Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Tư duy sáng tạo và phê phán trong giáo dục Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.17 KB, 2 trang )

Có lẽ trong tất cả giảng trình tạo Đại học Harvard không có giảng trình nào thu hút nhiều
sinh viên ghi danh học như giảng trình 101 tư duy về tư duy (101 thinking about thinking –
101 là mã số chung cho tất cả các giáo trình nhập môn tại đại học Mỹ). Trung bình giáo sư
tham gia giảng dạy là ba người thuộc ba chuyên ngành khác nhau, số lượng cán bộ phụ
giảng lên đến 20 người, mỗi cán bộ phụ trách điều khiển thảo luận một nhóm từ 20-25 sinh
viên. Tính hấp dẫn của giảng trình này bao gồm những điều sau đây: thứ nhất, ba giáo sư
cùng giảng một lúc và tranh luận ngay với nhau ngay trước mặt sinh viên; thứ hai, giảng
trình mang tính liên ngành giữa khoa luật, khoa triết và khoa kinh tế; thứ ba, các sinh viên
trực tiếp tham gia tranh luận về những vấn đề thời sự nóng bỏng nhất theo phương pháp
“phê phán và sáng tạo”.
Ba giáo sư thuộc ba chuyên ngành khác nhau sẽ luân phiên trình bày hoặc phản bác lẫn
nhau về một đề tài thảo luận cụ thể, chẳng hạn đề tài: “Nên hay không nên bãi bỏ án tử
hình?”, “Nên hay không nên hợp pháp hoá việc bác sĩ giúp bệnh nhân nan y “ra đi” trong
thoải mái?”, “Nên hay không nên cấm việc mua súng làm phương tiện tự vệ cá nhân?”...
Thông thường vị giáo sư luật sẽ khai mào bằng cách nêu lên một trường hợp cụ thể đang
được tranh cãi trên các phương tiện truyền thông: bác sĩ X đang phải hầu toà vì đã giúp
bệnh nhân Y “về chầu ông bà” một cách êm dịu theo lời yêu cầu khẩn thiết của bệnh nhân
này vì anh ta không chịu nổi những cơ đau đớn khủng khiếp của bệnh ung thư trong giai
đoạn sau cùng. Vị giáo sư triết sẽ nối theo bằng cách phân tích ý nghĩa của cái chết. Ông ta
có thể nói :”Con người có quyền tự do chọn cho mình cái chết xứng đáng với phẩm giá
làm người vì tự do cao cả nhất, tuyệt đối nhất, trong cõi nhân sinh là tự do chọn cho mình
một cách chết”. Ông có thể hùng hồn trích dẫn hàng loạt các sử thi từ Hy Lạp đến Ấn Độ
để ca ngợi thái độ can đảm dám mặt đối mặt với thần chết của những vị anh hùng. Vị giáo
sư kinh tế có thể nhẹ nhàng “đế” thêm rằng hàng năm lợi tức của các công ty mai táng còn
cao hơn cả lợi tức thu được của các công ty thuốc lá, do đó chuyện “cưỡi hạc quy tiên” quả
thật là... đáng khích lệ, chẳng nên cấm thiên hạ tự tử làm gì. Vả lại Trái đấ đang trở nên
chật ních thì chuyện con người đòi tự do “xử lý đời mình” cũng phù hợp với nhu cầu...
hiện đại hoá. Vị giáo sư luật có thể nghiêm nghị bác lại: “Nếu ai cũng có thể tự do xử lý
đời mình thì luật pháp ra đời để làm gì? Bác sĩ X đang sống tại bang Z, mà bang này đã
cấm không cho phép bác sĩ “giết vì lòng nhân đạo”, vậy bác sĩ X đã phạm luật và nên vào
tù ngồi chơi xơi nước, không cần bàn cãi gì nữa”. Sinh viên có toàn quyền giơ tay phát


biểu, tranh cãi với các giáo sư thoải mái, không hề sợ bị các thầy cô “đì điếc” gì cả.
Đó chính là phương pháp giảng dạy phổ biến tại các đại học Mỹ, đặc biệt là tại các khoa
luật, khoa triết, khoa kinh tế, quản trị kinh doanh... vốn là những khoa đòi hỏi khả năng tư
duy phân tích rất cao. Thậm chí, trẻ em Mỹ ngay từ những năm tiểu học đã được khuyến
khích tư duy theo chiều hướng độc lập, tiếp thu có phê phán.
Một em gái 12 tuổi chọn thuyết trình về đề tài “Hồng quân Trung Quốc”. Em đã đến thư
viện tìm đọc các sách báo và xem tất cả cuốn băng video nói về hồng quân. Sau mấy tuần
lễ miệt mài như thế, em kết luận :”Sách báo, phim ảnh nói về đề tài này không thống nhất
gì cả”. Em muốn gặp và phỏng vấn trực tiếp một chiến sĩ hồng quân thứ thiệt.
Trước khi có sáng tạo ra một ý gì mới, cần phải có thái độ tiếp thu có phê phán những ý
tưởng truyền thống một cách nghiêm túc. Sinh viên trong lúc tham gia thảo luận sẽ tìm mọi
lý lẽ khác nhau để phản biện một quan điểm, một lập trường nào đó. Thái độ của các giáo
sư nói chung là cởi mở, tôn trọng ý kiến của sinh viên và khuyến khích tranh luận. Sinh
viên tranh luận càng sôi nổi, hào hứng, lớp học càng được đánh giá cao. Ngay cả các tư
tưởng gia vĩ đại trong truyền thống phương Tây như Plato, Aristotle, Locke, Kant hay
Hegel cũng được sinh viên hăng hái “đưa lên bàn mổ” không hề ái ngại gì hết.
Văn hoá Việt Nam nói riêng và văn hoá Đông Á nói chung có một đặc điểm nổi bật là đề
cao quan hệ xã hội theo hướng dĩ hoà vi quý. Do đặc điểm này chuyện tranh luận sẽ dễ
dàng bị đồng hoá với chuyện tranh cãi hay tranh chấp, nghĩa là những thái độ tiêu cực
mang tính đề cao cá nhân, cục bộ địa phương hay làm mất đoàn kết. Cộng thêm vào đó là
truyền thống tôn sư trọng đạo: thầy gần như cha, mà cha thì chỉ “dạy từ trên xuống” chứ
không thể chấp nhận con dám “dạy từ dưới lên”. Nếu đã gọi là cung cách ứng xử văn hoá,
nghĩa là những lề lối tư duy và hành động đã ăn sâu vào não trạng dân tộc, thì chuyện sửa
chữa không thể một sớm một chiều. Nhưng chớ nên hiểu lầm là hễ phê phán thì bắt buộc
phải loại bỏ thái độ dĩ hoà vi quý. Phê phán không bao hàm thái độ thiếu tôn trọng mà trái
lại là khác: chính là vì một quan điểm nào đó quá mạnh, quá hấp dẫn, quá phổ biến, nên
cần phải nhận định một cách tỉnh táo, sáng suốt. Các tư tưởng gia, triết gia bị phê phán
nhiều nhất, chính là những tên tuổi vĩ đại nhất. Chẳng ai có hơi sức đi tranh luận với những
kẻ vô danh tiểu tốt. Tâm thức Việt Nam thì ngược lại, thường hiểu ngầm rằng phê phán
chính là “chê bai, miệt thị, coi thường”. Trong tinh thần phương Tây, phê phán chính là nỗ

lực nhìn lại vấn đề/quan điểm/ý kiến từ một góc độ tiếp cận mới. Trong viễn cảnh đó, thái
độ tiếp thu có phê phán có thể được xem là bước đi chập chững đầu tien của sáng tạo

×