thả trong tình yêu, có quan hệ
tình dục, … Một số em còn sa vào nghiện ngập, trộm cắp, cờ bạc, … gây mất trật
tự, an ninh xã hội, gây bức xúc, phẫn nộ, lo ngại trong mọi tầng lớp xã hội. Cho
nên, giáo dục ở các trường THPT tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng đến thế hệ sau, ảnh
hưởng đến tương lai, vận mệnh của đất nước, của dân tộc sau này. Đảng ta khẳng
định “Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hóa của một nước, sức mạnh tương lai
của một dân tộc” [5, tr.39].
Thực tế, hiện nay nhân loại đã và đang tiếp cận một nền văn minh mới, trong
đó tri thức đóng vai trò quan trọng. Nhất là tri thức về khoa học và công nghệ sẽ
chiếm ưu thế và trở thành phổ biến. Cho nên, ngoài việc rèn luyện phẩm chất đạo
đức của mình, mỗi học sinh cần phải rèn luyện và phát triển tài năng trên cơ sở đạo
đức xã hội chủ nghĩa thì mới đáp ứng được quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta.
1.2.2. Vai trò của giáo dục đạo đức đối với học sinh THPT
1.2.2.1. Chủ thể giáo dục đạo đức
* Vai trò của giáo dục nhà trường đối với việc hình thành đạo đức học sinh Nhà

trường là nơi giáo dục, đào tạo không những về mặt kiến thức mà còn
giáo dục đạo đức để hình thành nhân cách cho học sinh, coi sự nghiệp trồng người
là nhiệm vụ cơ bản của giáo dục. Do vậy nhà trường cần phải giữ kỷ cương, nề nếp
học đường, tạo môi trường lý tưởng cho học sinh học tập và rèn luyện.
Vai trò của nhà trường được biểu hiện qua vai trò của người thầy. Giáo viên giữ
vai trò quan trọng trong hoạt động dạy học nhằm truyền thụ kiến thức - tức là dạy
chữ. Ngoài ra, giáo viên có vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, lối sống,
góp phần vào việc rèn luyện tu dưỡng đạo đức về nhân sinh quan, thế giới quan, về
ước mơ lý tưởng cho học sinh, giáo dục học sinh bằng chính tấm gương của mình
như gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật. Điều 15
luật giáo dục đã chỉ rõ “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất
lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho
người học”.
Giáo viên còn là cầu nối quan trọng trong việc phối hợp nhà trường, gia đình và
xã hội để giáo dục học sinh. Sự kết hợp thường xuyên này sẽ giúp gia đình, nhà
trường và xã hội có được thông tin cần thiết về học sinh, nhất là đối với học sinh có

14


biểu hiện lệch lạc trong lối sống. Vai trò của nhà trường thể hiện ở chỗ nhà trường
chủ động tổ chức, điều hòa, phối hợp hoạt động giáo dục với các chủ thể khác, đôn
đốc thực hiện, tổ chức kiểm tra, đánh giá và sơ kết, tổng kết công tác phối hợp,
đồng thời rút ra bài học tăng cường và nâng cao chất lượng giáo dục và trách nhiệm
của các chủ thể giáo dục.
Với nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh, giáo viên trong các trường THPT,
vừa là người hướng dẫn, vừa là người cố vấn quá trình học tập rèn luyện nhân cách
cho học sinh, đồng thời là trọng tài trong việc đánh giá kết quả học tập rèn luyện
của học sinh. Như vậy, thông qua việc truyền thụ kiến thức văn hóa, khoa học,
người thầy là người tốt nhất để xây dựng cho học sinh về nhận thức, tình cảm và ý

thức công dân đúng đắn. Góp phần tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức, xây dựng
nếp sống văn hóa, ý thức tôn trọng pháp luật cho học sinh
* Vai trò của giáo dục gia đình đối với việc hình thành đạo đức học sinh
Gia đình với tư cách là một “xã hội thu nhỏ”, một môi trường tác động trực tiếp
và thường xuyên đối với mỗi học sinh, có vai trò to lớn trong việc hình thành nhân
cách học sinh. Gia đình là trường học đầu tiên và suốt đời của con người. Tác động
của gia đình đối với việc hình thành nhân cách đạo đức học sinh, đó là sự truyền
thụ giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương, gia đình, là sự giáo dục
không có trường lớp, không có chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm hình thành
nhân cách ứng xử đúng đắn trong cuộc sống. Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng
đã nhận định “Mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách,
đạo đức, lối sống” [19, tr.128].
Một là, gia đình là nơi diễn ra những mối quan hệ xã hội đầu tiên của con
người. Những mối quan hệ trực tiếp giữa đứa trẻ và cha mẹ là những tác động đầu
tiên, các em nhận được kinh nghiệm và kỹ năng đầu tiên. Giáo dục gia đình rất
quan trọng đối với mỗi con người, khi con người chưa có hiểu biết về mình, về xã
hội, thì đã định hướng và chỉ dạy từ chính gia đình của mình.
Hai là, các hình thức giáo dục con cái trong gia đình có ảnh hưởng đến việc
hình thành nhân cách học sinh. Cho nên, nếu các em sống trong gia đình mà cha mẹ
có những biện pháp giáo dục thiếu khoa học (bạo lực, độc đoán, lạnh lùng, thiếu
quan tâm, chỉ nghĩ đến công việc làm ăn,…) cũng ảnh hưởng rất lớn tới tính cách
của con em. Mọi người trong gia đình có quan hệ đối xử tốt, quan tâm, chăm sóc

15


lẫn nhau, có tôn ti trật tự, ông bà, cha mẹ, anh chị thực sự là tấm gương để các em
noi theo thì bản thân các em có bước đầu hình thành nền tảng đạo đức tốt. Cho nên
muốn con trở thành người tốt, cha mẹ phải làm gương cho con noi theo. Chính
hành động của cha mẹ là bài học thực tế nhất cho con học hỏi.

Ba là, đó là sự tác động của gia đình với nhà trường và xã hội để tạo nên môi
trường rộng lớn, toàn diện trong việc tác động, xây dựng hình thành nhân cách học
sinh. Mỗi gia đình phải chủ động liên hệ với nhà trường, các tổ chức đoàn thể xã
hội để nắm tình hình mọi mặt của con cái, là cơ sở để đánh giá và có biện pháp
đúng đắn.
Bốn là, gia đình góp phần phát hiện, ngăn chặn và khắc phục các biểu hiện tiêu
cực, những sai lệch trong nhận thức và hành động của học sinh.
Do đó, giáo dục gia đình đóng vai trò làm nền tảng, cơ sở để hình thành đạo
đức học sinh. Đạo đức gia đình luôn gắn liền với đạo đức xã hội, gia đình có ảnh
hưởng sâu sắc, trực tiếp đến con em mình. Gia đình còn có sự định hướng, điều
chỉnh và phát triển cho con em mình noi theo đúng các chuẩn mực giá trị xã hội,
góp phần định hướng đúng nhân cách cho con em mình, xây dựng gia đình ấm no,
tiến bộ, hạnh phúc là cơ sở để xây dựng xã hội tốt đẹp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng “Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
mà phải chú ý hạt nhân cho tốt.” [45, tr. 523]
* Vai trò của xã hội đối với việc hình thành đạo đức học sinh
Quá trình hình thành và phát triển nhân cách cá nhân bị chi phối và ảnh hưởng
bởi các điều kiện khách quan và các yếu tố chủ quan như bẩm sinh, di truyền, môi
trường, giáo dục, tự giáo dục và hoạt động của cá nhân. Trong đó các yếu tố sinh
học là tiền đề, môi trường là điều kiện, giáo dục giữ vai trò chủ đạo và hoạt động
của cá nhân là yếu tố quyết định trực tiếp đối với sự phát triển nhân cách. Theo
C.Mác “Bản chất con người không phải là cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan
hệ xã hội” [38, tr.11].
Sự hình thành và phát triển nhân cách là một quá trình phát triển lâu dài và
phức tạp. Trong quá trình đó, giữa các yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài, giữa
cái sinh học và cái xã hội thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau, vai trò của mỗi
yếu tố đó thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của mỗi người. Trong quá trình

16



sống, con người có được những kinh nghiệm sống, niềm tin, thói quen và ngược lại,
khi tiếp nhận bất cứ việc gì, nhân cách cũng dựa trên chuẩn mực xã hội để điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp.
Để giúp các em học sinh, thanh thiếu niên tránh xa những tác động tiêu cực, cạm
bẫy của xã hội thì cần có sự giáo dục đồng bộ giữa gia đình – nhà trường – xã hội. Đây
được coi là công việc chung của toàn xã hội, nhằm giúp thế hệ trẻ hôm nay có bản lĩnh
chính trị, vững vàng trước mọi cán dỗ. Không chỉ trang bị cho các em tri thức khoa
học mà cần phải bồi dưỡng cho các em những chuẩn mực về giá trị đạo đức, về nhân
cách, về đạo lý làm người mà mọi người cần phải, có để đáp ứng con người mới xã hội
chủ nghĩa. Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong việc hình thành và phát triển nhân cách,
song không nên tuyệt hóa vai trò giáo dục, mà giáo dục phải gắn liền với tự giáo dục,
tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân.

1.2.2.2. Tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
- Thứ nhất: Hình thành thế giới quan và cung cấp tri thức cho học sinh.
Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương (khóa VII) chỉ rõ “Thanh
niên học sinh là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí
xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng
thanh niên học sinh, và việc rèn luyện bồi dưỡng lực lượng thanh niên. Công tác
thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng” [16].
Thanh niên học sinh là một lực lượng quan trọng, nòng cốt, là những người
đang ngồi trên ghế nhà trường, đang được giáo dục đào tạo để trở thành người công
dân, người cán bộ bước vào đời để xây dựng Tổ quốc. Để giúp họ xứng đáng và
gánh vác trách nhiệm nặng nề trên, các trường THPT trong cả nước. Phải có trách
nhiệm giáo dục, đào tạo họ trở thành người có phẩm chất và có năng lực tương
xứng, trong đó đạo đức cách mạng là cái gốc, cái cốt lõi.

Cơ sở cốt lõi của đạo đức cách mạng là thế giới quan Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Do vậy, việc hình thành thế giới quan và nhân sinh quan là một điều
cần thiết, trọng tâm của các trường phổ thông trung học. Ngay trong bài 1, sách giáo
khoa GDCD lớp 10 đã trang bị cho học sinh kiến thức về thế giới quan và phương

17


pháp luận. Đã làm cho học sinh hiểu được, thế giới quan là toàn bộ những quan
điểm về thế giới và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học là hạt
nhân lí luận của thế giới quan [24, tr.13]
Hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, là tạo nên sự thống nhất giữa ý thức
và hành động, giữa lời nói và việc làm, tạo nên sự thống nhất về trí tuệ, niềm tin và
hành động. Từ việc hình thành thế giới quan và nhân sinh quan, giáo dục cho các
em trở thành công dân tốt, có tri thức, năng lực, có niềm tin vào cuộc sống, thực
hiện tốt quyền và nghĩa vụ của người học sinh đến trường là phải học tập, làm bài
tập đầy đủ, kính trọng cha mẹ, thầy cô giáo và nhân viên nhà trường, không gây gổ
đánh nhau làm mất tình đoàn kết, đồng thời không vi phạm nội quy của nhà trường
và vi phạm pháp luật.
Thế giới quan khoa học là kim chỉ nam cho hành động, biến chuyển từ tri thức
thành phương pháp, biết sử dụng tri thức một cách tổng hợp và có hệ thống, làm cho
nhận thức đạt trình độ sâu sắc, bản chất hơn; biết phát hiện những yếu tố mới. Do
vậy, bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng cho học sinh trung học phổ
thông và thanh niên là rất cần thiết.
Ngoài hình thành thế giới quan của học sinh thì trong quá trình giáo dục đạo
đức phải cung cấp tri thức cho học sinh. Trong ý thức đạo đức thì tri thức là nhân tố
cơ bản cốt lõi, C.Mác cho rằng “Phương thức tồn tại của ý thức và của một cái gì đó
đối với ý thức, đó là tri thức. Tri thức là hành vi duy nhất của ý thức. Cho nên một
cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào ý thức biết cái đó” [40, tr.236]
Nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục đạo đức hiện nay cho học sinh

THPT là phải cung cấp tri thức đạo đức cho học sinh. Giúp cho học sinh hiểu biết
về những nguyên tắc, phạm trù, chuẩn mực đạo đức, các quy định hành vi đạo đức
của học sinh trong mối tương quan giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể,
với cộng đồng. “Tri thức đạo đức biểu hiện ở hai cấp độ, cấp độ nhận thức thông
thường và cấp độ nhận thức khoa học” [51, tr.165]
Cả hai cấp độ này đều có vai trò trong việc điều chỉnh hành vi đạo đức, giúp
cho học sinh phân biệt được cái đúng, cái sai, cái tốt, cái xấu, cái thiện, cái ác đang
tồn tại trong cuộc sống, để hướng hành vi của mình theo cái tốt, cái đẹp.
Thiếu tri thức đạo đức, con người khó phân biệt được đâu là cái đúng, cái sai,
đâu là cái giả, cái thật, hành vi nào không nên làm. Đồng thời thiếu hiểu biết thì con

18


×