Tải bản đầy đủ (.docx) (177 trang)

Tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.43 KB, 177 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỚC

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG
KHOÁN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỚC

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG
KHOÁN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9 38 01 07

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN ĐỨC MINH

HÀ NỘI - 2019




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Những kết luận khoa học của luận
án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.

Tác giả

Nguyễn Thị Hồng Phước

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CÂU HỎI NGHIÊN
CỨU VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU...............................................................
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu ...........................................................................
1.2 Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ....................................................
Kết luận chương 1 ....................................................................................................
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN PHÁP LUẬT
VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN ...
2.1 Lý luận chung về Quỹ đầu tư chứng khoán ...................................................................
2.2 Nội hàm, vai trò của pháp luật và các yếu tố tác động đến pháp luật về tổ chức
và hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán ..............................................................
Kết luận chương 2 ....................................................................................................
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI
VIỆT NAM .............................................................................................................
3.1 Thực trạng pháp luật về tổ chức của QĐTCK ..........................................................
3.2 Thực trạng hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán trong thời gian qua ...................
3.3 Thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK tại Việt Nam
Kết luận chương 3 ....................................................................................................
CHƯƠNG 4: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
................................................................................................................................................108

4.1 Các có ảnh hưởng và định hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của

Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam hiện nay
4.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật và hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật về tổ chức và

hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán .............................................................................
Kết luận chương 4 ..................................................................................................
KẾT LUẬN ...........................................................................................................
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ ...............
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................
PHỤ LỤC .......................................................................................................................
2


DANH MỤC VIẾT TẮT

ASEAN

: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á


BTC

: Bộ Tài Chính

CBTT

: Công bố thông tin

CCQ

: Chứng chỉ quỹ

CTCP

: Công ty cổ phần

CTĐTCK

: Công ty đầu tư chứng khoán

CTQLQ

: Công ty quản lý quỹ

ĐHĐCĐ

: Đại hội đồng cổ đông

GDP


: Tổng sản phẩm quốc nội

HĐQT

: Hội đồng quản trị

IFC

: Tổ chức tài chính quốc tế

IOSCO

: Tổ chức quốc tế các Ủy ban chứng khoán

NAV

: Giá trị tài sản ròng

NĐT

: Nhà đầu tư

NHGS

: Ngân hàng giám sát

OECD

: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế


QĐTCK

: Quỹ đầu tư chứng khoán

QTCT

: Quản trị công ty

Quỹ ETF

: Quỹ hoán đổi danh mục

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TTCK

: Thị trường chứng khoán

UBCKNN

: Ủy ban chứng khoán Nhà nước
3


WTO

: Tổ chức Thương mại thế giới


VCBF

: Công ty liên doanh quản lý QĐTCK Vietcombank

VFM

: CTCP quản lý quỹ đầu tư Việt Nam

MB Capital : CTCP quản lý quỹ MB
Techcom Capital: CTCP quản lý quỹ Kỹ thương
BVF

: Công ty TNHH quản lý quỹ Bảo Việt

4


DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Quan hệ giữa Quỹ đầu tư tập thể dạng hợp đồng và Người đầu tư.....42
Sơ đồ 2.2: Quan hệ giữa Quỹ đầu tư tập thể dạng công ty (Công ty đầu tư) và
người đầu tư............................................................................................................................................. 43
Sơ đồ 2.3: Hệ thống Quản trị công ty........................................................................................ 53
Sơ đồ 2.4: Tổ chức của Quỹ tương hỗ....................................................................................... 54
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Số lượng công ty quản lý quỹ từ 2003 – 2011................................................ 92
Bảng 3.2: Hoạt động kinh doanh của CTQLQ từ 2011 – 2017.................................... 93
Bảng 3.3: Thời điểm thành lập và tên của các loại hình QĐTCK đầu tiên............93
Bảng 3.4: Số lượng các Quỹ đầu tư chứng khoán từ 2006 – 6/2016.........................94
Bảng 3.5: Số lượng các Quỹ đầu tư chứng khoán từ 12/2016 – 5/2018..................94
Bảng 3.6: Báo cáo danh mục đầu tư, Báo cáo thu nhập, Báo cáo của CTQLQ

(VFM), Báo cáo của NHGS đối với Quỹ VFMVF1 qua các năm 2014 – 20189
96
Bảng 3.7: Báo cáo thu nhập của Quỹ ETF - VFMVN30 các năm 2014 – 2018 97
Bảng 3.8: Báo cáo danh mục đầu tư, Báo cáo thu nhập, Báo cáo của CTQLQ, Báo

cáo của NHGS đối với Quỹ MBBF qua các năm 2013 – 2017.................................... 97
Bảng 3.9: Báo cáo thu nhập của các Quỹ do BVF quản lý năm 2018...................98
Bảng 3.10: Nhân sự điều hành các Quỹ do VFM quản lý năm 2018.....................102
Bảng 3.11: Báo cáo thu nhập của các Quỹ do VFM quản lý năm 2018................102
Bảng 4.1: Chỉ tiêu về lợi nhuận của các Quỹ do VCBF quản lý đến năm 2018
138

5


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Thị trường chứng khoán tạo ra những cơ hội cho các NĐT tìm kiếm lợi
nhuận. Với sự đa dạng và phong phú của TTCK, NĐT có thể lựa chọn cho mình
những phương thức đầu tư có hiệu quả nhất. Thế nhưng, song hành với lợi nhuận
luôn tiềm ẩn những rủi ro. Để hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro gặp phải, các NĐT
có thể cùng tập trung vốn vào một Quỹ đầu tư chứng khoán để tiến hành đầu tư.
Là một hình thức đầu tư tập thể, QĐTCK có tác dụng tích cực đối với NĐT
trên TTCK như: Giúp NĐT có thể tham gia đầu tư vào nhiều loại thị trường với
nhiều loại hàng hóa khác nhau, từ đó đa dạng hóa danh mục đầu tư và giảm thiểu
rủi ro; giúp cho hoạt động đầu tư mang tính chuyên môn hơn vì QĐTCK hoạt động
dưới sự quản lý chuyên nghiệp của những nhà đầu tư có tổ chức (CTQLQ); giúp

định hướng đầu tư trên thị trường và tiết kiệm được chi phí giao dịch.

Tại Việt Nam, Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính
phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán là văn bản pháp lý đầu tiên điều
chỉnh trực tiếp về QĐTCK. Theo đó, QĐTCK đầu tiên được chính thức thành
lập vào năm 2004. Quá trình phát triển của QĐTCK dần được điều chỉnh bởi các
văn bản pháp lý có giá trị cao như: Luật Chứng khoán năm 2006, Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán năm 2010. Cơ sở pháp lý vững chắc
này đã tạo điều kiện cho sự ra đời của các CTQLQ và QĐTCK.
Quyết định số 252/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 01/03/2012 về
việc phê duyệt “Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai
đoạn 2011 – 2020” và Quyết định số 1826/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 06/12/2012 về việc phê duyệt Đề án “Tái cấu trúc thị trường chứng khoán
và doanh nghiệp bảo hiểm”, Chính phủ Việt Nam đã chỉ rõ cần phải tập trung tái
cấu trúc NĐT có tổ chức, trong đó có các CTQLQ, các QĐTCK.
Để hiện thực hóa các chiến lược, đề án trên và phát triển mạnh mẽ TTCK,
Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn về việc thành lập, tổ
chức và quản lý các loại hình QĐTCK. Mục đích điều chỉnh của pháp luật đối với
1


QĐTCK là nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trước khả năng bị lạm
dụng bởi các chủ thể tham gia vào tổ chức và hoạt động của QĐTCK. Điều này
cũng phù hợp với một trong những mục tiêu điều chỉnh hoạt động chứng khoán
do IOSCO khuyến nghị là “bảo vệ nhà đầu tư”. Tuy nhiên, qua hơn 12 năm thực
thi Luật Chứng khoán nhận thấy, QĐTCK chưa thể hiện được vai trò và tác dụng
tích cực của mình trên TTCK, chưa là phương thức đầu tư tin cậy của NĐT.
Điều này được thể hiện: QĐTCK chủ yếu được thành lập dưới dạng quỹ đóng,
quỹ mở, quỹ ETF, quỹ đầu tư bất động sản; chưa thành lập quỹ hưu trí bổ sung
tự nguyện và CTĐTCK (mô hình QĐTCK dạng CTCP); số lượng QĐTCK hiện

nay còn ít (39 QĐTCK); hiệu quả hoạt động của QĐTCK chưa cao; số lượng
NĐT tham gia vào QĐTCK không nhiều và ngày càng giảm; một số QĐTCK có
quy mô lớn đã chấm dứt hoạt động. Xét nguyên nhân thuộc về thể chế hoạt động
có ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của QĐTCK, đó là vẫn còn tồn tại các hạn
chế, bất cập của pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK, vấn đề quản trị
QĐTCK và cơ chế hỗ trợ thực thi pháp luật.
Tiếp tục tái cơ cấu theo Quyết định số 242/2019/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 28/02/2019 phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng khoán
và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025”, trong đó:
Tiếp tục cơ cấu lại toàn diện để TTCK trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn
quan trọng cho nền kinh tế; nâng cao năng lực quản trị của các CTQLQ; đảm
bảo cơ cấu hợp lý giữa NĐT cá nhân và NĐT có tổ chức, đồng thời thúc đẩy sự
phát triển của các NĐT chuyên nghiệp (QĐTCK). Nhằm đánh giá các quy định
của pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK xét về tính toàn diện, tính
đồng bộ, tính phù hợp, tính hiệu quả và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của QĐTCK phục vụ quá
trình tái cơ cấu, tôi chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư chứng
khoán theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ luật học, chuyên
ngành Luật Kinh tế, mã số 9.38.01.07.

2


2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
-

Mục đích của luận án: Mục đích của luận án là phân tích các quy định

pháp luật Việt Nam hiện hành về tổ chức và hoạt động của QĐTCK; đánh giá
thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK; chỉ ra những

điểm hạn chế, bất cập về phương diện pháp luật và cơ chế quản trị; từ đó, đề
xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp hoàn thiện cơ chế thực thi pháp
luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK trên TTCK Việt Nam.
-

Nhiệm vụ của luận án: Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ của

luận án được đặt ra nghiên cứu cụ thể là:
Thứ nhất, Luận án làm rõ lý luận chung về QĐTCK và cơ sở lý luận liên
quan đến pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK.
Thứ hai, Luận án phân tích thực trạng các quy định pháp luật chứng
khoán Việt Nam về tổ chức và hoạt động của QĐTCK; đánh giá các kết quả đạt
được của pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK, những kết quả trong
hoạt động của QĐTCK; chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất cập trong tổ chức và
hoạt động của QĐTCK về phương diện pháp luật và cơ chế quản trị làm giảm
hiệu quả thực thi pháp luật.
Thứ ba, Luận án đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và
cơ chế thực thi pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK. Những giải pháp
này phải xuất phát từ yêu cầu, định hướng của Đảng cộng sản Việt Nam và
chính sách của Nhà nước trong việc hoàn thiện pháp luật về TTCK nói chung,
nhằm thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của TTCK, đáp ứng quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
-

Đối tượng nghiên cứu của luận án: Tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu

tư chứng khoán đặt trong bối cảnh pháp luật và thực tiễn của Việt Nam.
+


Phạm vi nghiên cứu của luận án:
Phạm vi về nội dung: Quỹ đầu tư chứng khoán theo pháp luật Việt Nam

bao gồm Quỹ đầu tư chứng khoán (không có tư cách pháp nhân) và QĐTCK theo

3


dạng CTCP (Công ty đầu tư chứng khoán) được thành lập, tổ chức và hoạt động
theo pháp luật Việt Nam.
Các quy định của pháp luật chứng khoán đối với từng loại hình QĐTCK
(Quỹ đại chúng, Quỹ thành viên, Quỹ mở, Quỹ hoán đổi danh mục, Quỹ bất
động sản) được tác giả phân tích lồng ghép khi nghiên cứu các quy định chung
của Luật Chứng khoán năm 2006, văn bản hướng dẫn hiện hành về tổ chức và
hoạt động của QĐTCK nói chung mà không đi sâu phân tích các quy định riêng
lẻ của từng quỹ cụ thể.
+

Phạm vi về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu theo pháp luật Việt

Nam. Pháp luật về QĐTCK của một số nước trên thế giới được đề cập để phân tích,
so sánh, đối chiếu với pháp luật Việt Nam làm cơ sở cho các đề xuất, kiến nghị.
+

Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu hệ thống quy định pháp luật

về tổ chức và hoạt động của QĐTCK ở Việt Nam từ khi có Luật Chứng khoán
2006 cho đến nay. Giai đoạn trước khi Luật Chứng khoán có hiệu lực không
thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án, tuy nhiên có thể được đề cập khi so sánh
và đánh giá các quy định pháp luật hiện hành.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
- Phương pháp luận: Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở đường lối,
chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về việc “tiếp tục xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” [46, tr175], trong đó có hoàn thiện hệ
thống pháp luật nói chung và pháp luật chứng khoán nói riêng. Bên cạnh đó,
Luận án nghiên cứu dựa trên định hướng cơ cấu lại thị trường tài chính, đảm
bảo lành mạnh hóa và ổn định trong sự phát triển đồng bộ và vận hành thông
suốt với các loại thị trường khác: Thị trường hàng hóa dịch vụ, thị trường bất
động sản, thị trường lao động và thị trường khoa học công nghệ [46, tr109-110].
- Phương pháp nghiên cứu: Luận án đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau đây:
+

Phương pháp hệ thống hóa các luận điểm khoa học, tổng hợp, phân tích

và đánh giá để nghiên cứu lý luận chung về QĐTCK và cơ sở lý luận liên quan
đến pháp luật về tổ chức và hoạt động QĐTCK.
4


+

Phương pháp phân tích, so sánh, thống kê được sử dụng để nghiên cứu,

đưa ra các nhận xét, đánh giá về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp
luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK ở Việt Nam hiện nay làm cơ sở cho
các kết luận, đề xuất và kiến nghị khoa học.
+

Phương pháp tổng hợp, phân tích và so sánh để xác định các yếu tố có ảnh


hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật, các định hướng hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của QĐTCK, từ đó đề xuất các kiến nghị và giải pháp cụ thể.
5.

Đóng góp mới về khoa học của luận án

Một là, về phương diện lý luận chung, Luận án làm rõ được khái niệm về
QĐTCK, vai trò của QĐTCK; chỉ ra được các đặc điểm của QĐTCK để thấy sự
khác biệt với các loại quỹ đầu tư khác; vận dụng được các lý thuyết khoa học
trong việc xác định cơ chế tổ chức và hoạt động của từng dạng mô hình của
QĐTCK.
Hai là, về cơ sở lý luận liên quan đến pháp luật về tổ chức và hoạt động
của QĐTCK, Luận án xác định được nội hàm của pháp luật về tổ chức và hoạt
động của QĐTCK đi từ nguyên tắc điều chỉnh pháp luật, xác định chủ thể pháp
luật, quan hệ pháp luật giữa các chủ thể tham gia vào QĐTCK và từ đó, đưa ra
được khái niệm pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK.
Ba là, Luận án xác định được vai trò của pháp luật đối với quản trị
QĐTCK, bởi vì để cho các quỹ đầu tư hoạt động có hiệu quả không chỉ cần có
môi trường pháp lý mà còn cả vấn đề quản trị. Ngoài ra, Luận án chỉ ra được
những yếu tố tác động đến pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK có ý
nghĩa cho việc xem xét các yêu cầu đặt ra trong quá trình hoàn thiện pháp luật.
Bốn là, Luận án phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về tổ chức và
hoạt động của QĐTCK và CTĐTCK (QĐTCK theo mô hình CTCP). Luận án
đưa ra những đánh giá về thực trạng pháp luật, tổng hợp và thống kê được các số
liệu để minh chứng cho thực tiễn hoạt động của các QĐTCK ở Việt Nam hiện
nay. Qua đó, chỉ ra điểm còn hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật điều
chỉnh tổ chức và hoạt động của QĐTCK; đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật
vẫn còn có những hạn chế.
5



Năm là, Luận án xác định các yếu tố có ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp
luật tại Việt Nam hiện nay như: Sự phát triển của nền kinh tế, hội nhập quốc tế về
TTCK, sự phát triển của TTCK và NĐT tổ chức trên TTCK. Các định hướng hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK được xác định cụ thể dựa trên
các quan điểm, chính sách của Nhà Nước Việt Nam về việc cơ cấu lại TTCK nói
chung và trước yêu cầu sửa đổi Luật Chứng khoán. Từ đó, Luận án đưa ra được các
kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK; các
giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về QĐTCK.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận, Luận án bổ sung vào hệ thống lý luận chung về QĐTCK,
cơ sở lý luận pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK; cung cấp cách tiếp
cận khoa học về lý luận pháp luật và thực tiễn hoạt động theo hướng kinh tế học
pháp luật.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần trong việc
hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK. Đồng thời, đây cũng
là nguồn tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật về TTCK
nói chung và pháp luật về QĐTCK nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài mở đầu, danh mục viết tắt, danh mục sơ đồ, bảng, phụ lục, kết luận,
các công trình của nghiên cứu sinh đã công bố liên quan đến đề tài và tài liệu
tham khảo thì kết cấu của luận án bao gồm 4 chương:
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CÂU HỎI
NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN PHÁP LUẬT
VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM Chương


4: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT

NAM HIỆN NAY
6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ
GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Lịch sử hình thành Quỹ đầu tư xuất phát từ cuộc Cách mạng công nghiệp
tại Anh vào thế kỷ 19. Tại Mỹ, Quỹ đầu tư chính thức được thành lập năm 1924.


Việt Nam, QĐTCK đầu tiên được thành lập vào năm 2004 theo Nghị định số

48/1998/NĐ – CP ngày 11/7/1998. Do đó, các công trình khoa học và bài viết
trong nước có liên quan đến QĐTCK cũng mới được các nhà nghiên cứu quan
tâm gần đây và chủ yếu là: Sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,
bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật, kinh tế...
1.1.1. Các công trình nghiên cứu lý luận chung về QĐTCK và pháp
luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK
-

Công trình nghiên cứu về khái niệm Quỹ đầu tư chứng khoán

Theo International Finance Corporation (IFC, 1996), Investment Fund in
emerging market (Quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán mới nổi) thì Quỹ đầu tư

được biết đến như một phương tiện đầu tư tập thể - là công cụ tài chính để tập hợp
và quản lý tiền của nhiều NĐT. NĐT nhượng đáng kể việc kiểm soát khoản tiền của
họ cho các nhà quản lý chuyên nghiệp để mua danh mục các loại chứng khoán
hoặc cổ phần đầu tư tư nhân trong các công ty [108, p.8]. Tác giả Nguyễn Thu
Thủy (2011), Phát triển các quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam hiện nay [89, tr9],
thì QĐTCK thực chất là một tập hợp vốn do tổ chức và cá nhân góp lại để được
quản lý nhằm tăng cường tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư chứng khoán
và tối đa hóa lợi nhuận cho những người tham gia. Trần Thị Thùy Linh (2011),
QĐTCK trên thị trường chứng khoán Việt Nam [65, tr5] lại cho rằng Quỹ đầu tư là
một định chế tài chính trung gian phi ngân hàng, thu hút tiền nhàn rỗi từ các
nguồn khác nhau để đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ hay các loại tài sản
khác. Nói cách khác, Quỹ đầu tư là tổ chức đầu tư chuyên nghiệp. Tác giả Ngô
Thanh Long (2006), Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư chứng
7


khoán, thì QĐTCK là một định chế tài chính trung gian hình thành từ vốn góp
của các NĐT được quản lý bởi một tổ chức quản lý quỹ chuyên nghiệp, có danh
mục đầu tư chủ yếu là các loại chứng khoán được giao dịch trên TTCK [66, tr7].
Quan điểm khác, Viên Thế Giang - Võ Thị Mỹ Hương (2008), QĐTCK - Mô
hình thích hợp để nhà đầu tư nhỏ tham gia TTCK [52], đề cập đến sự cần thiết để
thành lập tổ chức tài chính dưới mô hình Quỹ đầu tư, Công ty đầu tư, Công ty quản
lý quỹ đầu tư là do sự mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư với khả năng hạn chế về tri
thức; đưa ra khái niệm QĐTCK dưới góc độ kinh tế, dưới góc độ xã hội, dưới góc
độ pháp lý và lợi ích mà QĐTCK mang lại cho các NĐT. Bài viết của Nguyễn
Xuân Thành (2006), Vai trò của QĐTCK đối với NĐT cá nhân trên TTCK


Việt Nam đưa ra khái niệm của QĐTCK và phân tích những lợi thế của các NĐT


cá nhân khi đầu tư vào Quỹ đầu tư so với các NĐT cá nhân riêng lẻ tự đầu tư vốn
một mình. Theo tác giả, khái niệm QĐTCK: là một tổ chức thu hút tiền từ các NĐT
cá nhân có cùng mục tiêu, tập hợp lại dưới sự quản lý của CTQLQ chuyên nghiệp
để đầu tư vào danh mục chứng khoán lựa chọn nhằm đảm bảo lợi ích của các NĐT
cá nhân. QĐTCK giúp NĐT cá nhân đa dạng hóa danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi
ro; QĐTCK mang tính chất đầu tư chuyên nghiệp; QĐTCK có tính thanh khoản
cao; QĐTCK cung cấp nhiều khả năng lựa chọn cho NĐT cá nhân; NĐT cá nhân
có thể tái đầu tư vào QĐTCK; QĐTCK giúp NĐT cá nhân tiết kiệm chi phí;
QĐTCK tăng khả năng tiếp cận cho các NĐT [79]. Năm 2016, United State
Securites and Exchange Commission (SEC - Ủy ban chứng khoán và hối đoái Hoa
Kỳ) trong công trình Mutual Funds and ETFS – A guide for investors (Quỹ tương
hỗ và Quỹ hoán đổi danh mục – một chỉ dẫn cho các Nhà đầu tư) [117], đưa ra khái
niệm Quỹ tương hỗ (đăng ký SEC) là một công ty đầu tư đóng – mở, mà nó tập hợp
tiền từ nhiều NĐT và đầu tư tiền này vào cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi
ngắn hạn, công cụ thị trường, các tài sản hoặc các chứng khoán khác hoặc một sự
kết hợp các khoản đầu tư. Việc kết hợp chứng khoán và các tài sản của Quỹ tương
hỗ được xem như danh mục đầu tư, được quản lý bởi người đăng ký tư vấn đầu tư.
Mỗi cố phiếu Quỹ tương hỗ đại diện cho quyền sở hữu tương ứng của NĐT vào
danh mục đầu tư của Quỹ và thu nhập do danh mục đầu tư tạo ra.
8


Ngoài ra, một số tác giả khác cũng đưa ra khái niệm về QĐTCK trong các
công trình nghiên cứu theo những khía cạnh khác nhau: Đại học Luật Hà Nội
(2008, 2012), Giáo trình Luật Chứng khoán [47], Võ Thị Mỹ Hương (2009), Pháp
luật về quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam [62], Ủy ban chứng khoán nhà nước
– Trung tâm nghiên cứu khoa học và đào tạo chứng khoán (2009), Giáo trình
những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán [101], Ủy ban
chứng khoán nhà nước – Trung tâm nghiên cứu khoa học và đào tạo chứng khoán


(2009), Pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán [102].
-

Công trình nghiên cứu về đặc điểm của Quỹ đầu tư chứng khoán

Nghiên cứu dưới góc độ luật học, Ngô Thanh Long (2006) [66, tr7-12] phân

tích đặc điểm của QĐTCK dựa trên các tiêu chí như: Một là, về đối tượng đầu
tư; Hai là, về hình thức đầu tư; Ba là, về cơ cấu tổ chức và hoạt động; Bốn là, về
khả năng mua lại chứng chỉ quỹ từ NĐT (đặc điểm riêng của QĐTCK ở Việt
Nam). Đối với công trình tại Ủy ban Chứng khoán Nhà Nước (2009) [102,
tr246], QĐTCK có những đặc điểm chủ yếu: việc quản lý quỹ hình thành từ vốn
góp của NĐT có thể được ủy thác cho một CTQLQ chuyên nghiệp quản lý; việc
giám sát hoạt động quản lý đầu tư của CTQLQ về việc tuân thủ các quy định của
pháp luật và Điều lệ quỹ được ủy thác cho một tổ chức giám sát độc lập
(NHGS). Tổ chức này đồng thời thực hiện hoạt động bảo quản an toàn, lưu ký,
thanh toán, bù trừ các giao dịch của quỹ; người đầu tư không có quyền tham gia
vào hoạt động đầu tư hàng ngày của quỹ; người đầu tư chỉ được thực hiện quyền
kiểm tra giám sát của mình tại các cuộc họp đại hội đồng người đầu tư.
Nghiên cứu dưới góc độ kinh tế học, Nguyễn Thu Thủy (2011) [89, tr9-10]
thì ngoài nêu lên các đặc điểm của một quỹ đầu tư nói chung còn đưa ra ba đặc
điểm đặc thù riêng của QĐTCK là: (i) QĐTCK được thiết lập chủ yếu trên cơ sở
huy động vốn của các NĐT cá nhân dưới dạng vốn chủ sở hữu, phần lớn số tiền này
được sử dụng để đầu tư vào danh mục chứng khoán nhằm sinh lời; (ii) Hoạt đồng
đầu tư của quỹ do CTQLQ thực hiện được giám sát bởi một tổ chức, đó là các ngân
hàng giám sát; (iii) Tỷ trọng vốn đầu tư quỹ sử dụng để đầu tư vào các

9



công cụ của TTCK như cổ phiếu, trái phiếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng
vốn hoạt động của quỹ.
-

Công trình nghiên cứu về phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán

Ngô Thanh Long (2006) [66] trong công trình nghiên cứu của mình đã phân
loại QĐTCK theo các tiêu chí sau: (i) Theo cơ chế huy động vốn (Quỹ đầu tư đóng
và Quỹ đầu tư mở); (ii) Theo mục tiêu và đối tượng đầu tư (Quỹ đầu tư cổ phiếu,
Quỹ đầu tư trái phiếu, Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ); (iii) Theo người đầu tư (Quỹ
đầu tư riêng và Quỹ đầu tư chung); (iv) Theo quy định của pháp luật Việt Nam
(Theo Quyết định số 73/2004/QĐ-BTC [16] thì bao gồm Quỹ công chúng và Quỹ
thành viên). Tác giả Nguyễn Thu Thủy (2011) [89] thì phân loại QĐTCK theo: Thứ
nhất, theo hình thức tổ chức (QĐTCK theo mô hình công ty; QĐTCK theo mô hình
tín thác; QĐTCK theo mô hình hợp đồng; QĐTCK theo mô hình hợp danh hữu
hạn); Thứ hai, theo chủ thể đầu tư (Quỹ thành viên, Quỹ đại chúng); Thứ ba, theo
cơ chế vận động vốn (Quỹ đóng, Quỹ mở); Thứ tư, theo danh mục đầu tư (Quỹ đầu
tư cổ phiếu, Quỹ đầu tư trái phiếu, Quỹ thị trường tiền tệ, Quỹ đầu tư chỉ số, Quỹ
đầu tư bất động sản, Quỹ hỗn hợp). Còn Trần Thị Thùy Linh (2011) [65, tr11] đề
cập đến cách phân loại QĐTCK như sau: (i) Theo cơ cấu tổ chức hoạt động (Quỹ
tín thác đầu tư, Quỹ dạng công ty cổ phần, Quỹ công ty con); (ii) Theo cấu trúc vận
động vốn (Quỹ đóng, Quỹ mở); (iii) Theo tính chất của nguồn vốn huy động (Quỹ
tương hỗ, Quỹ thành viên); (iv) Theo tính chất rủi ro (Quỹ đầu tư mạo hiểm, Quỹ
đầu tư tư nhân, Quỹ đầu tư chứng khoán).

Bên cạnh đó, còn có nhiều công trình khác cũng nghiên cứu những vấn đề
liên quan đến lý luận chung về QĐTCK, điển hình như:
Lê Hồng Hạnh (1998), Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ
trong thị trường chứng khoán [54], phân tích bản chất pháp lý của chứng chỉ quỹ
đầu tư, địa vị pháp lý của CTQLQ, tức là tổ chức phát hành chứng chỉ quỹ và vai

trò của chúng trong TTCK. Sự tồn tại của các QĐTCK và CTQLQ bởi những lý do:
(i) Những người đầu tư vào chứng khoán nếu không phải là những công ty lớn sẽ
gặp rất nhiều khó khăn trong việc mua chứng khoán; (ii) Là sự cần thiết phải đa
dạng hóa hoạt động đầu tư chứng khoán; (iii) QĐTCK giúp cho các NĐT nhỏ
10


khắc phục tính chất nghiệp dư của mình trong đầu tư vào chứng khoán. CTQLQ có
mối liên hệ mật thiết với các QĐTCK được đầu tư ủy thác: CTQLQ xin phép lập
QĐTCK; CTQLQ thay mặt QĐTCK phát hành chứng chỉ, quản lý tài sản của quỹ
và thực hiện các giao dịch (ký Hợp đồng với NHGS); CTQLQ là người triệu tập đại
hội những người đầu tư và thực hiện các thủ tục cần thiết để đại hội được tiến hành
thuận lợi; CTQLQ thực hiện việc quản lý quỹ đầu tư theo đúng các quy định của
điều lệ quỹ và nghị quyết của đại hội những NĐT. Tác giả Đoàn Thanh Hà (2002),
Thúc đẩy phát triển QĐTCK - Giải pháp giảm áp lực cầu cổ phiếu trên TTCK hiện
nay [53], đã đưa ra những lý do cho sự tồn tại của QĐTCK đó là:
(i)

QĐTCK là một phương tiện đầu tư tập thể; (ii) Tính chuyên nghiệp của các

QĐTCK; (iii) Tính lỏng và độ an toàn cao của các chứng chỉ đầu tư. Đồng thời,
tác giả cũng đưa ra các kiến nghị nhằm phát triển mô hình QĐTCK: (i) Hoàn
thiện hệ thống pháp lý để tạo hành lang cho các tổ chức tài chính và doanh
nghiệp hoạt động một cách công bằng và hiệu quả; (ii) Có chính sách ưu đãi về
tài chính cho QĐTCK; (iii) Tăng cường đào tạo các chuyên viên lành nghề, am
hiểu về chứng khoán và TTCK, quỹ đầu tư. Hay Trần Vũ Hải (2006), Một số
vấn đề pháp lý về công ty đầu tư chứng khoán [55], nêu ra một số đặc điểm của
CTĐTCK theo quy định LCK 2006; so sánh giữa CTĐTCK và QĐTCK; Tác giả
đưa ra một số nhận xét đối với những quy định hiện hành về CTĐTCK. Đặc
điểm của CTĐTCK: (i) Là mô hình đầu tư kết hợp giữa QĐTCK không có tư

cách chủ thể với Công ty quản lý QĐTCK; (ii) CTĐTCK do chính những NĐT
thành lập; (iii) Hoạt động đầu tư của CTĐTCK vừa giống với QĐTCK, lại vừa
giống với hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán; (iv) CTĐTCK là một
pháp nhân, được thành lập dưới hình thức CTCP.
Ủy ban chứng khoán nhà nước – Trung tâm nghiên cứu khoa học và đào tạo
chứng khoán (2009), Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường
chứng khoán [101, tr291], tại chương VIII (Tổ chức và hoạt động của QĐTCK) đề
cập đến vai trò của QĐTCK, phân loại quỹ đầu tư, hoạt động của quỹ đầu tư, yếu tố
tác động đến sự phát triển hoạt động của QĐTCK và các bên tham gia hoạt động
quản lý quỹ đầu tư. Với vai trò quan trọng và tính ưu việt của
11


QĐTCK, công trình khẳng định QĐTCK luôn được đặt vào vị trí chiến lược
trong sự phát triển ổn định, tạo hiệu quả cho TTCK và được khuyến khích phát
triển trong thời gian đầu phát triển thị trường. Còn các yếu tố tác động đến sự
phát triển hoạt động của QĐTCK là: Trình độ phát triển của nền kinh tế; Sự phát
triển của TTCK; Môi trường pháp lý; Kiến thức về đầu tư của công chúng.
Hai tác giả Judith Chevalier, Glenn Ellison (1997) qua bài viết Risk taking
by Mutual funds as a response to incentives (Chấp nhận rủi ro qua Quỹ tương hỗ
như là một phản ứng để khuyến khích) [110] đánh giá mâu thuẫn nội tại tiềm
tàng giữa NĐT của Quỹ tương hỗ với công ty quản lý Quỹ tương hỗ. NĐT mong
muốn công ty quản lý Quỹ tương hỗ sử dụng những quyết định để tối đa hóa lợi
nhuận trong việc điều chỉnh rủi ro của Quỹ. Tuy nhiên, CTQLQ bị áp lực từ lợi
nhuận, thông tin sở hữu và cách mà họ đầu tư không trực tiếp. Trong mong
muốn để tối đa hóa giá trị, đó là mối lo ngại, là một khuyến khích để thực hiện
những hoạt động làm gia tăng dòng vốn đầu tư. Công trình nghiên cứu On the
Origins of a Conflict of interest in the Mutual Fund Industry (Nguồn gốc của
xung đột lợi ích trong ngành công nghiệp Quỹ tương hỗ) của Sébastien M.
Lemeunier (2011) [116], bàn về xung đột lợi ích của NĐT và tư vấn tài chính

của họ; đưa ra những đóng góp để xử lý vấn đề này trong mối quan hệ với khoản
tiền đầu tư hoặc với thời gian nắm giữ mong đợi của Quỹ tương hỗ.
-

Công trình nghiên cứu lý luận của pháp luật về tổ chức và hoạt động

của Quỹ đầu tư chứng khoán
International Finance Corporation (IFC, 1996), [108, p.14] đề cập sự ảnh
hưởng của Chính phủ đến Quỹ đầu tư theo hai cách: Trực tiếp nhất, Chính phủ xây
dựng các quy chế pháp lý và tài chính của Quỹ đầu tư và thị trường vốn; Thứ hai,
Chỉnh phủ xác định môi trường kinh tế vĩ mô và quy định những hoạt động riêng
trong lĩnh vực kinh tế nói chung. Trong việc phát triển, các Quỹ kinh tế được
khuyến khích bởi việc hỗ trợ đầu tư bằng nhiều cách. Việc điều chỉnh và quy trình
pháp lý mở ra và cho phép giải quyết nhanh chóng các xung đột. Cụ thể là xác định
quyền của NĐT nhằm tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư. Hay Tác giả Olha

O. Cherednychenko (2010), The Regulation of Retail Investment Services in the
12


EU: Towards the Improvement of Investor Rights? (Quy chế dịch vụ đầu tư bán
lẻ ở Liên minh Châu Âu – hướng tới việc cải thiện quyền của NĐT) [113] đã chỉ
ra rằng, mặc dù trên thực tế, hệ thống pháp luật của cộng đồng Châu Âu đã tồn
tại để bảo vệ NĐT bán lẻ. Thị trường trong các dịch vụ đầu tư và sản phẩm bán
lẻ vẫn bị phân tán và manh mún. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng tài chính gần đây
đã làm giảm niềm tin của NĐT vào thị trường tài chính nói chung và “đóng gói”
sản phẩm đầu tư bán lẻ, chẳng hạn như các Quỹ đầu tư hoặc chính sách bảo
hiểm nhân thọ nói riêng. Để xây dựng lại niềm tin của NĐT bán lẻ bằng cách
trao quyền cho NĐT và cơ chế để thực hiện quyền của họ. Bài viết kết luận rằng
quyền đầu tư và các biện pháp cần được thực hiện nghiêm túc hơn khi làm nên

pháp luật về dịch vụ tài chính của Châu Âu. Việc cải tổ hiện tại khuôn khổ pháp
lý của cộng đồng Châu Âu trong các điều khoản dịch vụ đầu tư cung cấp cơ hội
tốt để thực hiện điều này.
Nguyễn Văn Tuyến (2006), Tính hiệu quả của Luật Chứng khoán - sự tiếp
cận từ góc độ kinh tế học pháp luật [98], bài viết dựa vào lý thuyết kinh tế (định lý
Coase) để xem xét và phân tích các tiêu chí cơ bản nhằm đánh giá tính hiệu quả của
Luật Chứng khoán. Các tiêu chí đó là: (i) Tính rõ ràng, minh bạch của các quy định
trong Luật Chứng khoán; (ii) Khả năng giảm thiểu các chi phí tiếp cận thị trường và
chi phí giao dịch cho các bên tham gia thị trường chứng khoán; (iii) Nâng cao mức
độ thỏa mãn các nhu cầu và lợi ích của các bên tham gia TTCK. Tuy nhiên, bài viết
ra đời vào thời điểm Luật chứng khoán 2006 chưa được ban hành. Tác giả Võ Thị
Mỹ Hương (2009), Pháp luật về quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam [62] nghiên
cứu những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật quỹ đầu tư chứng khoán có đề cập
đến sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với tổ chức và hoạt động của
QĐTCK, yêu cầu của pháp luật về QĐTCK, pháp luật về QĐTCK của một số nước
và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực hiện
pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK
-

Công trình nghiên cứu thực trạng pháp luật về tổ chức của QĐTCK

13


Viên Thế Giang - Võ Thị Mỹ Hương (2009), Thực trạng pháp luật Quỹ đầu
tư chứng khoán Việt Nam [51], đã khái quát nội dung các quy định về QĐTCK của
Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời, bài viết đánh giá
những kết quả đạt được trong việc thực thi pháp luật QĐTCK và ghi nhận những

điểm còn tồn tại kể từ khi Luật Chứng khoán có hiệu lực thi hành đến năm 2009.
Nội dung các quy định về QĐTCK của Luật chứng khoán và các văn bản hướng
dẫn thi hành: (i) Hoàn thiện quy định pháp lý về QĐTCK dạng hợp đồng, Luật
chứng khoán quy định thêm mô hình QĐTCK mới đó là CTĐTCK;
(ii)

Quy định cụ thể trình tự, thủ tục thành lập, phát hành chứng chỉ quỹ của quỹ

công chúng; (iii) Bổ sung quy định huy động thành lập QĐTCK, niêm yết chứng
chỉ quỹ ở nước ngoài; (iv) Làm rõ hơn quan hệ giữa CTQLQ với các QĐTCK,
CTĐTCK và với ngân hàng giám sát; (v) Quy định cụ thể hơn quyền và nghĩa vụ
của NĐT tham gia đầu tư vào QĐTCK. Những tồn tại trong việc thực thi pháp luật
QĐTCK như: Chưa có hướng dẫn cụ thể về CTĐTCK; Chưa có quy định phương
thức chuyển đổi từ mô hình QĐTCK dạng hợp đồng sang mô hình QĐTCK dạng
công ty; Quy định về điều kiện thành lập QĐTCK khắt khe hơn so với trước đây;
Các quy định về thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân NĐT chứng khoán sẽ là rào
cản trong việc thúc đẩy phát triển NĐT tham gia thị trường.
Một số bài viết như, Đoàn Minh Phụng (2013), Hành lang pháp lý mới cho
quỹ đóng và quỹ thành viên [75], phân tích một số nội dung của Thông tư
224/2012/TT-BTC ngày 26/12/2012 quy định việc huy động vốn, thành lập, quản lý
và giám sát hoạt động quỹ đóng (không bao gồm quỹ đầu tư bất động sản), quỹ
thành viên trên lãnh thổ nước Việt Nam (thay thế Quyết định số 45/2007/QĐ-BTC
ngày 05/6/2007). Hay Ngô Thị Thùy (2015), Bước cải cách lớn về thu hút dòng
vốn ngoại vào thị trường chứng khoán [92], phân tích một số quy định mới của
Thông tư số 123/2015/TT-BTC hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài trên TTCK
Việt Nam, đó là: Thứ nhất, bãi bỏ cơ chế hợp pháp hóa lãnh sự nên thời gian để
NĐT nước ngoài hoàn tất các thủ tục mở mã số giao dịch chứng khoán được rút
ngắn; Thứ hai, lần đầu tiên mở ra cơ chế cấp mã số giao dịch chứng

14



khoán trực tuyến cho NĐT nước ngoài; Thứ ba, Cơ quan quản lý chấp nhận thụ
lý và giải quyết hồ sơ bằng Tiếng Anh.
Các giáo trình như, Ủy ban chứng khoán nhà nước – Trung tâm nghiên cứu
khoa học và đào tạo chứng khoán (2009), Pháp luật về chứng khoán và thị trường
chứng khoán [102], phân tích việc chào bán CCQ và đăng ký lập quỹ đại chúng; thành
lập quỹ thành viên theo Quyết định số 45/2007/QĐ-BTC; xác định và phân tích về tổ
chức và hoạt động của CTĐTCK theo Luật Chứng khoán và Nghị định số
14/2007/NĐ-CP. Với Giáo trình Luật Chứng khoán của Trường Đại học Luật Hà Nội
[47], xác định nội dung pháp luật điều chỉnh QĐTCK bao gồm: (i) Các loại hình
QĐTCK và CTĐTCK; (ii) Pháp luật điều chỉnh việc thành lập và giải thể QĐTCK và
CTĐTCK (Thành lập Quỹ đại chúng, Thành lập Quỹ thành viên, Giải thể QĐTCK;
Thành lập CTĐTCK đại chúng, Thành lập CTĐTCK phát hành riêng lẻ);
(iii)

Quản trị QĐTCK, CTĐTCK (Đại hội NĐT – cơ quan quyết định cao nhất của

QĐTCK; Đại hội đồng cổ đông và HĐQT của CTĐTCK; Công ty quản lý quỹ;
Ngân hàng giám sát). Tác giả Nguyễn Văn Tuyến (2011), Giáo trình Luật Chứng
khoán, xác định và phân tích về địa vị pháp lý của QĐTCK và CTĐTCK bao gồm
(i) QĐTCK (Khái niệm, phân loại; Thành lập, tổ chức quản trị QĐTCK; Hoạt động
QĐTCK; Quyền và nghĩa vụ của QĐTCK); (ii) CTĐTCK (Khái niệm, phân loại;
Thành lập, tổ chức quản trị CTĐTCK; Hoạt động của CTĐTCK; Quyền và nghĩa
vụ của CTĐTCK) [97, tr32]. Năm 2017, Lê Thị Thu Thủy với công trình Giáo
trình pháp luật về thị trường chứng khoán [87] đã phân tích một số quy định của
pháp luật hiện hành về quỹ đầu tư chứng khoán theo dạng: mô hình quỹ đầu tư
không có tư cách pháp nhân và quỹ đầu tư có tư cách pháp nhân và pháp luật về
công ty quản lý quỹ, pháp luật về ngân hàng giám sát.
-


Công trình nghiên cứu thực trạng về hoạt động của QĐTCK

Huỳnh Thị Hương Thảo (2009), Hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán
niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam, cung cấp sơ nét về tình hình hoạt
động của các QĐTCK nêm yết trên TTCK Việt Nam thông qua các Bảng biểu về
danh sách các CCQ, Bảng thống kê khối lượng giao dịch của CCQ và thị trường,
Bảng thống kê dư mua, dư bán của các CCQ; đưa ra những hạn chế,
15


nguyên nhân làm QĐTCK Việt Nam hoạt động kém hiệu quả như là: (i)
QĐTCK chưa phổ biến tại Việt Nam; (ii) NĐT trở nên thụ động đối với các
khoản đầu tư của mình; (iii) Mức sinh lời thường thấp hơn so với trường hợp tự
đầu tư; (iv) NĐT cho rằng khó có thể giám sát được hoạt động của quỹ đầu tư và
rất dễ xảy ra gian lận tại các Quỹ [81].
Mai Phụng Chiêu (2011), Đánh giá hoạt động của quỹ đầu tư chứng
khoán trên TTCK Việt Nam [45], đánh giá chung về tình hình hoạt động của
TTCK Việt Nam qua 10 năm đi vào hoạt động với các yếu tố: (i) Khung pháp lý,
thể chế chính sách; (ii) Quy mô hàng hóa (nguồn cung) của TTCK; (iii) Nêm yết
và giao dịch chứng khoán; (iv) Hệ thống cơ sở NĐT (cầu đầu tư); (v) Hệ thống
các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán; (vi) Về tổ chức thị trường; (vii)
Hoạt động quản lý, giám sát thị trường. Bên cạnh đó, công trình còn phân tích và
đánh giá một số hoạt động của CTQLQ và QĐTCK trong nước (Công ty quản lý
quỹ với VF1, VF4, VFA và Công ty quản lý quỹ đầu tư Prudential Việt Nam
quản lý quỹ đại chúng PRUBF1).
Nguyễn Duy Linh (2014), Đánh giá hiệu quả của quỹ đầu tư chứng khoán
dạng mở trên TTCK Việt Nam [63], bài viết đánh giá kết quả hoạt động của 3
QĐTCK dạng mở được thành lập đầu tiên tại Việt Nam, đó là Quỹ đầu tư Trái
phiếu MB Capital Việt Nam (MBBF), Quỹ đầu tư trái phiếu Bảo Thịnh (VFF) và

Quỹ đầu tư Năng động Việt Nam (VFMVFA) bằng các phương pháp kinh tế học.
-

Công trình nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về tổ chức và

hoạt động của QĐTCK
Các tác giả Ngô Thanh Long (2006), Pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Quỹ đầu tư chứng khoán [66], Võ Thị Mỹ Hương (2009), Pháp luật về quỹ đầu tư
chứng khoán ở Việt Nam [62], Trần Thị Huyền Trang (2014), Pháp luật về hoạt
động của quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam [95], và Đinh Vũ Hòa (2014), Pháp
luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư khi tham gia quỹ đầu tư
chứng khoán ở Việt Nam [57] là những công trình nghiên cứu có phần nội dung đề
cập liên quan đến thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về tổ chức
và hoạt động của QĐTCK ở Việt Nam. Tuy nhiên, đây là các công trình
16




cấp độ luận văn cao học ngành Luật Kinh tế, thời gian nghiên cứu đã khá lâu

và trên cơ sở các văn bản pháp luật đã lỗi thời, phương pháp nghiên cứu mà các
tác giả sử dụng chủ yếu là phân tích, so sánh, đối chiếu, đánh giá số liệu có sẵn
và có dung lượng ở mức độ hạn chế.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu đã đề xuất các kiến nghị và giải pháp
liên quan đến hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của QĐTCK
Tác giả Ngô Văn Thịnh (2004), Trao đổi về hệ thống kế toán áp dụng cho:
Quỹ đầu tư chứng khoán và Công ty quản lý quỹ [82], đưa ra yêu cầu công tác kế
toán đối với hoạt động của CTQLQ, QĐTCK và một số định hướng để xây dựng hệ
thống kế toán cho loại hình này. Các định hướng như: (i) Chế độ kế toán của

CTQLQ và QĐTCK phải phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nâm, tuân thủ các
quy định pháp lý của Nhà nước về hoạt động Quỹ đầu tư và CTQLQ; (ii) Phải phù
hợp với yêu cầu của chuẩn mực kế toán cũng như thông lệ của quốc tế về hoạt động
quản lý QĐTCK; (iii) Phải đơn giản, gọn nhẹ, phù hợp với trình độ và năng lực
quản lý của các CTQLQ trong giai đoạn hiện nay; (iv) Phải đảm bảo phản ánh tách
biệt tài sản, nguồn vốn cũng như thu nhập, chi phí của bản thân CTQLQ với từng
QĐTCK và với hoạt động nhận ủy thác đầu tư cho NĐT; (v) Phải đảm bảo nguyên
tắc hạch toán đầu tư chứng khoán của các QĐTCK; (vi) Phải đảm bảo về tổ chức
công tác kế toán. Bài viết Chiến lược rút vốn của các quỹ đầu tư chứng khoán Việt
Nam của Nguyễn Xuân Thành (2006) [80], đề cập đến các hình thức thanh hoán
danh mục đầu tư mà các QĐTCK ở Việt Nam có thể sử dụng. Các hình thức thanh
hoán danh mục đầu tư: (i) Thanh hoán gián tiếp; (ii) Thanh hoán trực tiếp (Chuyển
nhượng phần vốn góp cho các đối tác cùng tham gia dự án; Chuyển nhượng phần
vốn góp cho các nhà đầu tư nước ngoài; Quỹ có thể bán trực tiếp cổ phiếu ra công
chúng); (iii) Xóa sổ hoặc bán nợ đối với những khoản đầu tư khó thu hồi. Từ đó,
kiến nghị Nhà nước cần có những quy định cụ thể về việc thanh hoán danh mục đầu
tư của quỹ để hoạt động này được diễn ra một cách trật tự và ổn định, vừa đảm bảo
lợi ích cho QĐTCK, cho NĐT, vừa thúc đẩy sự phát triển TTCK lành mạnh, bền
vững và hiệu quả. Tuy nhiên, bài viết đề cập theo

17


Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng
khoán, hiện nay đã hết hiệu lực.
Đặc biệt, kể từ khi Luật Chứng khoán 2006 được ban hành thì có các công
trình nghiên cứu sau đề cập liên quan đến hoàn thiện pháp luật về tổ chức và
hoạt động của QĐTCK:
Trần Vũ Hải (2006), Một số vấn đề pháp lý về công ty đầu tư chứng khoán
[55], đề xuất các kiến nghị: (i) Cần phải nhận thức rõ ràng về CTĐTCK là một

dạng QĐTCK; (ii) Việc đặt tên tại Chương VII dẫn đến suy luận rằng, CTĐTCK
không phải là QĐTCK, do đó không giải thích được cơ chế hoạt động của mô hình
này và vì sao CTĐTCK lại được quy định chung với QĐTCK; (iii) Xây dựng
những quy định pháp lý nhằm tạo khả năng chuyển đổi thuận lợi nhất từ CTĐTCK
sang mô hình QĐTCK và ngược lại. Tác giả Phạm Thị Giang Thu (2006), Luật
Chứng khoán với việc mở rộng cơ hội đầu tư và khuyến khích đầu tư, phân tích
những quy định của Luật Chứng khoán trong việc tạo cơ hội đầu tư và khuyến
khích các đối tượng tham gia đầu tư vào TTCK Việt Nam. Đồng thời, đưa ra một số
kiến nghị cần tiếp tục thực hiện [84]. Huỳnh Thị Hương Thảo (2009), Hoạt động
của các quỹ đầu tư chứng khoán niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam
[81], bài viết chỉ ra một số giải pháp phát triển QĐTCK Việt Nam: Một là, Đối với
CTQLQ: (i) Tăng cường hệ thống thông tin cho NĐT; (ii) Tạo ra tính ổn định cho
CTQLQ; (iii) Phát huy cả thế mạnh của danh mục đầu tư; Hai là, Đối với cơ quan
quản lý: (i) Cho phép CTQLQ mua lại chứng chỉ quỹ đã phát hành với tỷ lệ nhất
định; (ii) Cho phép thành lập quỹ mở vào thời điểm thích hợp.

Hoàng Đức Long (2010), Hoàn thiện Luật Chứng khoán, nghiên cứu rà
soát Luật Chứng khoán năm 2006 và trải qua 4 năm thực thi thì khi đề xuất các
giải pháp về tính hợp pháp của Luật Chứng khoán trong hệ thống pháp luật về
chứng khoán và TTCK có nêu “Cần bảo đảm đa dạng hóa, đơn giản hóa và linh
hoạt hóa các nguyên tắc hoạt động của các quỹ đầu tư... tạo điều kiện phát triển
ngành quỹ” [67, tr79] và “Xây dựng và ban hành các quy định ở mức độ cao
hơn, bao quát hơn, thống nhất hơn về Quỹ đầu tư” [67, tr81].

18


×