Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

MỘT số BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH cực của học SINH TRONG VIỆC học TIẾNG ANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.91 KB, 19 trang )

I. TÊN ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA
HỌC SINH TRONG VIỆC HỌC TIẾNG ANH

II. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Đất nước ta đang trên đà phát triển, hội nhập vào khu vực và thế giới, thực
hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa, xây dựng và phát
triển đất nước trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin. Vì vậy ngoại ngữ
nhất là Tiếng Anh có vai trò và vị trí quan trọng trong sự nghiệp giáo dục đào
tạo và phát triển của đất nước. Với tầm quan trọng đó môn ngoại ngữ ngày
nay trở thành môn văn hóa cơ bản, bắt buộc trong nhà trường phổ thông. Tuy
nhiên, Tiếng Anh là môn học đòi hỏi người học phải chịu khó, đầu tư nhiều
thời gian, phải có phương pháp học phù hợp. Hiện nay, tình trạng chất lượng
học tập môn Tiếng Anh còn thấp do nhiều nguyên nhân: trước hết là do phụ
huynh, học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn học, do đó
chưa có sự đầu tư thời gian, chưa nỗ lực vượt khó học tập; nhiều học sinh đến
giờ học không chú ý tập trung, về nhà không chịu làm bài tập, không chịu khó
rèn luyện học hỏi nên không thể tiến bộ được; ngoài ra, cùng với sự phát triển
kinh tế, có nhiều loại hình vui chơi, giải trí – nhất là Game –online ra đời thu
hút, lôi cuốn phần đông học sinh; nó đã và đang “đầu độc” , làm hao tốn biết
bao nhiêu thời gian dành cho việc học tập của học sinh; nhiều học sinh sa đà,


việc học ngày càng sao nhãng. Điều này cũng góp phần làm cho học sinh học
yếu nhiều môn học trong đó có môn Tiếng Anh.
Trong tiết học, những học sinh yếu, kém rất thụ động, các em hầu như
không hiểu bài, không thích học, có em sợ không muốn học môn Tiếng Anh.
Là một giáo viên tôi luôn trăn trở làm sao để giải quyết vấn đề này. Từ những
lý do trên tôi xin đưa ra đề tài: “Một số biện pháp phát huy tính tích cực của
học sinh trong việc học Tiếng Anh ”


III. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Trong phương pháp dạy học ngày nay, việc dạy học theo hướng phân hóa
đối tượng học sinh được áp dụng có hiệu quả, trong một lớp học khả năng tiếp
thu kiến thức của các em học sinh không đồng đều, vì vậy khi áp dụng
phương pháp cần chú ý đến đặc điểm của từng đối tượng học sinh, nếu áp
dụng một phương pháp chung cho cả lớp thì đối với các em học yếu sẽ không
theo kịp các bạn, tiếp thu không hết những kiến thức mà giáo viên muốn
truyền đạt, đôi khi bị hỏng kiến thức. Nếu người giáo viên trong quá trình dạy
học chú ý tìm hiểu, quan tâm và phân loại đối tượng học sinh, trên cơ sở đó
chọn lọc kiến thức truyền đạt, sử dụng phương pháp dạy học phù hợp với khả
năng tiếp thu của các em thì sẽ đạt được kết quả tốt nhất.
Để thực hiện được công việc này đòi hỏi người giáo viên phải tốn nhiều
công sức và thời gian cho việc soạn giáo án, đặc biệt phải chọn lọc kiến thức
trọng tâm, kiến thức nâng cao để truyền đạt phù hợp cho từng đối tượng học
sinh.

-2-


Đặc biệt đưa ra những biện pháp giúp đỡ học sinh yếu, kém, làm sao trong
tiết học các em hứng thú, tích cực chủ động học tập .
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Thực trạng học sinh học yếu môn tiếng Anh khá phổ biến ở trường THCS
Võ Thị Sáu đơn vị tôi đã được phân công giảng dạy nhiều năm liền và hầu
như các lớp mà tôi giảng dạy đều có nhiều đối tượng học sinh yếu kém. Các
em không nắm chắc kiến thức: cụ thể vốn từ và ngữ pháp rất hạn chế. Các em
chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của môn Tiêng Anh, chưa có phương
pháp học tập phù hợp, học tập một cách thụ động. Các em cảm thấy không tự
tin và không có hứng thú trong việc học Tiếng Anh. Chính vì lẻ đó nhiều học
sinh cảm thấy chán và ngồi thụ động trong giờ học, làm cho không khí lớp

học rất căng thẳng. Các em dường như nhút nhát và sợ hãi mỗi khi học Tiếng
Anh.
Với thực trạng trên là một giáo viên tôi luôn tìm tòi, suy nghĩ tìm nhiều
biện pháp để tìm hiểu, giúp đỡ các em nhận thức được việc học Tiếng Anh,
tạo hứng thú cho các em trong học tập và thích học môn học này
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
1. Hướng dẫn các em cách tự học và tự chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Thông thường học sinh yếu, kém đa phần là do các em không biết cách
học hoặc thiếu ý thức học tập. Vì vậy là giáo viên bộ môn, tôi nhận thấy được
điều này nên hướng dẫn cho các em sắp xếp lịch học tập có thời gian và công
việc rõ ràng sao cho phù hợp để các em tự học .
-3-


Hơn nữa theo tôi khi giáo viên cho học sinh bài tập về nhà nên hạn chế số
lượng đối với các em yếu kém, giao bài tương ứng phù hợp với các em. Và
khi cho bài tập hay từ vựng để các em chuẩn bị phải có kiểm tra và khích lệ
các em. Đây cũng là một trong các yếu tố giúp các em hứng thú, ham học và
học bài tốt hơn.
2. Nói chuyện với học sinh về những thói quen giúp học tốt Tiếng Anh.
Mỗi ngày sau khi học nên dành một ít thời gian để nghe các bài hát Tiếng
Anh. Ngoài ra đọc những mẫu chuyện cười, những câu danh ngôn bằng Tiếng
Anh ….
Học sinh nhất là học sinh yếu, kém rất thích nghe nhạc hoặc truyện
cười. Vì thế ở một số tiết nội dung phù hợp hoặc có thời gian tôi cho học sinh
nghe bài hát Tiếng Anh có kèm theo lời bài hát, hoặc kể kèm theo viết ra
những mẫu truyện cười hoặc câu danh ngôn các em tâm đắc. Qua đó các em
học được một số từ vựng và cụn từ một cách tích cực, hứng thú. Từ đó các em
cảm thấy thích học mônTiếng Anh hơn.
3/ Tạo điều kiện cho học sinh tham gia làm việc nhiều hơn trong giờ học

Trong các giờ học, giáo viên giảng hầu như toàn bộ thời gian. Học sinh còn ít
thời gian để luyện tập. Tuy nhiên học sinh là người cần phải luyện tập, chứ
không phải giáo viên.Thời gian cho một tiết học là cố định. Hoạt động của
giáo viên càng nhiều, thì hoạt động của học sinh càng ít. Giáo viên càng nói
nhiều thì học sinh càng ít có cơ hội nói. Do vậy, giáo viên nên tránh những
thói quen sau:
-4-


- Lặp đi lặp lại không cần thiết (khi đặt câu hỏi, hoặc đưa ra yêu cầu);
-

Đặt

câu

hỏi

rồi

chưa

đợi

lâu

đã

tự


trả

lời;

- Nói chuyện về một chủ đề không định trước, không có trong bài học;
- Quá chú ý sửa những lỗi sai của học sinh mà lẽ ra không phải là trọng tâm
của tiết học.
- Đôi khi phàn nàn về một học sinh trong giờ học quá khứ.
4. Tôn trọng ý kiến học sinh, khuyến khích tinh thần học tập, mang lại sự
tự tin cho các em:
Thường các em học sinh yếu hay mặc cảm, tự ti, nhút nhác. Vì vậy nên tránh
những lời nhận xét có tính chê trách, từ ngữ nặng nề sẽ làm cho các em buồn
chán, tự ti. Giáo viên nên khuyến khích, động viên, khen ngợi bằng cách hoan
nghênh các em khi các em trả lời đúng, nếu như các em trả lời sai giáo viên
không nên kết luận là sai liền mà nên mời bạn khác có ý kiến trả lời sau đó
giáo viên mới kết luận. Đồng thời nên động viên các em cố gắng nhiều hơn để
lần sau trả lời đúng.
Để mang lại sự tự tin cho các em nên dành những câu hỏi dễ cho các em học
sinh yếu, khi các em trả lời đúng thì các em trở nên tự tin hơn, mạnh dạn phát
biểu hơn và để khuyến khích các em giáo viên nên khen ngợi và cũng có thể
cộng điểm cho các em
Nên tạo không khí thoải mái trong giờ học, không áp đặt mà cho các
em tự do phát biểu trình bày ý kiến của mình, đồng thời giáo viên nên dùng
những từ ngữ nhẹ nhàng khi nhận xét, đánh giá các em.
-5-


5. Áp dụng một số trò chơi ngôn ngữ trong quá trình dạy Tiếng Anh.
Hiểu được tâm, sinh lý của học sinh, tôi đã thay đổi phương pháp học
cho các em vừa chơi vừa học, tạo cho các em không khí nhẹ nhàng, thoải mái

khi học bằng các trò chơi ngôn ngữ. Những trò chơi ngôn ngữ làm hoạt động
tư duy của các em tinh nhạy hơn bởi các em sẽ huy động hết trí lực của mình,
nỗ lực vận dụng được kiến thức mà giáo viên mong đợi một cách không ép
buộc - điều mà các em hay lo ngại lâu nay, tạo ra được bầu không khí vui vẻ,
hào hứng ... Và như thế, tất cả các em đều bị lôi cuốn vào việc học một cách
rất tự nhiên.
Tùy thuộc vào nội dung và mục đích của từng bài học, từng trình độ
học sinh chúng ta có thể áp dụng từng loại hình trò chơi khác nhau cho từng
giai đoạn của một tiết dạy-học khác nhau. Từ khâu mở đầu cho một tiết dạy
(khởi động), dẫn dắt vào bài, giới thiệu ngữ liệu, thực hành, củng cố cho đến
ôn tập, kiểm tra, mở rộng… Bất cứ ở bước nào chúng ta cũng có thể áp dụng
được trò chơi ngôn ngữ một cách linh hoạt, tự nhiên mà hiệu quả. Sau đây, tôi
xin được giới thiệu cụ thể một số trò chơi tôi đã áp dụng nhiều trong ba giai
đoạn: khởi động, củng cố và ôn tập.
Những trò chơi ngôn ngữ này, với các tiết dạy ứng dụng công nghệ
thông tin người dạy có thể soạn bằng powerpoint; trong các tiết dạy thông
thường thì có thể viết, vẽ trực tiếp lên bảng hoặc bìa, giấy miễn là có sự chuẩn
bị trước của giáo viên.
5.1/ Giai đoạn khởi động vào bài:

-6-


Có thể nói đây là giai đoạn khá thú vị trong tiết học. Nó góp phần quyết
định sự thành công của giờ dạy bởi vì việc tạo được hứng thú, ấn tượng ban
đầu rất quan trọng. Người học có hứng thú hay không, chính nhờ vào sự khéo
léo của giáo viên trong phần khởi động, dẫn dắt này.
Mục đích trò chơi ngôn ngữ trong giai đoạn này là làm thế nào trò chơi
phải vừa nhắc lại được những kiến thức cũ, vừa liên kết, giới thiệu được kiến
thức mới một cách rất tự nhiên mà thú vị, khiến cho người học cảm thấy tự

nhiên, hứng khởi và tò mò muốn khám phá cho được nội dung của bài học
mới. Đạt được điều đó thì trò chơi mới thành công.
* Trò chơi “Guessing game”: “Ten questions” áp dụng cho giai đoạn khởi
động của bài học trong Unit 1-SGK TA 9 (phần 5.read): Nội dung bài khoá
nói về đất nước và con người Malaysia.
*Mục đích:
- Luyện tập học sinh lại câu hỏi Yes/No questions.
- Dẫn dắt, hướng dẫn học sinh vào nội dung bài mới.
- Tạo không khí sôi động đầu giờ học.
* Thời gian thực hiện: 3 - 5 phút
*Tiến hành:
- Phân chia lớp học thành 2 đội.
- Giáo viên giải thích cách chơi: I think of a country. You have to ask
me questions to find out which country it is . I can only answer “Yes” or “No”
and you can only ask 10 questions. The team has the correct answer first will
win the game.
-7-


- GV đưa ra gợi ý: “This country is in Asia”.
- Học sinh đặt câu hỏi để đoán xem đó là đất nước nào.
Is it very big?
Is it in Asian?
Is it near Viet Nam? Singapore?
Is it a rich country?
Is its capital Kuala Lampur?…
- Giáo viên chỉ được trả lơì bằng “Yes” hoặc “No”.
- Đội nào đoán ra đáp án trước đội đó sẽ chiến thắng.
- Sau khi học sinh đã đoán ra đó là “Malaysia”, giáo viên hỏi thêm một
số câu hỏi để dẫn dắt học sinh vào bài học mới.

Ex: What do you know about Malaysia?
What is the climate of Malaysia?
What is the Malaysia units of currency? …
The lesson today will tell us about those…
* Kiểu trò chơi này có thể áp dụng để khởi động cho một số chủ điểm khác
như: về con người- People (một người nổi tiếng, chẳng hạn Alexander
Graham Bell – English 8- Unit 2-Read; Unit 16-English 7)…; về nơi chốnPlaces (một số địa danh–unit 14- English 8- Listen and read, Units 6, 15
-English 6; Units 8, 16 -English 7 …); hoặc về đồ vật- Things (Units 2,5English 9; Units 9,15, 16 English 8…) để giới thiệu các từ chủ điểm của bài
học, tiết học. Những chủ điểm này được rải đều ở chương trình Tiếng Anh
6,7,8,9.
-8-


* Giai đoạn khởi động này còn có thể áp dụng rất nhiều trò chơi khác
như: Jumple words, Crosswords, Hangman, Shark attack … tuỳ theo nội dung
cuả từng tiết dạy và sở thích của mỗi giáo viên.
5.2- Giai đoạn củng cố:
Đây là giai đoạn rất hữu ích để áp dụng các trò chơi đa dạng, phong
phú và hiệu quả. Áp dụng trò chơi ở giai đoạn này vừa nhằm mục đích khắc
sâu lại kiến thức cho học sinh, vừa là dịp để giáo viên nắm được kết quả tiếp
thu bài ngay tại lớp của học sinh. Đồng thời tạo được không khí vui tươi, thư
giãn cuối giờ học.
Giai đoạn này có rất nhiều trò chơi, tuy nhiên người dạy phải biết lựa
chọn những trò chơi phù hợp với nội dung bài học và những kĩ năng cần rèn
luyện.
Sau đây là một số trò chơi áp dụng cho một số tiết học cụ thể.
a- Trò chơi Miming (Kịch câm)
Trò chơi này áp dụng cho Unit 12- A- What are they doing? English 6
*Mục đích:
- Củng cố từ và mẫu câu vừa học.(dùng thời hiện tại tiếp diễn để

miêu tả các hoạt động)
- Tạo cho người học thói quen tự nhiên trong giao tiếp, mạnh dạn
khi đứng diễn trước đám đông.
- Giúp người học nâng cao khả năng diễn xuất bằng hành động,
* Thời gian thực hiện: 5’-7’
*Cách chơi:
-9-


- Chia lớp làm 2 đội.
- Mỗi đội cử một bạn lên trước lớp để diễn các hành động đã
được giáo viên chuẩn bị từ trước (có thể bằng tranh ảnh hoặc viết hành
động đó ra mảnh giấy hoặc bìa).
- Giáo viên cho người diễn xem hành động (không để dưới nhóm được
biết trước).
- Người diễn không được nói bằng lời mà chỉ được diễn bằng cử chỉ,
động tác để dưới nhóm hiểu và trả lời bạn mình đang làm gì.
VD: He is reading books…
- Nếu đội diễn không trả lời được thì nhường quyền trả lời và điểm số
cho đối phương
- Sau trò chơi, giáo viên tổng kết nhóm nào nói đúng nhiều hơn sẽ
thắng cuộc.
* Có thể áp dụng một số trò chơi khác để củng cố mẫu câu như:
Noughs and crosses, Find someone who ...
b- Trò chơi “Lucky number” áp dụng cho Unit 16. Invention (TA 8)
Nội dung bài học nói về những sự phát minh của nhân loại.
*Mục đích:
- Kiểm tra sự hiểu biết của học sinh về nền văn minh của nhân loại.
- Tạo cho học sinh sự tò mò muốn khám phá kiến thức.
* Thời gian thực hiện: 5-7 phút

* Cách tiến hành:
- Phân chia lớp thành 2 đội (thi ghi điểm).
- 10 -


- Giáo viên kẻ lên bảng khoảng 9 hoăc 12 ô vuông có đánh số.
- Giải thích trò chơi: Trong 12 con số viết lên bảng có 5 con số
may mắn (giáo viên tự chọn). Các con số còn lại mỗi số tương ứng với 1 câu
hỏi. Mỗi đội sẽ lần lượt chọn những con số bất kỳ. Nếu chọn được số may
mắn thì không phải trả lời câu hỏi mà vẫn được ghi điểm (2 điểm cho một ô).
Nếu không phải là số may mắn thì các đội phải trả lời đúng thì mới ghi được
điểm. Nếu đội chọn số không trả lời được thì cơ hội ghi điểm giành cho đội
đối phương.
Các số thứ tự của ô chữ sẽ tương ứng với câu hỏi giáo viên đã chuẩn bị
theo nội dung bài học.
Ví dụ:
1) Lucky number.
2) Who invented the telephone? (A.G.Bell)
3) Who invented the Sewing machine? (Issac Meritt Singer)
4) Lucky number.
5) Who was the inventor of the light bulb? (Thomas Edison)
6) Lucky number.
7) Who was inventor of the Color television? (Peter Carl Goldmark)
8) Who invented the helicopter? (Igor Sikorsky)
9) Lucky number.
10) Lucky number.
11) When was the telephone invented? (1876)
12) When was the Printing Press invented? (1810)
- 11 -



- Sau khi trò chơi kết thúc giáo viên tổng kết điểm.
Đội nào ghi được nhiều điểm hơn sẽ chiến thắng (Nếu 2 đội bằng điểm
nhau, đội thắng sẽ là đội ghi được nhiều số may mắn hơn).
* Lucky number là một trò chơi có rất nhiều cách sử dụng, nó có thể
thích hợp với hầu hết các kiểu bài, các chủ điểm, các trình độ học sinh. Giáo
viên cũng chỉ mất thời gian khoảng 5 - 7 phút là có thể chuẩn bị tốt được một
trò chơi này.
5.3. Giai đoạn ôn tập:
Ở giai đoạn này, áp dụng trò chơi để có thể ôn lại một cách tổng thể
các kiến thức cũng như các kỹ năng ngôn ngữ mà học sinh đã được học. Vì
vậy những trò chơi áp dụng cho giai đoạn này đòi hỏi một mức độ cao hơn và
tổng hợp hơn ở những giai đoạn trước.
a- Trò chơi “Start with the tags”

: áp dụng để ôn từ vựng ở các khối lớp.

*Mục đích:
Ôn lại những kiến thức về từ vựng, ngữ pháp các mẫu câu mà
học sinh đã học
Tạo tác phong nhanh nhẹn, khả năng tư duy và phản ứng nhanh
nhạy của học sinh.
Giáo viên kiểm tra khả năng sử dụng ngôn ngữ của học sinh.
* Thời gian thực hiện: 5’-10’
*Tiến hành: Trò chơi này dựa trên nguyên tắc chạy tiếp sức trong thể
thao.
- 12 -


- Giáo viên chia lớp ra thành 2 đội ( có thể 2 hoặc hơn)

- Giáo viên đóng vai trò trọng tài bắt đầu ra hiệu cho các đội
cùng 1 lúc lần lượt chạy lên bảng viết 1 từ sau đó chạy về giao phấn cho bàn
tiếp theo lên bảng viết tiếp từ tiếp theo sao cho chữ cái cuối cùng của từ này
là chữ cái bắt đầu của từ kia.
VD: no – on – not – tea – apple – end – do ...
Các từ sai chính tả không được tính điểm. Sau một thời gian nhất định,
đội nào viết được nhiều từ chính xác hơn thì đội đó sẽ chiến thắng.
Lưu ý: giáo viên có thể cho chủ điểm từ để viết hoặc có thể theo từ loại.
b/ Trò chơi : “Whisper”
* Mục đích:
-Kiểm tra mẫu câu; Rèn luyện kỹ năng nghe và nói cho học sinh.
* Thời gian thực hiện: 5’-7’
*Cách chơi:
Chia lớp thành 2 đội ( 2 teams ) và mỗi đội xếp thành một hàng. Học
sinh đầu tiên ở mỗi hàng sẽ chọn một mảnh giấy (trong đó đã có sẵn một câu
(sentence) do giáo viên chuẩn bị) và nói thầm (whisper) câu đó cho bạn đứng
trước mình; bạn đó sẽ nói thầm vào bạn đứng trước nữa; cứ thế cho đến hết
hàng; bạn cuối cùng sẽ viết câu đó lên bảng. Sau một khoảng thời gian nhất
định (ví dụ hết một bài hát) đội nào viết được nhiều câu đúng lên bảng hơn là
đội chiến thắng.
VI/ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:

- 13 -


Qua quá trình áp dụng các biện pháp trên tôi nhận thấy học sinh có
nhiều thay đổi rõ rệt về nhận thức, phương pháp học… Cụ thể các em chuẩn
bị bài và học bài đầy đủ trước khi đến lớp. Ở lớp các em mạnh dạn, tự tin, học
tập một cách có ý thức, chủ động, tích cực tham gia các hoạt động xây dựng
bài. Trong tiết học gần như 100% học sinh giơ tay tham gia phát biểu. Vì thế

lớp học luôn luôn sôi nổi, phấn khởi. Các em không còn lo sợ môn Tiếng
Anh mà còn hứng thú, thích học hơn. Chính vì vậy mà các em tiếp thu kiến
thức và hiểu bài tốt hơn. Nhìn chung, có khoảng 85% HS hiểu bài theo chiều
hướng tích cực. Những lớp tập trung nhiều học sinh khá- giỏi thì có tới 90 98% học sinh hiểu bài tuyệt đối.
VII/ KẾT LUẬN:
Phát huy tính tích cực của học sinh trong việc học Tiếng Anh rất cần
thiết và quan trọng. Một khi có hứng thú thì sẽ làm cho học sinh có cảm giác
thấy thoải mái, giảm bớt sự căng thẳng, nhàm chán với bài học của mình.
Đồng thời, giúp các em dễ dàng tiếp nhận và khắc sâu kiến thức, tự giác chủ
động tìm tòi, phát hiện, giải quyết nhiệm vụ và có ý thức vận dụng linh hoạt,
sáng tạo các kiến thức đã tiếp thu được một cách tích cực, có hiệu quả vào
thực tế. Vì thế các em sẽ đạt kết quả tốt trong học tập, số lượng học sinh yếu
kém giảm, số lượng học sinh khá giỏi tăng lên.
Vì vậy giáo viên cần phải áp dụng một cách linh hoạt, hiệu quả những
biện pháp này nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực trong học tập, học
tốt môn Tiếng Anh.
- 14 -


Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi rút ra trong quá trình giảng dạy
tại trường THCS Võ Thị Sáu và có sự học hỏi kinh nghiệm từ bạn bè đồng
nghiệp. Trong quá trình viết đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót, tôi
rất mong sự góp ý xây dựng chân tình của quí cấp và quí thầy cô giáo bộ môn
để đề tài được hoàn thiện hơn.
VIII/ ĐỀ NGHỊ:
1/ Điều kiện để thực hiện đề tài:
a- Về phía giáo viên:
- Phải tâm huyết với nghề, quan tâm đến các đối tượng học sinh đặc
biệt các em học yếu kém, luôn tạo không khí thoải mái trong tiết học, khuyến
khích học sinh hứng thú, chủ động, sáng tạo trong học tập.

- Không ngừng nghiên cứu, học hỏi, bám chuẩn KTKN, áp dụng
phương pháp mới, các trò chơi vào giảng dạy một cách linh hoạt phù hợp với
tiết học và đối tượng học sinh.
b- Về phía học sinh:
- Xác định động cơ học tập, nhận thức đúng về vai trò của Ngoại NgữTiếng Anh trong giai đoạn hiện nay.
- Luôn hoàn thành bài tập được giao và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp.
- Không nên nhút nhác và lo sợ khi tham gia các hoạt động ở lớp. Hãy tự tin
chủ động theo dõi xây dựng bài. Nếu có gì chưa hiểu các em nên mạnh dạn
hỏi thầy cô giáo .
2/ Phạm vi áp dụng đề tài:
Đề tài này có thể áp dụng dạy Tiếng Anh cho học sinh các lớp 6,7,8,9.
- 15 -


IX- TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Sách giáo khoa và sách giáo viên Tiếng Anh 6,7, 8, 9.(Bộ Giáo dục và
Đào Tạo) – Nhà xuất bản Giáo dục
- Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức , kĩ năng môn tiếng Anh THCS
( Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ) - 2009
- Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn tiếng Anh THCS
( Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ) - 2008
- Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS môn Tiếng
Anh ( Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ) - 2004
- Sổ tay người dạy Tiếng Anh – Nhà xuất bản giáo dục ( Tú Anh, Phan
Hà…)
- Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS - Modun 1 đến
Modun 4 ( Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ) - 2014

- 16 -



- 17 -


X/ MỤC LỤC:
1/ TÊN ĐỀ TÀI

Trang 1

2/ ĐẶT VẤN ĐỀ

Trang 1

3/ CƠ SỞ LÝ LUẬN

Trang 1, 2

4/ CƠ SỞ THỰC TIỄN

Trang 2

5/ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Trang 2, 3, 4, 5, 6,7

6/ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Trang 7.8

7/ KẾT LUẬN


Trang 8

8/ ĐỀ NGHỊ

Trang 8

9/ TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 9

10/ MỤC LỤC

Trang 10

- 18 -


- 19 -



×