Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp rèn luyện tính tự lập cho trẻ 5 6 tuổi ở trường mầm non đồng thịnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Xung quanh chúng ta có rất nhiều người tài giỏi, thành công. Không phải
tự nhiên họ có được những kết quả tốt đẹp, đó là cả một quá trình dài. Trên hành
trình đó không thể thiếu tính tự lập, một đức tính quan trọng của cuộc sống. Khi
mỗi người được sinh ra và cất tiếng khóc chào đời, đó là sự khởi đầu cho một
hành trình với tên gọi “cuộc đời”. Mỗi người có một hoàn cảnh sống không
giống nhau, có người thành công nhưng có người thất bại, người giàu sang lại
có người nghèo khổ. Cái tạo ra sự khác biệt không chỉ là ở xuất phát điểm của
mỗi người mà là do học tập phấn đấu rèn luyện tạo nên. Ngay từ thủa ấu thơ con
người đã có khả năng tự lập, ở mỗi lứa tuổi khả năng tự lập và phát triển khác
nhau. Người có tính tự lập có thể tự mình làm được nhiều công việc mà không
cần trợ giúp của người khác.
Khi còn bé chúng ta được chăm sóc bởi bàn tay của mẹ, sự dìu dắt của
cha. Ông bà, cha mẹ đã dạy cho ta đức tính tự lập bằng những việc làm đơn giản
đầu tiên như tự đánh răng, tự mặc quần áo, tự xúc cơm ăn,... Lớn lên chút nữa ta
được mở mang tầm hiểu biết nhờ sự chỉ dạy tận tình của thầy cô, bạn bè. Nhưng
rồi ai cũng phải trưởng thành, đứng trên đôi chân của chính mình và sống một
cuộc sống tự lập. Nhờ có tự lập, chúng ta mới có thể sinh sống và tồn tại, giống
như chú chim non rời tổ để tự vỗ cánh bay đi kiếm ăn, con thú xa mẹ để học
cách săn mồi, duy trì sự sống. Chúng ta không thể sống mãi trong vòng tay yêu
thương, che chở của cha mẹ như hồi còn bé. Trưởng thành đồng nghĩa với việc
ta phải tự lập nhiều hơn, đó là lúc ta chọn cho mình một niềm đam mê và mơ
ước. Khi đã tự lập, ta có thể tự tin, đứng hiên ngang trước mọi sóng gió cuộc đời
mà không sợ bị quật ngã.
Thực tế cho thấy, có một thực trạng đáng buồn hiện nay đó là nhiều người
trẻ vẫn không thể sống tự lập, dựa dẫm vào gia đình, bố mẹ, học đến cấp 3 mà
không biết nấu ăn, không tự giặt sạch được bộ quần áo,... Không biết tự chăm lo
cho bản thân mình. Thực trạng này có thể dễ dàng bắt gặp ở những đứa trẻ quen
được bố mẹ chiều chuộng, đến khi bước vào đời thì bỡ ngỡ, lúng túng, không
thể làm chủ cuộc sống của mình.


Ở lứa tuổi mầm non việc rèn tính tự lập cho trẻ chưa có nét chuyển biến
rõ rệt. Nguyên nhân chính là do phần đa cha mẹ trẻ còn có nhiều sai lầm về giáo
dục đặc biệt là giáo dục tính tự lập cho trẻ. Một số gia đình cuộc sống phát triển,
đời sống được nâng cao hơn, cha mẹ cũng dành sự chăm sóc nhiều hơn cho con
trẻ, nên nuông chiều con quá mức chỉ biết hưởng thụ để trở thành con người có
tính ích kỉ, vụng về, thiếu tự tin trong cuộc sống. Bên cạnh đó các bậc phụ
huynh không tin vào khả năng của trẻ, trẻ muốn làm nhưng thấy con làm lóng
ngóng, chập chạp nên người lớn thường tỏ ra khó chịu, sốt ruột và làm thay trẻ
dẫn đến trẻ có thái độ trở nên bướng bỉnh và dần dần có tính ỉ lại, lười biếng...
Cha mẹ chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức, luôn coi việc học của con
mình là quan trọng nhất: Học được những gì? Biết chữ gì? Số mấy....Không chú
trọng dạy kĩ năng sống cho con, chưa dạy con những kĩ năng tự bảo vệ bản thân
trước những mối nguy hiểm đang rình rập trẻ hằng ngày. Bên cạnh đó thời gian
bố mẹ dành cho con trẻ ngày càng eo hẹp. Do mải làm kinh tế, nên hầu hết cha
1


mẹ của trẻ không có nhiều thời gian dành cho gia đình nhỏ của mình. Những
chuyến đi công tác dài ngày, việc đi làm về muộn là chuyện bình thường trong
xã hội hiện đại ngày nay. Do đặc thù công việc và kinh tế phát triển, những gia
đình có điều kiện thuê người giúp việc. Phần lớn cha mẹ bận tất bật quanh năm
không có thời gian dạy con mà chỉ cho con xem ti vi, điện thoại và các trò chơi
điện tử,...Thực trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng đến tương lai của trẻ sau này. Trẻ
mãi mãi sẽ không thể tự quyết định được bản thân muốn gì, mong gì, thích gì, vì
lối sống dựa dẫm, ỉ lại đã ăn sâu vào tận tâm can của trẻ.
Đối với trường Mầm non không những cung cấp những kiến thức cơ bản
về chương trình giáo dục mà còn phải rèn luyện cho trẻ những kĩ năng sống và
giáo dục rèn tính tự lập cho trẻ từ nhỏ, đó sẽ là những nền tảng vững chắc để trở
thành những người có ích cho xã hội. Đa số giáo viên đã nhận thức đầy đủ và có
thái độ đúng đắn vấn đề này. Song về hướng dẫn và rèn luyện tính tự lập cho trẻ

còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do giáo viên cho rằng trẻ còn quá nhỏ để rèn
tính tự lập, bên cạnh đó điều quan trọng là cô giáo ngại khó, sợ tốn thời gian và
có tư tưởng " thà tự làm cho xong”.
Là giáo viên Mầm non tôi cảm thấy rèn kĩ năng sống cho trẻ là rất cần
thiết đặc biệt là rèn tính tự lập cho trẻ. Chính vì vậy tôi luôn suy nghĩ và trăn trở
làm thế nào để dạy cho trẻ có tính tự lập ngay từ khi trẻ còn rất nhỏ. Vì vậy tôi
đã mạnh dạn chọn đề tài: ‘‘Một số biện pháp rèn luyện tính tự lập cho trẻ 5-6
tuổi ở trường mầm non Đồng Thịnh” để nghiên cứu và áp dụng thực tế vào lớp
mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về kĩ năng sống của trẻ, nhằm tập trung
nghiên cứu và tìm ra ‘‘Một số biện pháp rèn luyện tính tự lập cho trẻ 5-6 tuổi
ở trường mầm non Đồng Thịnh”.
Tạo cho trẻ có những kĩ năng biết tự làm được một số công việc phù hợp
với khả năng, biết giúp đỡ người khác, kĩ năng bảo vệ bản thân.... Trẻ có tính tự
lập ngay từ khi học ở trường Mầm non.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu đề tài ‘‘Một số biện pháp rèn luyện tính tự lập cho
trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non Đồng Thịnh”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý thuyết
Thu thập, phân tích, tổng hợp các tài liệu lý luận về đặc điểm phát triển của
trẻ 5-6 tuổi qua các tài liệu, vai trò của tự lập đối với sự phát triển của trẻ.
1.4.2. Phương pháp khảo sát thực tế, thu thập thông tin
Khảo sát tình hình thực tế về khả năng tự lập của trẻ ở lớp, sự ảnh hưởng
của tự lập tác động đến sự phát triển của trẻ.
1.4.3. Phương pháp thống kê xử lý số liệu
Đánh giá kết quả đạt được và so sánh kết quả trước và sau khi áp dụng biện
pháp.
1.4.4. Phương pháp thực hành, trải nghiệm

Vận dụng các biện pháp vào hoạt động thực tế của lớp để trẻ thực hành một
số công việc vừa sức của trẻ.
2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
Không có sức mạnh nào lớn lao bằng niềm tin của bản thân. Cũng không
có sức mạnh nào hơn tính tự lập. Chính vì vậy chúng ta đều hiểu“Tự lập là tự
làm lấy, tự giải quyết công việc, tự lo liệu, tạo cho cuộc sống của mình, không
trông chờ, dựa dẫm, phụ thuộc vào người khác”. [1] Tính tự lập là xương sống
giúp con người trưởng thành và thành công, dựa dẫm là tiền đề của sự nghèo
đói, thất bại. Bởi thế, tính tự lập là phẩm chất không thể thiếu đối với mỗi con
người.
Vì vậy, Ngay từ khi chúng ta còn nhỏ, ông bà, cha mẹ đã dạy “Tự lực
cánh sinh” [2] cho chúng ta biết tự lập là một đức tính quan trọng. Thiếu nó,
con người không thể hoàn thiện. Tự lập giúp con người suy nghĩ nhiều hơn, tự
đánh thức tài năng ẩn dấu trong bản thân và từ đó khơi lên trí sáng tạo. Khi có
tính tự lập, con người có ý thức hơn về mọi hành động của mình.
Nhà tâm lý học Nguyễn Thị Ánh Tuyết đã khẳng định về khả năng tự lập
của trẻ mẫu giáo 5 tuổi: “ Do có khả năng làm chủ được nhiều hành vi, được
người lớn giao cho nhiều việc nhỏ... Trẻ dần dần đã xác định rõ mục đích của
hành động. Trẻ dần dần tách động cơ ra khỏi mục đích với sự cố gắng hoàn
thành nhiệm vụ. Trẻ muốn chơi trò chơi, trẻ muốn được nghe kể chuyện nhiều
hơn nhưng không được cô giáo đáp ứng, phải chuyển trò chơi mà trẻ không
thích. Tính mục đích càng ngày càng được trẻ ý thức và cố gắng hoàn thành
công việc. Tính kế hoạch xuất hiện, trẻ biết sắp xếp "công việc" vui chơi và phải
quét nhà, nhặt rau để khi mẹ về là mọi việc phải xong cho mẹ hài lòng. Tinh
thần trách nhiệm bản thân dần dần được hình thành ở trẻ.”. [3]
Thành công không đến với những kẻ lười biếng. Chúng ta cần biết tự rèn

luyện bản thân để trở nên tự lập, không phụ thuộc vào người khác dù là hành
động nhỏ nhất. Tính tự lập vô cùng cần thiết nó sẽ giúp ta có được những kĩ
năng vững vàng để đối diện với những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Vì
vậy, tính tự lập là một trong những yếu tố quan trọng là chìa khoá của cánh cửa
thành công. Thiếu nó không một ai có thể chạm tới tương lai tươi sáng. Mỗi
chúng ta nên rèn luyện đức tính tự lập ngay từ khi còn nhỏ, như nhà khoa học
Dr seuss đã khẳng định:“Bạn có não trong đầu. Bạn có chân trong giày. Bạn có
thể chỉ mình về bất cứ hướng nào bạn chọn. Bạn độc lập và bạn biết điều mình
biết và bạn là người quyết định mình sẽ đi đâu”. [4] Những việc có thể làm
được thì nhất quyết ta không nhờ người khác giúp đỡ, tự lập từ trong chính suy
nghĩ, hành động của mình. Có như vậy, chúng ta mới thực sự làm chủ cuộc đời
của mình, đạt được những thành công trong cuộc sống.
Các nhà khoa học đã nghiên cứu đều cho thấy các kĩ năng quan trọng
nhất trẻ phải học vào thời gian đầu đó là kĩ năng tự lập. Việc xác định được các
kĩ năng cơ bản của tính tự lập phù hợp với lứa tuổi, sẽ giúp giáo viên chọn đúng
những nội dung trọng tâm để rèn tính tự lập cho trẻ.
Dạy trẻ Mầm non có tính tự lập là một trong những điều cốt lõi nhất để
giúp trẻ hoàn thiện bản thân. Từ đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình
thành nhân cách của mỗi đứa trẻ sau này. Song khi mỗi đứa trẻ mới chào đời
đều chưa có bất kì một kĩ năng gì trong đó có kĩ năng tự lập. Rèn tính tự lập cho
3


trẻ ngay từ khi ở lứa tuổi Mầm non không những tạo ra cho trẻ khả năng tự lập
trong sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan trọng để
hình thành sự tự tin, năng động, sáng tạo là cơ sở để hình thành nhân cách cho
trẻ sau này.
Ở tuổi mẫu giáo lớn, sự tự ý thức còn được biểu hiện rõ trong sự phát
triển giới tính của trẻ. Trẻ không những nhận ra mình là trai hay gái mà còn bi ết
nếu mình là trai hay gái thì hành vi này phải thể hiện như thế nào cho phù hợp

với giới tính của mình. Ngoài ra trẻ biết được vị trí của mình trong gia đình,
trong lớp học sau đó trẻ mới tìm hiểu mối quan hệ với mọi người xung quanh.
Từ những biểu hiện mà chúng ta thấy khả năng tự lập của trẻ có ảnh hưởng trực
tiếp đến trí tuệ, cảm xúc của trẻ. Như vậy tự lập quyết định hình thành và phát
triển trí tuệ, cảm xúc của trẻ.
Hơn thế nữa thời điểm lúc trẻ tròn 6 tuổi là một bước ngoặt quan trọng
của trẻ em. Ở độ tuổi mẫu giáo lớn là thời kỳ trẻ đang tiến vào bước ngoặt đó
với sự biến đổi của hoạt động chủ đạo. Cuối giai đoạn mẫu giáo lớn, trẻ đã có
những tiền đề cần thiết của sự chín muồi đến trường về các mặt tâm sinh lý,
nhận thức, trí tuệ ngôn ngữ và tâm thế...đặc biêṭ là trẻ phaỉ có tinh
́ tự lâp̣ để tr ẻ
có thể thích nghi bước đầu với điều kiện học tập ở lớp 1.
Có thể thấy trẻ 5-6 tuổi có những đặc điểm về khả năng tự lập riêng. Vì
vậy trong quá trình giáo dục giáo viên cần chú ý đến những đặc điểm này để có
những biện pháp giáo dục và hiệu quả.
Do đó, ngay từ lứa tuổi Mầm non không chỉ trau dồi cho trẻ những kiến
thức cơ bản về cuộc sống xung quanh mà điều quan trọng hơn cả, đó là rèn
luyện tính tự lập cho trẻ để trẻ tự tin và làm chủ của bản thân trong tương lai. Vì
vậy rèn luyện tính tự lập từ nhỏ sẽ là những kĩ năng sống đầu tiên cho trẻ, là
nền tảng vững chắc để trẻ trở thành người thành công trong tương lai.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và thực hiện mục tiêu
giáo dục kĩ năng sống, kĩ năng tự lập cho trẻ ở lớp tôi có những thuận lợi và khó
khăn như sau.
2.2.1. Thuận lợi
Lớp Mẫu giáo 5-6 tuổi được bố trí 2 cô giáo, có trình độ trên chuẩn, nhiệt
tình, năng động, sáng tạo, tâm huyết với nghề và luôn chu đáo trong chăm sóc
giáo dục trẻ.
Lớp có 27 cháu đi học chuyên cần luôn đạt trên 96%, các cháu phát triển
tốt cả về thể chất và trí tuệ. Một số phụ huynh nhiệt tình đưa đón con và thường

xuyên trao đổi với giáo viên, phối hợp chặt chẽ việc giáo dục và rèn trính tự lập
cho trẻ giữa gia đình và nhà trường.
Đa số trẻ trong lớp tôi đều đã học qua lớp mẫu giáo bé và mẫu giáo nhỡ
nên có nền nếp học tập tốt. Biết quan tâm, giúp đỡ cô giáo và các bạn một số
công việc vừa sức.
Bản thân tôi và 1 giáo viên được tham gia các lớp bồi dưỡng kĩ năng
sống, nên tích lũy được một số kiến thức cũng như kinh nghiệm dạy trẻ các kĩ
năng sống trong đó có kĩ năng rèn trẻ có tính tự lập.
4


2.2.2. Khó khăn
Tuy những thuận lợi là cơ bản nhưng trong chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục
trẻ lớp tôi vẫn còn gặp một số khó khăn như sau:
Hiện nay nhà trường đã mua sắm trang thiết bị cho lớp học nhưng vẫn còn
thiếu và chưa đáp ứng được với chương trình giáo dục mầm non mới hiện nay.
Về trẻ thì 100% là dân tộc Mường việc giao tiếp bằng Tiếng Việt của trẻ
còn nhiều hạn chế, vì vậy việc dạy Tiếng Việt cho trẻ còn mất nhiều thời gian,
đôi khi cô giáo hướng dẫn và dạy trẻ một số công việc bản thân trẻ tự làm thì trẻ
không hiểu, hoặc hiểu nhưng câu được câu không.
Trẻ chưa có các kĩ năng cần thiết như: Kĩ năng tự phục vụ bản thân, kĩ
năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, kĩ năng giúp đỡ người khác.
Giáo viên chưa lồng ghép các kĩ năng rèn tính tự lập cho trẻ vào các hoạt
động hằng ngày.
Trẻ chưa biết xử lí các tình huống để bảo vệ bản thân trước những nguy
hiểm.
Một số trẻ lớp tôi được ông bà, cha mẹ và người thân cưng chiều, bao bọc
kĩ quá, do đó trẻ thường ỉ lại cho cô và các bạn những công việc dù là nhỏ nhất.
Mặc dù rất quan tâm đến con nhưng đa số phụ huynh lại làm công nhân ở
các công ty nên ít có thời gian dành cho con, phần lớn đều nhờ cậy ông bà và cô

giáo, vì vậy việc thống nhất quan điểm, biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ giữa
giáo viên và phụ huynh còn gặp nhiều khó khăn.
2.2.3. Kết quả thực trạng
Năm học 2018-2019 lớp mẫu giáo 5-6 tuổi do tôi phụ trách có 27 cháu.
Quá trình khảo sát về tính tự lập của trẻ được tiến hành vào đầu tháng 9 năm
học 2018-2019 với kết quả đạt được như sau:
Tổng
Mức độ % trên trẻ
số trẻ
Đạt
Chưa đạt
trong
Nội dung khảo sát
lớp
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
được
lượng
%
lượng
%
khảo
sát
1. Trẻ có một số kĩ năng cần thiết,
không ỉ lại vào cô và các bạn, biết
27
10
37

17
63
tự làm một số công việc mà không
phụ thuộc vào người khác.
2. Trẻ có tính tự lập thông qua các
27
12
44
15
56
hoạt động.
3. Trẻ có tính tự lập để có kĩ năng
27
10
37
17
63
bảo vệ bản thân.
4. Phụ huynh tích cực phối hợp với
giáo viên trong việc rèn tính tự lập
27
11
41
16
59
cho trẻ.
5


Từ kết quả khảo sát trên cho thấy, tính tự lập, các kĩ năng cần thiết, kĩ

năng bảo vệ bản thân của trẻ cũng như sự phối kết hợp với phụ huynh ở mức đạt
còn còn thấp.
Trước kết quả trên, tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để nâng cao
tính tự lập cho trẻ, tạo cơ hội để trẻ biết vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực
tiễn cuộc sống. Tôi bàn bạc với giáo viên cùng phụ trách lớp đưa ra những nội
dung để rèn luyện cho trẻ có tính tự lập với những biện pháp cụ thể như sau.
2.3. Một số biện pháp rèn luyện cho trẻ 5-6 tuổi có tính tự lập ở
trường mầm non Đồng Thịnh
2.3.1. Dạy những kĩ năng cần thiết để rèn luyện tính tự lập cho trẻ
Một số kĩ năng đối với trẻ mầm non như: Kĩ năng tự phục vụ bản thân; kĩ
năng giữ gìn vệ sinh cá nhân và kĩ năng giúp đỡ người khác là rất cần thiết để
rèn tính tự lập cho trẻ. Đó là những kĩ năng quan trọng thúc đẩy trẻ hoàn thiện
mình một cách tốt nhất. Đây còn là cơ hội vàng giúp trẻ nhanh chóng khôn lớn
và trưởng thành trong cuộc sống để tự lập ngay từ khi còn rất nhỏ.
* Kĩ năng tự phục vụ bản thân
Việc rèn luyện kĩ năng tự phục vụ bản thân ngay từ nhỏ là vô cùng cần
thiết đối với trẻ. Nếu các con không có kĩ năng tự phục vụ bản thân, các con sẽ
không thể chủ động và tự lập trong cuộc sống hiện đại. Tự phục vụ bản thân là
một kĩ năng sống quan trọng để giúp trẻ hoàn thiện bản thân mình mỗi ngày. Tôi
thường xuyên rèn cho trẻ thực hiện những thói quen này tưởng chừng như nhỏ
nhất, đó là trẻ biết tự làm những công việc vừa sức của mình để phục vụ cho
bản thân như: Rửa tay sạch và lau khô tay trước khi vào bàn ăn, để trẻ cùng tổ
chức bữa ăn với cô giáo, khi các con được tự tay chia cơm cho mình, tự kê ghế
vào bàn ăn,... Các con dần dần hình thành biết tổ chức bữa ăn uống của cá nhân.
Nhờ biết cách tự phụ vụ bản thân trẻ hiểu hơn thế nào là chia sẻ, là giúp đỡ
người thân và bạn bè trong sinh hoạt hàng ngày. Hiểu được điều này, ngay từ
những buổi đầu đến trường, tôi đã dạy cho trẻ cách sắp xếp đồ đạc như quần áo,
balo, mũ, dép vào nơi đúng quy định và khi cần sẽ tự lấy ra. Sau đó, trong mọi
bữa ăn, tập thói quen cho trẻ tự vệ sinh tay, miệng trước khi ăn và tự ăn, ăn một
cách nhanh chóng và gọn gàng, sau khi ăn xếp bát đĩa vào nơi quy định.

Ví dụ: Đến giờ ngủ trưa tôi cho các con tự đi thay quần áo, tự lấy gối để
vào chỗ ngủ của mình; Sau khi ngủ dậy tôi hỏi trẻ: “Sau khi ngủ dậy các con
cần làm gì nhỉ” cho các con tự cất gối, tự gấp chăn, tự rửa mặt, tự chải tóc và tôi
chỉ hướng dẫn và giúp đỡ trẻ trong lần đầu tiên, những lần sau tôi để các con tự
làm. Hằng ngày tôi thấy các con làm những việc tự phục vụ bản thân và dần dần
trẻ rất thích thú và tự làm công việc của mình mà không cần đến sự giúp đỡ của
cô giáo và các bạn trong lớp.
Hình thành thói quen tự lập trong cuộc sống không còn quá khó với trẻ,
đơn giản là việc xuất phát từ những hành động hằng ngày ở trường cũng như ở
nhà. Tôi kiên trì lặp đi lặp lại những hành động và thói quen tốt này cho trẻ thì
trẻ sẽ tự lập rất tốt.
Đối với trẻ còn chưa quen với công việc, thao tác còn chậm hay lóng
ngóng, khi trẻ mắc lỗi hay lười biếng tôi hướng dẫn các con làm từ từ, làm
6


nhiều lần bằng cách động viên, khuyến khích để bé làm tốt hơn những lần sau,
nhưng tôi không làm giúp cho trẻ.
Với trẻ nhút nhát, tôi thường dành nhiều thời gian nói chuyện với các con,
đồng thời, kiên nhẫn trong việc hướng dẫn các con rèn kĩ năng tự phục vụ và
mạnh dạn hơn như: Biết yêu cầu thêm thức ăn khi cần, chủ động rủ bạn bè cùng
chơi các trò chơi trong hoạt động chơi ngoài trời, mạnh dạn giơ tay phát biểu,....
Ngoài ra, tôi cũng nhờ sự hỗ trợ của các bạn trong lớp, chủ động nói chuyện và
làm cùng những việc hàng ngày như đánh răng, rửa tay, xếp gối, trải chăn,...
Nhằm giúp trẻ tự tin và tự lập hơn.
Ví dụ: Đối với một số cháu nhút nhát phải kiên nhẫn, gợi ý cho trẻ bằng
các câu hỏi như: Con thích như thế nào? Theo con mình cất con búp bê này ở
đâu được? Làm sao để gấp được cái chăn này nhỉ?… Để kích thích khả năng tự
lập của trẻ.
Nếu trẻ thích tự xúc ăn, tự làm đồ chơi, tự đi ngủ thì càng tốt, tôi không

lo trẻ không làm được, mà tôi cứ để trẻ thử. Tuy nhiên, để trẻ tự làm không phải
là bỏ mặc mà luôn ở bên cạnh để hỗ trợ tinh thần và có những gợi ý khi cần
thiết. Để trẻ tự làm rồi quan sát để biết vướng mắc chỗ nào và chỉ dẫn bé cách
làm đúng. Tôi dạy cho trẻ từng việc từ việc tự ăn, tự mặc quần áo, tự dọn dẹp đồ
chơi,…Hoặc để trẻ tự do làm điều gì trẻ thích, không nên ép buộc phải tự lập
đồng bộ. Tôi thường làm mẫu để bé quan sát, học theo. Khi làm mẫu tôi hướng
dẫn thật chậm để trẻ hiểu. Những lúc dạy trẻ, khi trẻ thất bại nhiều lần tôi không
sốt ruột bởi như vậy sẽ gây áp lực và khiến trẻ mất tự tin. Tùy vào khả năng của
trẻ để rèn luyện một số kĩ năng cần thiết cho trẻ, nhanh chậm không quan trọng
mà vấn đề là trẻ làm được gì.
Bên cạnh đó, trong quá trình rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ tôi thường
động viên, uốn nắn cho trẻ bằng những lời nói nhẹ nhàng. Không để trẻ có tâm
lý tiêu cực. Ngược lại, nên khuyến khích và khen thưởng với những thành quả
của trẻ, để trẻ yêu thích những công việc được giao.
* Kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân
Không chỉ đơn giản là đảm bảo cho trẻ trông thật chỉn chu bề ngoài mà vệ
sinh cá nhân thực sự chính là một cách hiệu quả để chủ động phòng ngừa bệnh
tật. Tôi rèn trẻ vệ sinh đúng cách trẻ có thể giữ thói quen này đến suốt đời, điều
này giúp trẻ luôn khỏe mạnh và sạch sẽ và có tính tự lập tốt nhất.
Tôi luôn đặt ra câu hỏi “ làm thế nào để trẻ luôn duy trì việc vệ sinh cá
nhân?”. Vì vậy, tôi phải rèn cho trẻ thói quen thường xuyên rửa tay để đảm bảo
vệ sinh. Dạy trẻ luôn ghi nhớ việc rửa tay: Trước khi cầm đồ ăn vặt và trước các
bữa ăn; sau khi chơi; sau khi đi vệ sinh; sau khi chơi cùng động vật nuôi; sau
khi vứt rác; sau khi hỉ mũi và hắt hơi,...Tôi dạy trẻ cách chà và rửa tay bằng xà
phòng trong 15 giây hoặc lâu hơn thế. Sau đó trẻ cần phải dùng 1 chiếc khăn
sạch để lau khô tay.
Bên cạnh việc cho trẻ tự rửa tay bằng xà phòng tôi hướng dẫn trẻ thường
xuyên để trẻ tự chải tóc, gội đầu; đánh răng hằng ngày; tắm rửa thân thể hằng
ngày; tự thay quần áo khi nào cần thiết. Ngoài ra trẻ còn biết giữ gìn đồ dùng cá
nhân luôn sạch sẽ như giày, dép, quần áo,...tôi tập cho trẻ kĩ năng giữ gìn vệ

sinh cá nhân luôn là nhiệm vụ quan trọng.
7


Tôi mua những thiết bị, đồ dùng cho việc vệ sinh khiến trẻ mong đợi
được dùng. Đơn giản như kem đánh răng có mùi hương trẻ yêu thích, bàn chải
có nhân vật hoạt hình hay thậm chí xà bông dành cho trẻ em có hình thù ngộ
ngĩnh, sẽ làm cho khoảng thời gian vệ sinh cá nhân trở thành điều mà trẻ cực kì
chờ mong.
Bên cạnh việc vệ sinh cá nhân tôi rèn trẻ kĩ năng vệ sinh lớp học cùng với
cô, tôi thấy đó là niềm vui của trẻ. Đây cũng là một kĩ năng đặc biệt để rèn tính
tự lập cho trẻ như: Tự dọn đồ chơi trong lớp gọn gàng sạch sẽ sau khi chơi xong
hoạt động góc, biết lau bàn ghế sạch sẽ trước khi ăn cơm trưa hay ăn quà chiều,
biết vứt rác đúng nơi quy định,... Dưới sự hướng dẫn trẻ lớp tôi đã hình thành
thói quen vệ sinh lớp học ngay từ đầu năm học dù là những việc rất nhỏ.
Hằng ngày trẻ thường xuyên làm những công việc vệ sinh lớp học cùng
cô và vệ sinh thân thể các con sẽ có kĩ năng vệ sinh tốt mà không cần đến sự
giúp đỡ của cô giáo và cha mẹ trẻ.
* Kĩ năng giúp đỡ người khác
Chính những việc làm của người lớn thường ngày sẽ được trẻ chú ý quan
sát và ghi nhớ để thực hiện lại. Vì vậy, ngoài việc nâng cao tính tự giác, tự lập,
trẻ còn tạo dựng được tinh thần tập thể, biết quan tâm giúp đỡ những người
xung quanh. Đó có thể là những hành động nhỏ trẻ có thể hỗ trợ bạn bè trong
giờ học hay giờ hoạt động vui chơi. Đối với trẻ mới vào lớp chưa quen kĩ năng
tự phục vụ bản thân thì những trẻ đã được học trước sẽ trở thành người hướng
dẫn cho bạn mới. Những lúc như vậy tôi luôn chú ý khen ngợi, động viên,
khuyến khích trẻ và trẻ luôn vui thích và cố gắng phát huy những kĩ năng tốt
này. Tôi luôn tạo điều kiện để trẻ học những kĩ năng sống vì những trải nghiệm
sẽ giúp trẻ thích ứng nhanh với môi trường xung quanh, phát triển tính nhanh
nhẹn, khả năng tư duy, ý thức tự giác và tinh thần tập thể.

Tôi rèn cho trẻ kĩ năng biết giúp đỡ người khác, trẻ biết giúp đỡ người
khác là một việc tốt và nên được thực hiện thường xuyên. Những công việc nhẹ,
trẻ có thể giúp được như chia cơm cho các bạn, lấy chổi giúp cô, kê ghế, kê bàn
ăn, tưới cây, lau lá ở góc thiên nhiên…

( Ảnh trẻ giúp cô chia cơm cho các bạn)
8


Trẻ còn biết giúp đỡ một số bạn khi mới khỏi ốm và đến lớp với những
công việc phù hợp với khả năng như: Lấy ghế giúp bạn, chia cơm giúp bạn... từ
những công việc tưởng chừng như đơn giản đó nhưng rèn cho trẻ có thói quen
biết giúp đỡ cô giáo và các bạn những lúc cần thiết.
Với trẻ cá biệt, trẻ thường có tâm lý muốn được bạn bè, cô giáo chú ý và
không muốn tự làm một số việc tự chăm sóc bản thân. Những cháu cá biệt tôi
các bạn khác trong lớp không làm thay trẻ mà tôi hướng dẫn trẻ tự làm để rèn
tính tự lập cho trẻ. Khi trẻ tự làm được những việc vừa sức tôi luôn khen ngợi,
động viên trẻ.
Ví dụ: Cháu Nam lớp tôi rất hiếu động, có tính ỉ lại không thích làm bất
cứ việc gì mà chỉ thích chơi. Trường hợp này tôi đã giao nhiệm vụ cho cháu là
hôm nay con cùng bạn Hoa và bạn Tuấn chia cơm cho các bạn nhé! Sau đó tôi
khen bạn Nam lớp mình hôm nay rất giỏi, bạn Nam biết chia cơm cho các bạn
đấy, chúng mình khen bạn nào. Sau vài lần tôi thấy cháu Nam thích thú khi
được làm một số việc như tự thay quần áo, tự chia cơm cho các bạn giúp cô,...
Tôi dạy trẻ giúp đỡ người khác bằng cách dạy con biết nghĩ cho người
khác. Cụ thể là tôi cùng con giải quyết những tình huống, mà khi đó, trẻ phải đặt
mình vào vị trí của người khác để tưởng tượng, để trải nghiệm suy nghĩ và tình
cảm của họ.
Một phương pháp khá phổ biến khác là tôi có thể cho con xem những câu
chuyện hay mang tính giáo dục, những ví dụ về con người và số phận bất hạnh

để hình thành cho con suy tư về tình yêu thương, sự quan tâm, lòng cảm thông
với người khác.
Ví dụ: Cho trẻ xem vi deo về bạn nhỏ bị khuyết tật đôi chân đang cố gắng
ngồi lên ghế nhưng không được, và đưa ra tình huống: “ Các con làm gì để giúp
đỡ bạn...” từ những hình ảnh thực tế đó trẻ sẽ suy nghĩ và biết giúp đỡ mọi
người xung quanh mình những việc vừa sức.
Bất kỳ khi nào trẻ làm được một việc gì đó giúp đỡ những người xung
quanh, tôi cổ vũ, động viên và khích lệ trẻ kịp thời. Cùng với việc khẳng định
với trẻ rằng, hành động của con là đúng, tôi hỏi han xem cảm nhận của con như
thế nào khi làm được việc tốt. Thường xuyên giúp đỡ người khác như vậy trẻ sẽ
tự lập tốt hơn.
Nhờ sự nỗ lực trong thực hiện các giải pháp, trẻ lớp tôi có nhiều kĩ năng
cần thiết, các con biết tự chăm sóc bản thân; biết vệ sinh lớp và vệ sinh cá nhân;
biết giúp đỡ người khác,... Ngoan, tự tin, tự lập và có thể đưa ra các quyết định
cho mình mà không phụ thuộc quá nhiều cô giáo và các bạn.
2.3.2: Lồng ghép việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ thông qua các hoạt
động
Ở trong các hoạt động hằng ngày của trẻ, tôi cảm thấy những nội dung
tích hợp việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ trên lớp đôi khi còn hời hợt, chưa có
tác dụng kích thích trẻ thực hiện một số công việc tự phục vụ bản thân. Chính vì
vậy tôi đã nghiên cứu tài liệu, sưu tầm một số nội dung phù hợp với đặc điểm và
lứa tuổi của trẻ để rèn cho trẻ có tính tự lập. Rèn luyện tính tự lập cho trẻ mẫu
giáo là đề tài không phải xa lạ, tuy nhiên nếu cô giáo không biết tận dụng mọi
cơ hội, rèn cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, tích hợp việc giáo dục các kĩ năng một
9


cách khéo, linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo thì trẻ khó có thể tích cực tiếp thu, tích
cực hoạt động và như vậy hiệu quả của việc tổ chức các hoạt động đó chưa cao.
Do vậy, bản thân tôi đã tìm ra những hình thức mới nhằm giáo dục, rèn luyện

tính tự lập cho trẻ thông qua các hoạt động một cách tốt nhất.
* Thông qua hoạt động học.
Với hoạt động học đây là một trong những hoạt động để tôi tích hợp có
hiệu quả nội dung giáo dục kĩ năng sống cần thiết, đặc biệt là rèn tính tự lập cho
trẻ. Tôi cùng cô giáo phụ trách lớp căn cứ vào nội dung của từng tiết học để tích
hợp một cách hài hoà, không ôm đồm kiến thức mà phải phù hợp với trẻ.
Ví dụ: Với đề tài “ Khám phá một số bộ phận trên cơ thể bé” thuộc chủ
đề “ Bản thân” tôi dạy trẻ biết vệ sinh thân thể sạch sẽ, biết tự đánh răng, rữa
mặt, rữa tay, tự thay quần áo. Thông qua các nội dung tiết dạy, các con sẽ tự lập
hơn và tự làm được một số việc cần thiết. Trẻ có kĩ năng tự chăm sóc bảo vệ bản
thân. Trẻ có một số kĩ năng và có ý thức giữ gìn, bảo vệ các bộ phận trên cơ thể.
Ngoài ra tôi còn lồng ghép giáo dục tính tự lập cho trẻ thông qua các bài
ca dao, đồng dao, bài hát, câu chuyện....Từ những sự lồng ghép rất nhẹ nhàng
như vậy tôi đã tạo cho trẻ sự hứng thú, ham học bằng cách thay bằng phương
pháp và hình thức dạy học cũ tôi đã thay vào đó là một phương pháp và hình
thức dạy học hoàn toàn mới như: Dạy trẻ bằng giáo án điện tử, sau đó tôi cho trẻ
thực hành và trãi nghiệm một số công việc đơn giản mà trẻ phải tự làm, nên trẻ
của lớp tôi rất hứng thú học tập và chú ý đến nội dung bài học. Từ các môn học
giáo dục trẻ nề nếp thói quen tốt, biết lấy và cất đồ chơi đúng nơi quy định, giữ
gìn đồ dùng đồ chơi. Sắp xếp đồ dùng đồ chơi ngăn nắp gọn gàng. Biết làm
những việc tự phục vụ mình. Hình thành cho trẻ một số thói quen tự lập tốt,
không ỉ lại vào người khác.
Ví dụ: Thông qua môn âm nhạc: Tôi dạy trẻ bài hát “Vui đến trường” tôi
giáo dục trẻ một số việc trẻ phải tự làm trước khi đi học tự: Biết đánh răng
rửa mặt, thay quần, áo, chuẩn bị đồ dùng để đi học...
Vì trẻ lớp tôi là trẻ lớp lớn thường xuyên phân công và theo dõi trẻ trực
nhật, nói rõ vai trò của những trẻ trực nhật. Người thực hiện nhiệm vụ trực nhật
phải làm chu đáo và có trách nhiệm với việc được phân công. Tổ trực nhật trong
giờ học sẽ lấy đồ dùng phát cho các bạn, thu dọn và cất đồ dùng đồ chơi. Rèn
cho trẻ thói quen nề nếp, sự cố gắng, sáng tạo và đề cao tinh thần trách nhiệm

của mình với tập thể.
Ví dụ: Đến giờ học môn tạo hình, nhóm trực nhật đi phát bút, lấy vở, xếp
bàn ghế, thu bài,…. Trong mọi việc làm của trẻ cô kịp thời khen ngợi trẻ “ các
con giỏ quá, các con xếp ghế rất đẹp! ”. Tạo cho trẻ một ý nghĩ mình đã lớn đã
làm được nhiều việc và mình là người có ích. Từ đó trẻ sẽ hoạt động tích cực
hơn, hứng thú hơn. Thực hiện biện pháp này giúp trẻ có tính tự lập, các con
mạnh dạn, tự tin tham gia tích cực trong hoạt động học.

10


(Trẻ đang chia bút, đồ dùng học tập cho các bạn trong giờ học)
Như vậy, với các hoạt động học tôi luôn lựa chọn nội dung phù hợp,
kết hợp với phương pháp dùng lời, trẻ được nghe, được đọc cùng với sự
giảng giải của cô, trẻ sẽ thấm nhuần ý nghĩa của cuộc sống xung quanh, từ đó
tích lũy cho mình những bài học kinh nghiệm và trẻ biết tự làm một số công
việc phục vụ bản thân tạo cho trẻ có thói quen nề nếp, sự cố gắng, sáng tạo và
đề cao tinh thần trách nhiệm của mình với tập thể.
*Thông qua các hoạt động khác
Cùng với việc dạy trẻ trên những tiết học, tích hợp trong các hoạt động
của chủ đề, tôi rất quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động như: Hoạt động đón
trả trẻ, chơi ngoài trời, hoạt động góc, hoạt động lao động.... Qua các hoạt động
cho trẻ được thực hành, trải nghiệm những công việc mà trẻ có thể tự làm được
không cần sự giúp đỡ của cô giáo và các bạn. Từ đó trẻ có tính tự lập, không
trông chờ và ỉ lại vào người khác.
Trong giờ đón, trả trẻ tôi sử dụng phương pháp thực hành, trải nghiệm,
hình thức nêu gương đánh giá để trẻ thấy và thực hiện tốt hơn. Cụ thể ngay từ
đầu năm học, khi đón trả trẻ tôi tập cho trẻ ý thức tự cất đồ dùng gọn gàng, ngăn
nắp lúc vào lớp cũng như lúc ra về. Và tôi phân công tổ trưởng sẽ kiểm tra xem
bạn nào thực hiện chưa tốt, cuối ngày tôi sẽ nêu gương bạn thực hiện tốt để các

bạn chưa làm tốt học tập, đồng thời cũng khích lệ động viên trẻ bằng cách cắm
cờ, hoa, tặng quà... để trẻ thực hiện tốt hơn. Từ đó việc cất đồ dùng không còn
là “hành động” mà trở thành “ý thức”, trẻ tự thực hiện không cần phải đợi tôi
nhắc nhở hay kiểm tra mà trẻ tự biết lấy đồ và cất đồ của mình.
Trẻ ở trường, ở bên cô giáo nhiều hơn ở nhà. Vì vậy, tôi luôn tạo cho các
con một môi trường thân thiện, tôi vừa là cô vừa là bạn của trẻ. Thông qua các
hoạt động hàng ngày, khi đi dạo chơi ngoài trời, ở mọi nơi mọi lúc tôi luôn luôn
khuyến khích động viên trẻ tích cực tự lập và làm một số việc phục vụ bản thân.
Ví dụ: Trẻ đến lớp tự cất cặp, cất dép, tự lấy ghế, biết xếp bàn ăn, trải
chiếu...ngay trong giờ ăn, ngủ, đi vệ sinh cần hình thành cho trẻ thói quen đúng
giờ giấc, nề nếp lớp học.
11


Thông qua hoạt động vui chơi, rèn tính tự lập cho trẻ, khi vui chơi trẻ
học hỏi, tiếp thu hiểu biết và thói quen tự lập qua các trò chơi.
Ví dụ: Khi trẻ tham gia chơi ở khu phân vai, trẻ biết tự lấy đồ chơi để
chơi, sau khi chơi xong trẻ biết tự cất đồ chơi đúng nơi quy định, biết vệ sinh
góc chơi,...Sau mỗi lần chơi trẻ có ý thức và trẻ tự lập tốt hơn.
Không chỉ ở khu phân vai trẻ mới học được các kĩ năng mà ở tất cả các
khu chơi khác thì các kĩ năng của trẻ cũng đều có thể được giáo dục, rèn luyện
tính tự lập cho trẻ.
Ví dụ: Ở khu học tập, trẻ có kĩ năng tự lập như biết lấy sách, bút, và đồ
dùng học tập, tự lấy ghế và kê bàn để học tô, vẽ...
Qua việc tổ chức bữa ăn cho trẻ, tôi tập cho trẻ làm một số công việc tự
phục vụ qua đó rèn luyện tính tự lập cho trẻ và hình thành ở trẻ một số kĩ năng
sử dụng đồ dùng ăn, uống đúng cách và hành vi văn hoá văn minh như: Cách
dùng ca, cốc, bát, thìa, cách rót nước, tham ra chuẩn bị bữa ăn (tự kê ghế, gấp
khăn lau, tự chia cơm...). Bên cạnh đó trẻ được tập luyện một số thói quen hành
vi văn minh trong ăn uống như: Trẻ biết mời cô, mời bạn, biết vệ sinh cá nhân

trước và sau khi ăn, biết giữ vệ sinh chung và hành vi văn hóa như không nói
chuyện khi ăn, ho hoặc ngáp phải quay ra ngoài đồng thời lấy tay che miệng,
biết nhặt cơm rơi bỏ vào đĩa và lau tay.
Khi tổ chức giấc ngủ cho trẻ, tôi dạy trẻ biết cùng cô trải chiếu, biết tự
mình lấy, cất gối đúng nơi quy định, biết đi vệ sinh và xả bồn cầu sau khi đi vệ
sinh, biết rửa chân và lau khô chân trước khi đi ngủ, đi nhẹ, nói khẽ, không làm
ồn khi bạn đang ngủ.
Thông qua hoạt động lao động tôi phân mỗi nhóm trẻ sẽ đảm nhận một
khay rau hay 1 khóm hoa ở góc thiên nhiên để chăm sóc, hằng ngày trẻ đều
chăm chỉ ra tưới cây, nhặt rác xung quanh. Khi trẻ làm ra sân chơi tổ chức cho
trẻ nhặt lá rơi trên sân trường, nhổ cỏ ở bồn hoa,... Đây là cách tôi rèn tính tự lập
khi trẻ tham gia các hoạt động lao động cùng cô giáo.
Trong quá trình lồng ghép rèn trẻ có tính tự lập thông qua các hoạt động
tôi thấy trẻ có tính tự lập tốt. Trẻ rất phấn khởi khi được tham gia các hoạt động,
được thực hành và trãi nghiệm cùng cô. Tôi thấy trẻ nhanh nhẹn hơn, có nhiều
thói quen và kĩ năng tốt. Đó là động lực để tôi kiên trì, rèn tính tự lập cho trẻ
nhiều hơn nữa.
2.3.3. Trẻ phát huy tính tự lập để có thể bảo vệ bản thân qua các tình
huống
Xã hội hiện đại mang đến cho cuộc sống của trẻ nhiều tiện ích, sự thoải
mái nhưng cũng tiềm ẩn nhiều mối nguy hiểm đối với trẻ. Điều này đòi hỏi trẻ
đều phải có những kĩ năng để biết bảo vệ chính bản thân mình trước những
nguy hiểm. Một trong những kĩ năng cần hình thành, thì kĩ năng tự bảo vệ bản
thân là một trong những kĩ năng quan trọng, giúp trẻ có khả năng biết từ chối,
xử lý những tình huống khi thấy không an toàn. Do vậy, đây có thể coi là cách
tốt nhất để trẻ có thể hiểu được những tình huống có thể xảy ra trong thế giới
muôn màu cũng như cách xử lý thông minh nhất.
Vì vậy, tôi đã đặt ra một số tình huống để trẻ tự giải quyết vấn đề, với
nhiều các tình huống khác nhau để áp dụng trong suốt quá trình chăm sóc giáo
12



dục trẻ. Ở lớp tôi thường xuyên tạo tình huống dạy trẻ kĩ năng tự bảo vệ bản
thân để ứng phó được các nguy hiểm trong cuộc sống. Khi trẻ đã có tính tự lập
tốt thì giúp trẻ có kĩ năng tự bảo vệ bản thân tốt hơn. Từ các tình huống đó trẻ
biết phân biệt việc nào nên làm và việc nào không nên làm.
Ví dụ: Tôi cho trẻ xem một đoạn vi deo về tình huống “một bạn nhỏ tự ý
xách phích nước và bị bỏng”. Khi trẻ được xem tình huống tôi đưa ra, tôi hỏi
trẻ: Các con không nên tự ý làm những việc gì? nếu các con xách phích nước
nóng các con sẽ bị làm sao?...Từ một số tình huống tạo ra để hỏi trẻ, thì trẻ lớp
tôi có ý thức phân biệt được đâu là đồ vật an toàn và đồ vật không an toàn,… Để
bảo vệ bản thân không gặp nguy hiểm.
Thông qua các tình huống không những trẻ lớp tôi phát huy tính tích cực
tính tự lập cho trẻ mà các con còn có kĩ năng trong việc không tiếp xúc với
người lạ, khi tiếp xúc với người lạ tôi dạy trẻ tế nhị giữ một khoảng cách nhất
định với họ. Dạy trẻ không dễ dàng tin lời hay nghe theo lời dụ dỗ của người lạ
trong hoàn cảnh trẻ không biết họ là ai. Tôi nhắc các con hằng ngày không đi
theo người lạ nếu họ nhờ trẻ chỉ đường giúp, hoặc dụ dỗ trẻ đi theo để mua kẹo
bánh và đồ chơi. Tôi dạy trẻ cần nhớ những thông tin hữu ích, tôi dạy trẻ ghi
nhớ số điện thoại cá nhân của cha mẹ, người thân hay địa chỉ nhà ở, trong
trường hợp trẻ bị lạc đường và cần người khác giúp đỡ. Ngoài ra cũng nên cho
trẻ biết rằng cha mẹ sẽ không bao giờ nhờ một ai đó đến đón con trong bất kỳ
trường hợp nào. Vì thế, nếu có một ai đó đến làm quen, thậm chí có thể gọi
đúng tên của bé, tên của ba mẹ, rồi bảo với bé rằng bố mẹ nhờ mình đến đón
con về, thì con cũng đừng bao giờ đi theo họ. Tôi thường xuyên kể những câu
chuyện có nhiều tình huống mà các bạn gặp phải như đi chơi với người lạ, lạc
đường... Để khi gặp phải những tình huống đó các con không được nghe theo
bất cứ lời dụ dỗ của người lạ nào và cũng không được đi theo họ dù ở bất cứ nơi
đâu. Bên cạnh các tình huống đó trẻ còn biết nói không với các món quà hay bất
cứ thứ gì từ người lạ cho.

Ví dụ: Tôi kể cho trẻ nghe câu chuyện: Hôm nay bạn Mai được mẹ hứa
đón về sớm để đi siêu thị, nhưng mẹ có khách nên chưa đến đón được bạn Mai
như đã hứa, chờ mãi mà không thấy mẹ. Bạn Mai ra xích đu chờ mẹ, bỗng có
một người phụ nữ cho bạn Mai kẹo và nói “ hôm nay mẹ bận không đón con
được, mẹ nhờ cô đón con về, con ngoan ăn kẹo đi rồi lên xe cô chở con về”. Tôi
kể đến đó và dừng lại và hỏi trẻ: Bạn Mai có về với người phụ nữ đó không?
Nếu con là bạn Mai con sẽ xử trí như thế nào? Tôi cho trẻ thảo luận và đưa ra
câu trả lời. Sau đó tôi kể tiếp “bạn Mai không chịu lên xe, nói là đợi mẹ đón,
bạn Mai chạy vào lớp, người phụ nữ nắm lấy áo bạn Mai, bạn Mai đã kêu lên
thật to “cứu con với, cứu con với”, cô giáo và bác bảo vệ chạy tới”. Qua câu
chuyện tôi rèn cho trẻ biết “không đi theo người lạ dù người lạ có cho bất cứ thứ
gì”. Sau đó tôi có thể cho trẻ đóng vai các nhân vật trong câu chuyện cô vừa kể
để khắc sâu hơn kĩ năng cần trẻ ghi nhớ.
Tôi thường xuyên dạy cho trẻ biết, nếu một người lạ cho kẹo bánh hoặc
đồ chơi để dẫn trẻ đi đâu đó thì nên từ chối và tránh xa họ ngay lập tức. Và sau
đó, trẻ phải kể lại ngay chuyện gì đã xảy ra cho cô giáo và người bố mẹ nghe
hoặc bất cứ người nào trẻ tin tưởng. Trẻ thường có khuynh hướng đánh giá một
13


người lạ qua vẻ bề ngoài của họ: Cách ăn mặc chải chuốt, hoặc một gương mặt
xinh đẹp rất dễ gây thiện cảm với trẻ. Kẻ xấu có thể đánh vào điểm yếu này và
cố gắng thay đổi diện mạo để lấy cảm tình với trẻ. Vì vậy, tôi dạy bé cách nhìn
người qua hành động của họ thay vì phán xét bề ngoài và cách ăn mặc.
Ngoài ra tôi cho trẻ xem một số tình huống ứng xử nếu chẳng may trẻ
phải tiếp xúc với người lạ có ý đồ xấu hoặc bị lạc như: Nếu trẻ bị lạc trong siêu
thị, tôi dạy trẻ đi đến quầy thanh toán, nói cho nhân viên biết rằng mình đang bị
lạc và ở nguyên chỗ đó cho đến khi được mẹ đón. Chỉ ra những người trẻ có thể
tin cậy được. Bên cạnh bố mẹ, còn có ông bà hoặc những người trẻ có thể nhờ
cậy như cô giáo hoặc những người mặc trang phục cảnh sát.

Bên cạnh đó tôi đặt ra nhiều tình huống khác và tổ chức lồng ghép mọi
lúc mọi nơi để trẻ có cơ hội giải quyết và xử lý tình huống. Tôi đưa tình huống
trẻ biết tránh những mối nguy hiểm khác như: Nếu con đang ở nhà một mình,
có người đến gọi mở cửa con sẽ làm gì? Tôi cho trẻ nói suy nghĩ, cách giải
quyết của mình. Sau đó tôi giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất trong trường
hợp này “tuyệt đối không mở cửa cho người lạ khi người lớn vắng nhà kể cả đó
có thể là người quen của bố mẹ, người thu tiền điện...”. Đó cũng là một nguyên
tắc bảo vệ bản thân quan trọng cần dạy trẻ.
Với nhu cầu vui chơi giải trí hiện nay, đã có rất nhiều trường hợp trẻ bị
lạc xảy ra nơi công cộng. Vì vậy, tôi giúp trẻ có những kiến thức ứng xử cần
thiết khi bị lạc thông qua nhiều tình huống để trẻ trả lời như: Con nên gọi sự trợ
giúp của ai? Nếu gặp người lạ muốn đưa con về con nên làm gì? Tuy nhiên khi
trẻ đang hoảng sợ chưa chắc trẻ đã nhớ chính xác những thông tin này, vì thế
những tình huống như thế này tôi nhắc lại thường xuyên để trẻ nhớ: “Con hãy
đứng yên tại chỗ, bình tĩnh, không khóc lóc, gọi tên bố mẹ hoặc tên của mình,
nhớ số điện thoại của bố mẹ và địa chỉ gia đình, tìm kiếm sự giúp đỡ từ một
người khác đáng tin cậy như cô chú công an, bảo vệ…”. Đây là những gợi ý mà
tôi dạy trẻ.
Ví dụ: Cho trẻ xem 1 đoạn vi deo quay cảnh 1 bạn nhỏ bị lạc đường khi
đi chơi ở khu vui chơi trẻ em. Đến cảnh quay bạn nhỏ bị lạc không định hướng
được đường quay trở về nhà và rất hoảng sợ không biết mình đang ở đâu khi
nhìn xung quanh không thấy có ai quen biết thì có một người đi xe máy đến và
nói: Lên xe chú trở về nhà? Con có thích đồ chơi không ra kia chú mua cho?....
Sau đó tôi đã đưa ra các câu hỏi về tình huống này để hỏi trẻ: Con sẽ làm gì nếu
con bị lạc giống bạn? Con cần nhờ ai giúp đỡ? Con cần điện thoại cho ai?...
Khi trẻ chơi một mình không có người lớn bên cạnh cũng rất nguy hiểm
một số kẻ xấu lợi dụng, thậm chí còn xâm hại đến cơ thể của trẻ. Vì vậy, tôi cần
phát huy tính tự lập trong việc dạy trẻ bài học “ cơ thể con là của riêng con”, chỉ
khi tắm bố mẹ mới được đụng vào vùng kín của con, không một ai khác được
đụng chạm vào những vùng nhạy cảm trên cơ thể con. Trẻ sẽ tiếp nhận tự nhiên

bài học “cơ thể trẻ chỉ thuộc về trẻ”, trẻ sẽ có niềm tin bảo vệ chính bản thân
mình.
Ví dụ: Tôi kể cho trẻ nghe câu chuyện về bạn Hoa. Khi bạn Hoa đang
chơi một mình ở sân, có người hàng xóm sang chơi thấy bạn Hoa kêu đau. Lập
tức bác hàng xóm nói với Hoa: Cháu đau ở đâu để bác xem cho? Bạn Hoa đã trả
14


lời “ không đâu, mẹ cháu dặn không cho người khác đụng vào chỗ này” và tôi
hỏi trẻ ở lớp “ theo con con sẽ nói gì và làm gì?. Từ những tình huống cụ thể
này trẻ lớp tôi biết bảo vệ mình hơn trước những tình huống xấu như la to lên,
chạy vào nhà...
Trong thời gian gần đây, cháy nổ là hiểm hoạ luôn rình rập với tất cả mọi
nơi. Với trẻ mẫu giáo tuy trẻ còn nhỏ tuổi song tôi nghĩ rằng cũng cần dạy cho
trẻ một số kĩ năng ứng biến nếu chẳng may có điều đó xảy ra. Tôi đã đưa tình
huống bằng cách cho trẻ quan sát những hình ảnh hay những đoạn vi deo về
những vụ cháy, nổ...và hỏi trẻ: Nếu con thấy có khói, hoặc cháy ở đâu đó con
sẽ phải làm thế nào? Qua tình huống này tôi dạy trẻ khi thấy có khói hoặc cháy
ở đâu, trước hết con phải chạy xa chỗ cháy, hãy hét to để báo với cô giáo, người
thân và những người xung quang có thể nghe thấy.
Từ những tình huống cụ thể trên rất dễ xảy ra đối với trẻ, bằng cách cho
trẻ thảo luận, yêu cầu trẻ suy nghĩ, vận dụng vốn hiểu biết của mình để có để
tìm cách giải quyết vấn đề. Thông qua đó cô giúp trẻ tìm ra phương án phù hợp
nhất, đó cũng chính là kinh nghiệm mà tôi dạy trẻ. Thông qua phương pháp này
phát huy tính tự lập cho trẻ lớp tôi mà các cháu có nhiều kĩ năng để bảo vệ bản
thân mình một cách tốt nhất. Bên cạnh đó giúp trẻ có sự tư duy lô gích, biết
cách diễn đạt suy nghĩ của mình, và giúp trẻ tích lũy thêm những kinh nghiệm
trong cuộc sống. Do vậy, việc phát huy tính tự lập giúp cho trẻ có kĩ năng tự bảo
vệ bản thân này là hành trang quan trọng giúp trẻ tự tin và mạnh mẽ hơn trong
cuộc sống hiện đại.

2.3.4. Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh trong việc rèn luyện
tính tự lập cho trẻ
Chúng ta đều biết rằng, trong môi trường xã hội mà trẻ sống, học tập và
phát triển, bên cạnh các mặt tác động ảnh hưởng tích cực luôn còn có một số
mặt hạn chế như: Vốn sống và kinh nghiệm của trẻ còn ít ỏi, lại hiếu động, trẻ
dễ bắt chước theo. Nhất là khi thiếu sự phối hợp đúng đắn, thiếu sự thống nhất
giữa nhà trường và gia đình thì hậu quả xấu trong giáo dục rèn tính tự lập cho
trẻ sẽ xuất hiện, nếu không kịp thời khắc phục sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nhân
cách và sự phát triển toàn diện của trẻ.Việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ là một
quá trình lâu dài liên tục, diễn ra ở nhiều môi trường khác nhau. Vì thế, việc rèn
tính tự lập cho trẻ luôn luôn đòi hỏi có sự phối hợp giữa phụ huynh và giáo viên
trong trường.
Là một giáo viên chủ nhiệm lớp 5-6 tuổi, hiểu được tầm quan trọng đó,
tôi đưa nội dung phối kết hợp với phụ huynh để rèn luyện tính tự lập cho trẻ là
một trong những nội dung chính trong kế hoạch năm học của lớp.
Tôi trao đổi thường xuyên hàng ngày trong giờ đón trả trẻ để phụ huynh
hiểu. Một số phụ huynh có nhiều vướng mắc khi rèn luyện tính tự lập cho trẻ
còn nhiều hạn chế. Nhiều gia đình chưa thống nhất quan điểm về việc rèn tính
tự lập cho trẻ. Cha mẹ thì muốn con mình tự làm những công việc vừa sức,
nhưng ông, bà sợ cháu mệt lại làm hộ dẫn đến kết quả rèn tính tự lập cho trẻ
chưa thành công. Một số phụ huynh khác thì có ý kiến hoàn toàn nhờ cô giáo
chủ nhiệm chứ về nhà nói các con không nghe lời. Vì vậy, tôi luôn tuyên truyền
với phụ huynh hiểu thế nào là cho trẻ tự lập đó là tự làm những công việc trong
15


khả năng của trẻ, bố mẹ chỉ là người làm mẫu và hướng dẫn trẻ làm và không
nên làm giúp trẻ. Khi trẻ biết làm rồi thì phụ huynh nên khuyến khích, động
viên trẻ, cho trẻ rèn tính tự lập đó nhiều lần trẻ có nhiều kĩ năng cần thiết trong
cuộc sống của trẻ.

Ví dụ: Tôi thấy một số trẻ lớp tôi được bố mẹ, ông bà rất nuông chiều
không bao giờ tự làm một việc gì kể cả tự xúc cơm ăn. Đến lớp thì đợi cô và bạn
làm giúp, giúp đỡ. Tôi đã trò chuyện và trao đổi với phụ huynh của những cháu
đó để họ nắm bắt được tình hình của con mình và tôi tuyên truyền cho phụ
huynh các phương pháp về giáo dục tính tự lập ngay từ nhỏ để phụ huynh có thể
áp dụng lại.
Thông qua họp phụ huynh đầu năm tôi trao đổi để các bậc phụ huynh
hiểu việc rèn tính tự lập cho trẻ là rất cần thiết và quan trọng, để các bậc phụ
huynh nắm được cách rèn tính tự lập cho trẻ từ đó rèn tính tự lập cho trẻ ở nhà
tốt hơn. Trong buổi họp tôi có thể gợi ý cho phụ huynh về cách rèn tính tự lập
cho trẻ như: Anh chị cứ để cho các con tự ngủ một mình; tự bỏ màn, chải chăn
trước khi đi ngủ; tự lấy đồ cá nhân bỏ vào cặp trước khi đi về; hay để cho con tự
gấp quần áo của mình để các con tự làm thử xem….
Tôi tổ chức cho các bậc phụ huynh đi tham quan các hoạt động của trẻ để
phụ huynh hiểu được ở độ tuổi 5-6 tuổi con mình làm được một số công việc
phù hợp với khả năng, để phụ huynh không còn nuông chiều con quá mức mà
kết hợp với cô giáo rèn tính tự lập cho trẻ tốt nhất.
Tuyên truyền với các bậc phụ huynh rằng: Trong gia đình việc tạo môi
trường tự lập cho trẻ là rất cần thiết. Vì vậy cha mẹ và người thân trong gia đình
phải tạo phải tạo ra các tình huống để thu hút trẻ làm những công việc phù hợp
với khả năng. Bố mẹ cũng chính là những người phải tác động, phải rèn luyện
đức tính tự lập cho con. Có như vậy thì các con mới có thể làm được một số
việc không cần đến sự giúp đỡ của bố mẹ. Bên cạnh đó tôi còn phân tích cho
phụ huynh hiểu, mọi hoạt động và việc làm của các thành viên trong gia đình
đều có thể được bé ghi nhận lại và sẽ bắt chước làm theo. Tránh thái độ chê bai,
chọc ghẹo khi bé làm không được hoặc làm hỏng việc. Không vội vàng phê
phán đúng - sai mà kiên trì giúp trẻ biết tranh luận và có thể đưa ra kết luận của
mình. Hãy hỏi con thích gì, ghét gì, muốn gì, khi bé có thể nói ra ý riêng của
bản thân, đó là nền tảng cho tính tự lập và tự tin của trẻ.
Ví dụ: Tôi trao đổi với phụ huynh một số việc đơn giản như: Khi mẹ nhặt

rau, mẹ nên giải thích và hướng dẫn để con có thể hiểu cách nhặt rau, khi bố đi
làm về thì bé có thể giúp bố cất áo, cất mũ, khi mẹ phơi quần áo nhờ trẻ lấy tất,
quần áo của bé…đưa cho mẹ để mẹ phơi lên dây. Tuy mất thời gian một chút,
nhưng sự kiên nhẫn dần dần hình thành tính tự giác, tính tự quyết định, khả
năng tự xoay sở của mình.
Tuyên truyền cho phụ huynh hiểu không nên làm hộ con, phải dạy trẻ tính
tự lập từ bé. Trẻ càng được hướng dẫn sớm về cách tự lập, tự bảo vệ bản thân,
nhận biết những mối nguy hiểm từ xung quanh và cách xử lý thì sẽ vững vàng
vượt qua những thử thách trong mọi tình huống. Điều đó được chứng minh rõ ràng
từ thức tế. Chính vì vậy, cách bảo vệ trẻ tốt nhất chính là dạy trẻ biết cách tự bảo vệ
bản thân.
16


Từ phương pháp phối kết hợp giữa giáo viên và phụ huynh lớp tôi đã có
nhiều chuyển biến từ phụ huynh. Nhờ có sự kết hợp với phụ huynh với cha mẹ
trẻ tôi thấy trẻ lớp tôi luôn có tính tự lập cao, trẻ mạnh dạn tự tin, các kĩ năng tự
phục vụ, các kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giữ gìn vệ sinh, kĩ năng giúp đỡ người
khác luôn thành thạo và rất vui vẻ khi được tự lập.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Sau khi áp dụng các biện pháp trên trẻ lớp tôi có nhiều chuyển biến rõ
rệt. Kết quả khảo sát cuối năm trên trẻ đạt được như sau:
* Đối với trẻ.
Trẻ lớp tôi đã phát huy hết khả năng tự lập của mình, trẻ năng động, sáng
tạo, tự tìm kiếm, khám phá và giải quyết công việc một cách hứng thú, trẻ có
nhiều kĩ năng cần thiết. Trẻ tự giác thực hiện tốt các công việc phù hợp với khả
năng, các công việc hàng ngày ở lớp. Biết bảo vệ bản thân trước những tình
huống nguy hiểm và khả năng tự lập của trẻ tiến bộ một cách rõ rệt.

Nội dung khảo sát


1. Trẻ có một số kĩ năng cần thiết,
không ỷ lại vào cô và các bạn, biết tự
làm một số công việc mà không phụ
thuộc vào người khác.
2. Trẻ có tính tự lập thông qua các
hoạt động.
3. Trẻ có tính tự lập để có kĩ năng bảo
vệ bản thân.
4. Phụ huynh tích cực phối hợp với
giáo viên trong việc rèn tính tự lập
cho trẻ.

Tổng
số trẻ
trong
lớp
được
khảo
sát

Mức độ % trên trẻ
Đạt
Chưa đạt
Số
lượng

Tỉ
lệ
%


Số
lượng

Tỉ lệ
%

27

26

96

1

4

27

25

93

2

7

27

25


93

2

7

27

27

100

0

0

Kết quả khảo sát trên cho thấy, tính tự lập của trẻ đã có nhiều chuyển biến
đáng kể. Điều này đã chứng minh các phương pháp tôi đã áp dụng ở trên là
hoàn toàn đúng đắn.
*Đối với bản thân.
Bản thân tôi là giáo viên trực tiếp giảng dạy các cháu tôi luôn nắm vững
đặc điểm tâm sinh lí của trẻ, hoàn cảnh và điều kiện gia đình, bám sát vào thực
tế địa phương để có kế hoạch phù hợp giáo dục trẻ rèn luyện tính tự lập. Biết lựa
chọn nội dung phù hợp để lồng ghép vào các hoạt động hàng ngày. Phối kết hợp
chặt chẽ với phụ huynh trong mọi hoạt động để rèn tính tự lập cho trẻ..
Sau khi tiến hành những biện pháp trên tôi thấy trẻ đã có kĩ năng cần thiết
17



phù hợp với độ tuổi. Trẻ có tính tự lập hơn giúp cho việc tổ chức các hoạt động
giáo dục của cô giáo đạt kết quả tốt hơn.
Bên cạnh đó tôi còn chia sẻ cùng đồng nghiệp về biện pháp rèn tính tự lập
cho trẻ, được đồng nghiệp đón nhận, đánh giá cao và ứng dụng vào lớp của
mình, đạt hiệu quả tốt.
* Đối với phụ huynh.
Sự chuyển biến tích cực từ trẻ đã làm cho phụ huynh cảm thấy vui mừng,
phấn khởi, tin tưởng vào kết quả rèn tính tự lập cho trẻ ở lớp. Các bậc phụ
huynh có kiến thức sâu hơn, có cái nhìn đúng đắn hơn về giáo dục rèn luyện
tính tự lập cho trẻ. Phụ huynh hưởng ứng, thường xuyên trao đổi và cùng phối
kết hợp với giáo viên để cùng giáo dục, rèn tính tự lập cho trẻ và rất tin tưởng cô
giáo bởi họ tự nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của con mình.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
18


3.1. Kết luận
Từ việc tìm ra “Một số biện pháp rèn luyện cho trẻ 5-6 tuổi có tính tự
lập ở trường mầm non Đồng Thịnh” Bản thân tôi đã rút ra được bài học kinh
nghiệm sau:
Giáo viên cần tăng cường rèn các kĩ năng cần thiết cho trẻ như: Kĩ năng
tự phục vụ; kĩ năng vệ sinh cá nhân, kĩ năng giúp đỡ người khác.
Giáo viên cần lựa chọn các nội dung phù hợp để lồng ghép việc rèn luyện
tính tự lập cho trẻ thông qua các hoạt động.
Giáo viên cần phải phát huy tính tự lập cho trẻ để có thể bảo vệ bản thân
qua các tình huống.
Giáo viên cần phải tích cực Phối hợp tốt với phụ huynh, tạo mối quan hệ
gắn bó thân thiết giữa phụ huynh và nhà trường, đồng tâm hướng tới mục tiêu
chung.

Để trẻ có tính tự lập thì cô giáo và cha mẹ phải không ngừng học hỏi,
tích luỹ kinh nghiệm, rèn luyện bản thân trở thành tấm gương cho trẻ noi theo
và học tập.
Mỗi giáo viên phải tạo mọi cơ hội cho trẻ được trải nghiệm nhiều một số
kĩ năng cần thiết thông qua các hoạt động, từ đó trẻ thực hiện nhiệm vụ một
cách tích cực.
Giáo viên phải dạy trẻ biết những bộ phận trên cơ thể và một số cách
phòng tránh những nguy hiểm rình rập bằng nhiều cách khác nhau như: Tạo tình
huống cho trẻ, trò chuyện và trao đổi thường xuyên với trẻ...
Học hỏi kinh nghiệm thông qua báo trí, thông qua mạng, qua đồng nghiệp
để tìm ra nhiều biệp pháp hay để rèn tính tự lập cho trẻ đạt hiệu quả cao.
3.2. Kiến nghị
Từ những việc làm cụ thể và kết quả đạt được để nâng cao kĩ năng sống
đặc biệt là rèn tính tự lập ở các trường Mầm Non nói chung và trường Mầm Non
Đồng Thịnh nói riêng. Tôi xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhỏ như sau:
* Đối với SGD& ĐT
Tạo điều kiện mở nhiều lớp tập huấn về kĩ năng sống để giáo viên có cơ
hội học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm cho
bản thân.
* Đối với PGD&ĐT
Tạo điều kiện để giáo viên tập huấn thường xuyên các chuyên đề nâng
cao kĩ năng sống cho trẻ.
*Đối với nhà trường
Cần làm tốt hơn nữa công tác tham mưu với chính quyền địa phương,
tăng cường về cơ sở vật chất để tạo điều kiện cho việc tổ chức các hoạt động
dạy và học tốt hơn.
Trên đây là “Một số biện pháp rèn tính tự lập cho trẻ 5-6 tuổi ở trường
mầm non Đồng Thịnh” tại lớp tôi trong năm học 2018 - 2019. Những biện
pháp được áp dụng đã đạt được một số thành công ban đầu, song vẫn còn nhiều
mặt hạn chế.

Kính mong được sự đóng góp ý kiến của bạn bè đồng nghiệp và Hội đồng
khoa học các cấp. Để tôi thực hiện tốt hơn việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ
19


cũng như thực hiện tốt hơn nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ, nhằm nâng cao chất
lượng phát triển toàn diện của trẻ theo mục tiêu chương trình giáo dục mầm
non.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Hiệu trưởng

Phạm Thị Hường

Đồng Thịnh, ngày 20 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện
Nguyễn Thị Loan

20



×