Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bất cập, hạn chế trong các qui định của pháp luật hiện hành về quyền của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần Một số kiến nghị và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.68 KB, 12 trang )

MỤC LỤC

1


Mở đầu
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiêp với vốn điều lệ được chia nhỏ
thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần. Việc chia nhỏ phần vốn của công ty
hình thành nên sự khác biệt về lượng cổ phần mà các chủ thể nắm giữ, mà trong đó,
cổ đông thiểu số được hiểu là những cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít cổ phần hơn
so với các cổ đông, nhóm cổ đông khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm
2014.
Với những đặc điểm pháp lý liên quan đến loai hình doanh nghiệp là công ty
cổ phần, việc tách biệt giữa quyền sở hữu và chức năng quản lý điều hành sẽ xuất
hiện những trường hợp người quản lý không hành động vì mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận cho toàn bộ các cổ đông. Lúc này, các xung đột về lợi ích giữa cổ đông với
người quản lý xuất hiện và phần lớn các trường hợp, người bị thiệt hơn cả là các cổ
đông mà đặc biệt là các cổ đông thiểu số.
Vậy Luật Doanh nghiệp 2014 quy định như thế nào về việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các cổ đông thiểu số? Tìm hiểu những vấn đề liên quan, bài
tiểu luận chọn đề số 04: “Bất cập, hạn chế trong các qui định của pháp luật hiện
hành về quyền của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần - Một số kiến nghị và
giải pháp.”

2


I.
1.

Quyền của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần


Khái quát và đặc điểm của Công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Công ty cổ phần là một dạng pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn, được thành
lập, tồn tại độc lập đối với những chủ thể sở hữu nó và là một dạng đặc trưng của
công ty đối vốn. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, công ty cổ phần có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, về thành viên. Theo quy định của pháp luật doanh nghiệp hiện hành
thì số lượng cổ đông trong công ty cổ phần tối thiểu là 3 cổ đông và không giới hạn
số lượng tối đa. Cổ đông công ty cổ phần có thể là cá nhân, tổ chức không thuộc
các trường hợp bị cấm theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về vốn điều lệ. Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ phần mang bản chất là quyền tài sản, nó là phần chia
nhỏ nhất của vốn điều lệ của công ty. Cổ phần là đơn vị biểu hiện quyền sở hữu tài
sản trong công ty, là căn cứ để xác lập tư cách thành viên của công ty. Việc góp vốn
vào công ty cổ phần có thể được thực hiện bằng cách mua cổ phần, mỗi cổ đông có
thể mua nhiều cổ phần. Việc chia vốn của công ty thành các cổ phần là vấn đề căn
bản nhất của loại hình doanh nghiệp này.
Thứ ba, đối với trách nhiệm tài sản. Công ty cổ phần chịu trách nhiệm bằng
chính toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ và nghĩa vụ của công ty. Các
cổ đông chỉ chịu trách nhiệm tài sản hữu hạn về các nghĩa vụ tài sản của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Cuối cùng, về tư cách pháp nhân. Mô hình công ty này có tư cách pháp nhân
từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

3


2.

Định nghĩa cổ đông và nhóm cổ đông thiểu số
Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có một định nghĩa về cổ đông thiểu số hay

các đặc điểm của cổ đông thiểu số. Tuy nhiên, có thể hiểu một cách đơn giản, cổ
đông thiểu số là cổ đông sở hữu ít cổ phần, ít vốn.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 9 Luật Chứng khoán 2006: “Cổ đông lớn là cổ
đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ năm phần trăm trở lên số cổ phiếu có quyền
biểu quyết của tổ chức phát hành.” Cách giải thích này phần nào phân biệt cổ đông
nhỏ dựa trên những quy định về cổ đông lớn bằng cách đưa ra một tỷ lệ chính xác
là 5% để phân định ranh giới giữa cổ đông lớn và loại cổ đông còn lại trong công ty
cổ phần, lúc này cổ đông sở hữu dưới 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết được
coi là cổ đông nhỏ.
Tuy nhiên, xem xét trên nhiều khía cạnh, việc nhận định cổ đông thiểu số
không nên chỉ căn cứ vào việc ấn định tỉ lệ sở hữu vốn cụ thể mà cần phải xem xét
khả năng chi phối của cổ đông trong việc xây dựng và phát triển công ty.
Đối quy định về nhóm cổ đông, thực tế cho thấy tỷ lệ phần vốn góp mà cổ
đông nắm giữ quyết định khả năng tham gia vào quá trình quản lý hoạt động của
công ty cổ phần. Theo đó, nhóm cổ đông sở hữu tỷ lệ cổ phần càng cao thì khả
năng chi phối công ty càng lớn và ngược lại. Cổ đông thiểu số với số vốn góp hạn
chế sẽ gặp phải không ít những bất lợi khi thực hiện quyền biểu quyết các vấn đề
quan trọng trong công ty và để tự bảo vệ mình những cổ đông có tiếng nói chung
có thể tập hợp lại, thông qua nhóm cổ đông thực hiện các quyền mà pháp luật cho
phép.
Luật Doanh nghiệp 2014, từ nội dung quy định tại khoản 2 Điều 114, có thể
hiểu “Nhóm cổ đông là một tập hợp các CĐTS sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ
thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn
quy định tại Điều lệ công ty”. Nhờ đó, cổ đông tự mình hoặc được gộp các cổ đông
nhỏ lẻ thành nhóm cổ đông để thực hiện các quyền của mình theo quy định.
4


Quyền của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần


II.

Về mặt pháp lý, cổ đông hay nhóm cổ đông dù nắm giữ bao nhiêu cổ phần thì
trước hết, họ là những cổ đông phổ thông có đầy đủ các quyền như quy định tại
khoản 1 Điều 114 Luật Doanh nghiệp 2014. Tuy nhiên, sự chênh lệch về cổ phần
nắm giữ giữa các cổ đông cũng tạo nên sự khác biệt về quyền lợi.
1.

Quyền tài sản
a. Quyền ưu tiên mua cổ phần khi công ty phát hành cổ phần mới.
Luật Doanh nghiệp quy định, khi công ty cổ phần muốn huy động thêm nguồn
vốn hoặc tăng vốn điều lệ thì công ty có quyền phát hành thêm cổ phần mới. Và khi
đó, tất cả các cổ đông hiện hữu có quyền mua thêm những cổ phần mới phát hành
đó, theo một tỷ lệ tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần của mình trong công ty.
Xuất phát từ việc mua theo tỷ lệ cổ phần đã sở hữu dẫn đến một thực tế rằng
trong nhiều trường hợp, các cổ đông lớn, người quản lý công ty thường sử dụng
việc phát hành thêm cổ phần mới, để thực hiện ý đồ tăng tỉ lệ sở hữu của mình
trong công ty nhằm thâu tóm công ty và nhằm lấy đi một phần tài sản chung của tất
cả cổ đông trong công ty. Bên cạnh đó, cổ đông lớn thường có vị trí trong Hội đồng
quản trị hoặc vị trí quản lý, lợi dung ưu thế về số phiếu biểu quyết của mình để
thông qua những quyết định bất lợi cho cổ đông nhỏ, ngăn cản, hạn chế cổ đông

b.

thiểu số thực hiện quyền ưu tiên mua cổ phần khi công ty phát hành cổ phần mới.
Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần
Khoản 1 Điều 129 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định cổ đông có quyền yêu
cầu công ty mua lại cổ phần mà mình đang sở hữu trong những trường hợp: “Cổ
đông biểu quyết phản đối nghị quyết về tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền,
nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty có quyền yêu cầu công ty mua

lại cổ phần của mình”.
Tại khoản 2 Điều này quy định thời hạn mà công ty phải mua lại cổ phần của
cổ đông là 90 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của cổ đông, bên cạnh
đó, khi không thỏa thuận được về giá và không tìm được nhà đầu tư khác để
5


chuyển nhượng, thì giá cổ phần sẽ được xác định bởi một tổ chức định giá chuyên
nghiệp do công ty giới thiệu.
Như đã nói trước đó, các cổ đông lớn thường có vi trị trong Hội đồng quản trị
và các vị trí quả lý khác, việc giới thiệu tổ chức định giá sẽ bị ảnh hưởng bởi các
quyế định của họ, gây ra bất lợi cho các cổ đông thiểu số. Ngoài ra, pháp luật
không quy định cụ thể chi phí định giá sẽ do cổ đông yêu cầu hay công ty thanh
toán. Do đó, các công ty có thể dựa vào điều này để hạn chế quyền yêu cầu mua lại
cổ phần của cổ đông, bằng cách yêu cầu cổ đông phải trả ít nhất là một nửa, hoặc
2.
a.

toàn bộ chi phí này.
Quyền quản trị
Quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát
Quyền đề cử người được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 114 Luật doanh
nghiệp 2014:
Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở
lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định
tại Điều lệ công ty có các quyền sau đây:
a) Đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát;
Tuy nhiên, hiện tại Nghị định 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 Quy định chi
tiết một số điều của Luật doanh nghiệp cũng không quy định những vấn đề về số
lượng ứng cử viên cụ thể mà mỗi nhóm cổ đông được đề cử.

Ngoài ra, trong quy định khả năng gom nhóm của cổ đông để nâng cao quyền
lực cho cổ đông, thực hiện quyền một cách tập thể có phần bất hợp lý khi ràng buộc
điều kiện các cổ đông hay nhóm cổ đông phải nắm giữ cổ phần tối thiểu trong 6
tháng. Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về dân sư quy định khi đã
là chủ sở hữu thì đương nhiên có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt, tuy nhiên
quy định này lại tước đi quyền định đoạt của cổ đông thiểu số.

b.

Quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông
6


Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có quyền quyết định cao nhất trong công ty
cổ phần, bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết. là rất lớn.
Nếu như trước đây, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định tỷ lệ cổ đông dự họp
lần thứ nhất, lần thứ hai (khi lần thứ nhất không đủ điều kiện) lần lượt là: ít nhất
65% và ít nhất 51% thì Điều 141 Luật Doanh nghiệp 2014 giảm xuống còn: ít nhất
51% và ít nhất 33%. Điều này đã tạo điều kiện cho các cổ đông thiểu số thực hiện
quyền tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông được dễ dàng hơn vì các cổ đông nhỏ thì
sở hữu ít cổ phần nên họ phải phối hợp với nhau để tạo thành nhóm cổ đông đạt tỷ
lệ đủ điều kiện tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông lần thứ hai mà không cần phải
chờ đến lần thứ ba.
Tuy nhiên, hiện nay, các cổ đông thiểu số trong nhiều công ty đang bị hạn chế
quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông bởi các cổ đông lớn và Hội đồng quản trị bằng
cách đưa ra những điều kiện với việc phải sở hữu số cổ phần tối thiểu mới được
tham dự Đại hội đồng cổ đông. Đây là điểm chưa khắc phục được của Luật mới.
c.

Quyền biểu quyết và tỷ lệ biểu quyết thông qua quyết định tại Đại hội đồng cổ

đông.
Điều 144 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định tỷ lệ thông qua các quyết định
của Đại hội đồng cổ đông: từ 51% đối với quyết định thông thường, từ 65% đối với
quyết định quan trọng trong khi Luật Doanh nghiệp 2005 quy định tỷ lệ cũ là 65%
và 75%. Xét trên phương diện bảo vệ cổ đông thiểu số việc giảm tỉ lệ trên dường
như gây bất lợi hơn so với Luật Doanh nghiệp 2005.
Ngoài ra, trong trường hợp các bên có thỏa thuận một tỷ lệ lớn hơn thì sẽ áp
dụng theo tỷ lệ đó. Do vậy, trong đàm phán ban đầu nếu các cổ đông nhỏ có thể đạt
được các thỏa thuận có lợi, trong đó tỷ lệ cổ phần được thông qua lớn hơn những
con số trên thì thỏa thuận đó vẫn là hợp pháp và sẽ bảo vệ quyền lợi của cổ đông
tốt hơn. Mặt khác, việc giảm tỷ lệ biểu quyết theo quy định tại Luật Doanh nghiệp
7


2014 còn hạn chế được những trường hợp chỉ vì lợi ích của một cổ đông thiểu số
trong công ty mà ngăn cản những chính sách lớn có lợi cho đa số cổ đông.
3.

Quyền tiếp cận thông tin
Quyền được nắm bắt những thông tin về công ty một cách đầy đủ là một trong
những quyền cơ bản và quan trọng của cổ đông, là cơ sở để cổ đông thực hiện các
quyền cơ bản khác như quyền biểu quyết trong cuộc họp Đại hội đồng cổ đông,
quyền bầu và miễn nhiệm Hội đồng quản trị và cả quyền chuyển nhượng cổ phần.
Đối với việc xem xét và trích lục sổ sách, tài liệu của cổ đông thiểu số tại điểm
b khoản 2 Điều 114: “b) Xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của Hội
đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm theo mẫu của hệ thống kế
toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát;”
Tuy nhiên, việc quy định như vậy còn tồn tại hạn chế, việc giới hạn chủ thể
được yêu cầu cung cấp phải là cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% số cổ
phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng cũng làm hạn chế các quyền

tham dự vào hoạt động của công ty đối với các cổ đông thiểu số.
Như vậy, có thể nhận thấy pháp luật đã trao quyền cho cổ đông thiểu số cơ hội
được tiếp cận thông tin để có thể kiểm soát và theo dõi được tình hoạt động của
công ty, tuy nhiên với việc hạn chế lượng thông tin bắt buộc phải cung cấp và giới
hạn về chủ thể được yêu cầu cung cấp đã phần nào cản trở mục đích bảo vệ cổ
đông thiểu số của nhóm quyền này trên thực tế.

4.

Quyền khởi kiện và yêu cầu hủy quyết định của Đại hội đồng cổ đông
Về quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, Điều 147 Luật
Doanh nghiệp 2014 đã giới hạn lại chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài
xem xét hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông đó là “cổ đông hoặc nhóm cổ

8


đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít
nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty”.
Trước đây, Luật Doanh nghiệp 2005 trao quyền này cho tất cả các cổ đông,
mặc dù có lợi hơn cho các cổ đông thiểu số nhưng lại không tránh được khả năng
bị lạm dụng bởi những vi phạm trong quá trình triệu tập và ra quyết định của Đại
hội đồng cổ đông rất phổ biến. Đối với vấn đề này, dù việc bảo vệ cổ đông thiểu số
là cần thiết nhưng phải trên cơ sở hợp lí, các quy định của pháp luật vẫn phải tránh
việc gây bất lợi cho cổ đông lớn do đó luật đã quy định chặt chẽ hơn vấn đề này.
Về quyền khởi kiện đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc, Điều 161 quy định như sau: “Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít
nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có quyền tự mình
hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên Hội đồng
quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong một số trường hợp Luật định”.

Nếu như trước đây, Nghị định 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành
một số điều Luật Doanh nghiệp 2005 quy định cổ đông, nhóm cổ đông nói trên
không được trực tiếp khởi kiện ngay từ đầu mà phải thông qua Ban kiểm soát, chỉ
sau 15 ngày kể từ ngày Ban kiểm soát nhận yêu cầu mà không tiến hành khởi kiện
thì cổ đông, nhóm cổ đông trên mới có quyền trực tiếp khởi kiện. Việc trao quyền
trực tiếp khởi kiện các chức danh quản lý cho cổ đông, nhóm cổ đông ngay từ ban
đầu mà không phải thông qua Ban kiểm soát sẽ giảm bớt tính phức tạp trong thủ tục
khởi kiện những chức danh quản lý của công ty. Thêm vào đó, họ có thể nhân danh
công ty khởi kiện người quản lý khi phát hiện người quản lý có các hành vi vi
phạm, gây thiệt hại cho công ty để đòi bồi thường thiệt hại sẽ góp phần bảo vệ cổ
đông thiểu số một cách hữu hiệu.

III.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm bảo vệ cổ đông thiểu số
9


So với Luật Doanh nghiệp 2005, những quy định trong pháp luật hiện hành đã
thiết lập một cơ chế bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần tiêu biểu như:
việc mở rộng hình thức tham gia và giảm tỉ lệ tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông
khắc phục những trường hợp có thể gây khó khăn cho cổ đông thiểu số trong việc
dự họp hay trao quyền trực tiếp khởi kiện các chức danh quản lý công ty cho các cổ
đông. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa hiệu quả việc bảo vệ cổ đông thiểu số, người
viết xin đề xuất một số giải pháp sau:
Thứ nhất, như đã trình bày, pháp luật Việt Nam chưa có một định nghĩa nào về
cổ đông thiểu số, đặc điểm của cổ đông thiểu số, pháp luật cần đưa ra những quy
định về trường hợp này. Theo đó, khi nhận định cổ đông thiểu số không nên chỉ căn
cứ vào việc ấn định tỉ lệ sở hữu vốn cụ thể mà cần phải xem xét khả năng chi phối
của cổ đông trong việc xây dựng, phát triển của mỗi công ty.

Thứ hai, việc sở hữu là quyền của mỗi cá nhân, không nên quy định về thời
gian sở hữu cần thiết để các cổ đông thực hiện các quyền khác của mình.
Thứ ba, mặc dù Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những quy định mới về quyền
nhận cổ tức, tuy nhiên để giải quyết tình trạng chậm chi trả cổ tức, không chịu chi
trả cổ tức cho cổ đông đang diễn ra phổ biến trong thời gian gần đây một cách triệt
để cần phải quy định rằng việc chi trả cổ tức đúng thời hạn là trách nhiệm, nghĩa vụ
của người quản lý công ty và nếu không thực hiện đúng thì họ phải chịu trách
nhiệm cá nhân. Bởi nếu chỉ bắt công ty trả thêm phần lãi do chậm trả cổ tức thì
thực chất đây vẫn là tiền của cổ đông.
Thứ tư, bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của cổ đông là việc hết sức quan trọng
và phải được thực hiện thông qua các cơ chế pháp lý, bởi chúng ta không thể nào
trông chờ vào sự trung thực và mẫn cán từ những người quản lý công ty như nghĩa
vụ họ phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Bởi vậy, pháp luật nên yêu cầu
công ty cổ phần công bố thông tin cụ thể và chi tiết hơn đặc biệt là những thông tin
10


về người quản lý của công ty, hay những chiến lược kinh doanh của công ty. Bên
cạnh đó, cần quy định trách nhiệm của người quản lý công ty trong việc cung cấp
thông tin cho cổ đông, mở rộng quyền khởi kiện cho cổ đông thiểu số khi người
quản lý công ty ngăn cản quyền tiếp cận thông tin của mình.
Cuối cùng, đối với những quy định mới về khởi kiện thành viên Hội đồng
quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, pháp luật cần làm rõ trong trường hợp nào
cổ đông, nhóm cổ đông khởi kiện nhân danh công ty, trường hợp nào khởi kiện
nhân danh chính mình theo để có thể áp dụng quy định này trong thực tế. Bổ sung
những quy định về khởi kiện thành viên Ban kiểm soát nhằm tăng cường trách
nhiệm của họ đối với việc giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc trong việc quản lý và điều hành công ty.

.


11


Kết luận
So với Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những sự
thay đổi nhằm bảo vệ tốt hơn về quyền và lợi ích những cổ đông hay nhóm cổ đông
thiểu số thường xuyên chịu những bất lợi so với những cổ đông khác trong công ty
cổ phần. Dù còn những tồn tại, hạn chế nhưng với những thay đổi hiện tại, pháp
luật Việt Nam sẽ ngày càng hoàn thiện và thay đổi xếp hạng cùng chỉ số bảo vệ nhà
đầu tư để hướng đến một môi trường kinh doanh phát triển trong tương lai.
Bài tiểu luận trên đây là góc nhìn của người viết về những bất cập, hạn chế
trong các qui định của pháp luật hiện hành về quyền của cổ đông thiểu số trong
công ty cổ phần cùng những kiến nghị và giải pháp khắc phục. Do quá trình tìm
hiểu còn nhiều thiếu sót, người thực hiện rất mong nhận được góp ý từ quý thầy/cô.

12



×