Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ 5 6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.29 KB, 20 trang )

0


MỤC LỤC

TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17

Nội dung
Mục lục
1.
Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Phương pháp nghiên cứu


1.4. Đối tượng nghiên cứu
1.5 Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2.
Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
2.4. Hiệu quả
2. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục các SKKN đã được xếp loại

Trang
1
2
2
3
3
3
3
3
4
4-5
6 – 17
17
18
18
19

20

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Văn học là ngọn lửa hồng sưởi ấm cho tâm hồn và thắp sáng những ước
mơ cho trẻ về tương lai. Văn học là một loại hình nghệ thuật là người bạn không
thể thiếu được đối với trẻ, nó đem lại cho trẻ những hiểu biết đầu tiên về cuộc
sống xung quanh, con người từ khi sinh ra cất tiếng khóc chào đời đã được làm
quen với văn học. Đó là những vần thơ, câu hát ru ầu ơ, điệu hò thắm tình nồng
ấm.
Văn học được đưa vào chương trình học tập của trẻ giữ vị trí quan
trọng.Văn học giúp trẻ khả năng cảm thụ vẻ đẹp, mỗi tác phẩm văn học là bức
tranh của cuộc sống, tạo cho trẻ cảm xúc, mở rộng thế giới xung quanh đó là đất
nước con người, thiên nhiên và xã hội. Cô giáo mầm non là người ươm hạt
giống đầu tiên, góp phần vào sự nghiệp trồng người của đất nước đúng như Bác
Hồ đã nói:
“ Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
Vì vậy trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ văn học là môn học không
thể thiếu được và có vị trí quan trọng đặc biệt đối với trẻ, nó đem lại cho trẻ
những hiểu biết ban đầu về cuộc sống xung quanh nuôi dưỡng và phát triển ở trẻ
trí tưởng tượng, sáng tạo nghệ thuật, văn học còn giúp trẻ hình thành nhân cách,
phẩm chất, đạo đức, lối sống của con người, giúp trẻ mở rộng sự hiểu biết về xã
hội, về thiên nhiên, đưa đến cho trẻ một khối lượng kiến thức phong phú, trẻ biết
thêm nhiều điều về thế giới xung quanh. Nhờ vậy mà kinh nghiệm sống và tư
duy hàng ngày của trẻ phong phú hơn, trẻ biết cách ứng sử trong cuộc sống, tự
tin vững vàng hơn trong những bước đi của mình, hình thành ở trẻ phẩm chất

đạo đức, biết yêu thiên nhiên, quê hương đất nước, kính trọng người lao động,
biết chào hỏi lễ phép với mọi người, biết kính trên nhường dưới, yêu quý ông
bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè và những người xung quanh. Biết yêu cái đẹp, khát
khao mình làm ra cái đẹp và hy vọng thành đạt trong tương lai….
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học có vai trò vô cùng to lớn trong
việc giáo dục toàn diện nhân cách cho trẻ em cả về đạo dức, trí tuệ, thẩm mỹ
nó ảnh hưởng trực tiếp tới tâm hồn trẻ thơ, làm quen với tác phẩm văn học
là trẻ được làm quen với vạn vật, với thiên nhiên đầy bí ẩn diệu kì, trẻ được
làm quen với những con vật ngộ nghĩnh đáng yêu, trẻ được thể hiện tính
cách sắc thái, cử chỉ, điệu bộ, giọng điệu các nhân vật mà mình sắm vai từ
đó trẻ biết khen, chê, biết đúng, sai, thiện, ác để trẻ có thể tích lũy được kinh
nghiệm sống cho mình và làm thế nào để trẻ có thể cảm thụ những tác phẩm
văn học một cách tốt nhất toàn diện nhất đây cũng chính là bài toán cần lời
giải cho các giáo viên mầm non.
Nhận thức về tầm quan trọng của bộ môn văn học đối với trẻ mẫu giáo,
tôi có những suy nghĩ. Văn học là một môn học rất hấp dẫnsong cũng rất khó
đối với trẻ mẫu giáo.
Nhận thức được tầm quan trọng đó tôi đi sâu nghiên cứu đề tài“Một số
biện pháp nâng cao chất lượng cho trẻ5 - 6 tuổi làm quen tác phẩm văn
học” nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ đạt hiệu cao hơn.
2


1.2. Mục đích nghiên cứu:
Thông qua việc tìm hiểu vấn đề có tính chất lý luận nghiên cứu, điều tra
khảo sát thực tế, tìm ra được những biện pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm
văn học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là ‘‘Một số biện pháp nâng cao chất lượng cho
trẻ 5 – 6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học. Tham khảo ý kiến đánh giá cuả

ban giám hiệu, giáo viên đồng nghiệp, những tài liệu trong chương trình giáo
dục mầm non. Đề xuất một số biện pháp truyền thụ tác phẩm văn học ở trường
mầm non.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực trạng.
- Phương pháp quan sát phỏng vấn.
- Phương pháp phân tích so sánh.
- Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
- Xây dựng môi trường cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
- Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận.
Văn học cho trẻ Mầm non chính là ngôn ngữ nghệ thuật đầu tiên cho trẻ,
mở rộng nhận thức về thế giới xung quanh, từng bước tích lũy kinh nghiệm
sống, phát triển trí tuệ, có thêm nhiều hiểu biết về thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá,
con vật và cuộc sống của nhân dân xưa và nay.Văn học thỏa mãn nhu cầu tinh
thần của trẻ, gợi cho trẻ những tình cảm đẹp, góp phần giáo dục thâm mỹ, bồi
dưỡng phát triển ngôn ngữ cho trẻ, làm quen văn học còn là phương tiện quan
trọng giúp trẻ khám phá thế giới xung quanh mình và tự khẳng định mình trong
môi trường đó. Làm quen với văn học còn khuyến khích trẻ đưa ra những nhận
xét đúng sai, những phán quyết xác thực từ hiểu biết của mình qua đó dạy trẻ
cách dùng từ sao cho đẹp, cho đúng và diễn đạt một cách biểu cảm từ đó làm
giàu ngôn ngữ cho trẻ.
Văn học là một kho tàng tri thức trong đó chiếm rất nhiều những câu
chuyện cổ tích, dân gian, những câu chuyện hiện đại, những bàithơ, ca dao, có
khi văn học chỉ là những hình ảnh mà người xem nó có thể gắn kết lại thành một
tác phẩm văn học.
Tác phẩm văn học kể về cuộc sống xung quanh có đúng, có sai, có sướng,
có khổ, để khi người đọc hoặc người nghe hiểu và đánh giá đúng bản chất của

nó tạo cho mình một bài học kinh nghiệm cho cuộc sống của mình.
Cho trẻ làm quen với văn học là một trong những môn học quan trọng,
xác thực nhất giúp trẻ học ăn, học nói, đem đến cho trẻ những gì tốt đẹp về
phẩm chất đạo đức, mở rộng vốn từ, cung cấp từ mới, phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mà ngôn ngữ lại là cơ sở của suy nghĩ và hiểu biết.
Vì vậy tại sao chúng ta lại không tìm cách để truyền thụ tốt tác phẩm văn
học đến cho trẻ, việc đem văn học đến cho trẻ là một việc quan trọng và cần
thiết có thể đem đến ở mọi lúc, mọi nơi khi ở nhà, khi ở trường. Đặc biệt trường
3


mầm non là một môi trường thuận lợi để cung cấp kiến thức cho trẻ qua văn
học, và người giáo viên là người trực tiếp giúp trẻ có khả năng cảm thụ đó chính
vì vậy tôi đã lựa chọn và nghiên cứu, tìm ra giải pháp để thực hiện tốt đề tài này.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
*Về phía nhà trường
Trường mầm non Hà Sơn là trường thuộc xã miền núi của huyện Hà
Trung, địa bàn rộng, việc đi lại khó khăn, dân cư chủ yếu làm nghề nông, trình
độ dân trí của các bậc phụ huynh còn thấp.
Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo phòng, địa phương và nhà trường
đã mua sắm trang thiết bị và một số đồ dùng đồ chơi, cơ sở vật chất khác phục
vụ cho học tập và vui chơi của trẻ thuận lợi hơn. Cơ sở trang thiết bị tương đối
đầy đủ và đã có đồ chơi ngoài trời, là điều kiện tốt cho việc dạy học đạt kết quả
cao hơn.
Nhà trường có 9 nhóm, lớp có đủ phòng học đảm bảo cho trẻ hoạt động,
các phòng nhóm được trang bị giá góc, đồ dùng, đồ chơi cho các lớp hoạt động,
có sân chơi rộng rãi, sạch sẽ mát mẻ, có cảnh quan đẹp như vườn cổ tích,
đảmbảo đủ điều kiện cho trẻ chơi, hoạt động.
* Đối với giáo viên:
Là giáo viên được nhà trường tin tưởng giao trách nhiệm phụ trách lớp

5 – 6 tuổi. Tôi luôn năng động, nhiệt tình trongcông việc lại yêu nghề mến trẻ không
ngừng học hỏi, tham khảo tài liệu dự giờ đồng nghiệp để rút ra kinh nghiệm cho bản
thân, tham gia đầy đủ lớp tập huấn kiến thức về các chuyên đề, đã giúp tôi thêm
nhiều kiến thức bổ ích, áp dụng vào công tác giảng dạy. Qua việc thực hiện chương
trình chăm sóc giáo dục trẻ, được ban giám hiệu tăng cường dự giờ, góp ý bản thân
tôi đã được trau dồi về kiến thức, kinh nghiệm trong tiết dạy và tổ chức các hoạt
động. Tích cực làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các tiết học.
Mặc dù đồ dùng, đồ chơi tương đối đầy đủ nhưng chưa phong phú đa
dạng về chủng loại mầu sắc, hầu hết là đồ dùng, đồ chơi tự làm nên tính khoa
học và thẩm mỹ chưa cao.
Đứng lớp cả ngày nên không đủ thời gian để làm đồ dùng phục vụ môn
học như rối...rất cầu kì, kinh phí hạn chế, việc chụp hình, quay phim để làm tư
liệu còn gặp nhiều khó khăn. Tủ sách nhà trường không đủ tranh chuyện phục
vụ cho các câu chuyện, bài thơ của chủ đề và các tiết học.
Vì vậy đứng trước khó khăn trên bằng vốn hiểu biết của bản thân, tôi luôn
tự học hỏi kinh nghiệm để tìm những sáng kiến hay, nhằm khắc phục khó khăn
đó cho lớp. Tôi cùng với tổ chuyên môn kết hợp với nhà trường vận động phụ
huynh học sinh ủng hộ trang thiết bị cần thiết cho lớp, đồ dùng, đồ chơi phục vụ
cho việc giảng dạy và học tập cho môn học tốt hơn nhằm phát huy, khai tháchiệu
quả trong phương pháp giảng dạy, tạo điều kiện để trẻ được học tập tốt.
* Đối với học sinh:
Trong năm học 2018 – 2019 lớp mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) của tôi phụ trách,
với tổng số trẻ 25 cháu. Trẻ đi học đều duy trì sĩ số tốt, nề nếp đảm bảo nhờ vậy
tôi cũng có điều kiện hơn để chuyên tâm vào công việc chăm sóc và giảng dạy.
Bên cạnh đó số cháu vào học với điều kiện không giống nhau, tuy có cùng
độ tuổi nhưng nhận thức của trẻ không đồng đều, cá tính của mỗi trẻ cũng khác
4


nhau, số trẻ nam đông hơn số trẻ nữ, một số trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn

tham gia các hoạt động trong giờ học, do vậy việc dạy bảo trẻ cũng rất khó khăn
cho giáo viên.
* Đối với phụ huynh:
Nhận thức của các bậc phụ huynh đối về công tác chăm sóc giáo dục trẻ
được quan tâm, phụ huynh nhiệt tình ủng hộ mua sắm đồ dùng, trang thiết bị, đồ
chơi, phụ huynh luôn quan tâm, chăm lo đến việc học tập của các cháu, tích cực
tham gia vào các hoạt động của nhà trường, công tác phối kết hợp giữa gia đình
và nhà trường đạt hiệu quả cao.
Đa số phụ huynh đều làm nông nghiệp nên điều kiện kinh tế thấp và hiểu
biết của một số người dân còn rất hạn chế.
* Kết quả của thực trạng:
Từ thực trạng trên tôi thấy kết quả cho trẻ làm quen với văn học chưa
được cao, trẻ chưa thực sự hứng thú với hoạt động làm quen với văn học nên khi
đàm thoại trẻ chưa trả lời vào trọng tâm của câu hỏi. Trẻ tham gia kể chuyện,
đọc thơ nhưng chưa linh hoạt, hoàn toàn phụ thuộc vào sự hướng dẫn, gợi ý của
cô.
Trẻ chóng nhớ cũng chóng quên nên sau giờ học có một số trẻ quên nội
dung câu chuyện ngay.
Kết quả khảo sát chất lượng học tập đầu năm.
Trước khi bắt tay vào việc thực hiện các biện pháp, tôi đã tiến hành khảo
sát tình hình thực trạng của lớp mình và kết quả khảo sát chất lượng học tập đầu
năm học như sau:
Tổn
g số
Số
Số
ST
trẻ
Nội dung khảo sát
trẻ

trẻ
T được
Đạt
% chưa %
khảo
Đạt
sát
1
Khả năng hứng thú nghe các tác
15
60
10
40
phẩm văn học
25
2
Khả năng trả lời câu hỏi đàm thoại
13
52
12
48
3

Khả năng cảm thụ tác phẩm văn học

13

52

12


48

4

Khả năng đọc kể diễn cảm tác phẩm 12
48
13
52
văn học
Nhìn vào bảng trên ta thấy chất lượng học tập của trẻ đầu năm học đạt kết
quả chưa tốt, số cháu đạt chưa cao, số cháu chưa đạt còn chiếm tỉ lệ khá cao vì
vậy tôi đã suy nghĩ, tìm và đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
học tập của trẻ đạt kết quả tốt hơn.
2.3. Các giải pháp tổ chức thực hiện:
Giải pháp 1: Xây dựng môi trường cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học
Đặc điểm của trẻ mẫu giáo là chóng nhớ dễ quên, việc tạo môi trường văn
học trong lớp để trẻ hàng ngày được tiếp xúc với các nhân vật giúp trẻ khắc sâu
5


hơn hình ảnh các nhân vật. Vì thế xây dựng môi trường văn học cho trẻ tiếp xúc
nên đặc biệt chú ý đến mọi môi trường hoạt động của trẻ để trẻ tiếp xúc với nó
một cách tự nhiên. Đó là những bức tranh, những hình ảnh, những đoạn truyện
trong chương trình do cô giáo tự sáng tạo hay sưu tầm. Nếu góc văn học đã
mang tính chủ đạo thì các góc khác trong lớp cũng xây dựng kết hợp có sự lồng
ghép hài hòa tăng cường cơ hội cho trẻ giao tiếp với môi trường xã hội, môi
trường tự nhiên. Việc tổ chức môi trường văn học là một hoạt động thường
xuyên của giáo viên. Việc này đòi hỏi sự linh hoạt không cứng nhắc để cố định
suốt cả học kì hay cả năm học tuy nhiên cũng không nên dập khuôn giống

nhau.Hiện nay, nếu cô tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích
thích trẻ phát triển ngôn ngữ, tham gia vào các hoạt động và kết quả đạt được rất
cao. Vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã đi sâu vào tạo môi trường bằng cách đưa
hình ảnh nhân vật của các câu truyện nổi bật vào góc văn học và một số góc
trong và ngoài lớp học thể hiện trên các mảng tường. Vẽ và sưu tầm một số bộ
truyện tranh, bài thơ ngoài chương trình để đưa vào giảng dạy, vận động phụ
huynh đóng góp truyện tranh đưa vào góc văn học cho trẻ hoạt động thường
ngày. Những câu truyện, bài thơ được thể hiện trên các mảng tường trong không
gian to đã giúp trẻ dễ tri giác, trẻ được thảo luận, bàn bạc về câu truyện, bài thơ
đó. Từ đó trẻ biết vận dụng những kiến thức đó vào kể truyện, đọc thơ một cách
dễ dàng. Ngoài việc tạo những bức tranh trên mảng tường, những tập truyện
tranh chữ to tôi còn đi sâu làm một số đồ dùng trực quan cho trẻ hoạt động như:
băng dính hai mặt, xốp mút, súng bắn keo, giấy bóng trang kim, đề can...giáo
viên chủ động trong việc sưu tầm nguyên vật liệu, phế liệu: vỏ hộp, bìa cát tông,
hoạ báo...và đặc biệt biết cách xây dựng một số những điều kiện tiền đề cần thiết
cho việc tạo môi trường. Cụ thể là:
- Chuẩn bị mặt nội dung và đồ dùng đồ chơi:
Tôi nghiên cứu và lập kế hoạch tháng, kế hoạch tuần cụ thể xác định mục
tiêu, nội dung, kiến thức trọng tâm, kỹ năng cần đạt ở trẻ sát với tình hình nhận
thức của trẻ.
Sáng tạo linh hoạt trong việc lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức
phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ “Học bằng chơi, chơi mà học”; đan
xen các hoạt động tĩnh- động giúp trẻ thoải mái, dễ dàng trong việc tiếp thu,
lĩnh hội kiến thức.
- Xây dựng không gian tổ chức hoạt động:
Không gian tổ chức trẻ hoạt động phải đảm bảo không gian mở, dễ dàng
tiến hành các chuỗi hoạt động tĩnh - động một cách thuận tiện, an toàn, thoải
mái, trẻ có thể hoạt động cá nhân hay hoạt động tập thể.
Ví dụ: Làm quen bài thơ “Ăn quả” cho trẻ đứng lên đi thăm mô hình cửa
hàng bán hoa quả. Tạo ra không gian với nhiều tranh ảnh, bài hát, ca ngợi, nói

về tác dụng, ích lợi của việc ăn trái cây đối với sức khoẻ, sự phát triển của cơ
thể. Nội dung tranh, cách ăn như thế nào hợp vệ sinh, cho đúng rửa và ngâm quả
trước khi ăn, cách cắt, cách bày trang trí quả trên đĩa, cách chế biến quả thành
nhiều chế phẩm; sinh tố như dưa hấu, đu đủ, xoài, ngâm đường, muối như mận,
mơ, quả dâu... với cách tạo không gian hoạt động này thật ấn tượng và hiệu quả,
trẻ như lạc vào một thế giới của các loại quả, các món ăn bổ duỡng và tinh khiết.
6


Như vậy, tạo môi trường đã mang lại hiệu quả cao cho việc chuyển tải nội
dung tác phẩm văn học đến với trẻ. Qua cách nghĩ và làm như vậy tôi đã tạo ra
một góc văn học với đầy đủ chủng loại về đồ dùng trực quan đa dạng phong
phú, đã giúp trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động và nhiều ý tưởng hay khi trẻ
kể truyện, đọc thơ.
Ví dụ: Với những phế liệu, phế phẩm như lọ sữa, lọ dầu rửa bát, lọ dầu xả
comfo, lọ ầu ăn… cắt trang trí họa tiết thành bụi tre, con vịt, con gà, con cáo làm
mô hình truyện “Quả trứng”, “Biết vâng lời mẹ”, “Cây trẻ trăm đốt”; truyện
“Cáo thỏ và gà trống”; Minh họa cho bài thơ “Làm anh”. Ke - cắt vải may các
con rối tay dê đen, dê trắng, chó sói, căng phông tạo cảnh kể chuyện bằng rối tay
“Chú dê đen”… Rất nhiều và rất nhiều truyện khác nữa. Với sự nhiệt tình, kiên
trì, lòng đam mê, bàn tay khéo léo, óc sáng tạo của các cô giáo đã tạo được một
vườn chuyện rất sinh động, hấp dẫn và đưa vào giờ dạy rất có hiệu quả.
(Hình ảnh đồ dùng đồ chơi tự làm )

Bên cạnh đó trong giờ hoạt động ngoài trời tôi đưa trẻ vào vườn cổ tích,
Với những bức tranh tường ở trong trường bằng cách gợi mở cho trẻ cùng nhau
kể truyện, đọc thơ về những bức tranh đó hoặc có các con vật trong sân trường
tôi cũng gợi mở cho trẻ thi nhau kể truyện, đọc thơ về các con vật đó…hình thức
này đã giúp trẻ có ý thức thi đua để đạt kết quả tốt.
Ví dụ: Câu truyện “Tấm cám” khi dạo chơi trong vườn cổ tích cô cùng

trẻkể lại nội dung câu truyện kết hợp cảnh truyện, trẻ khắc sâu, nhớ lâu và như
đang thả hồn vào trong truyện, trẻ rất thích thú.
(Hình ảnh cô giáo đang giới thiệu về mô hình chuyện Tấm cám )
Ngoài ra nhà trường còn tổ chức hội thi tạo môi trường học tập như:
“Thi góc văn học đẹp” Mỗi nhóm lớp tạo môi trường cho góc văn học bằng câu
truyện hay tác phẩm thơ phù hợp với chủ đề đang thực hiện. Bằng những
nguyên vật liệu sẵn có hay các phế liệu, với óc thông minh, sáng tạo bàn tay
khéo léo làm và tạo ra cảnh của tác phẩm, các nhân vật trong tác phẩm rất ngộ
ngĩnh, sống động gây được sự hứng thú của trẻ.
Kết quả giờ học được nâng lên, trẻ nhớ lâu, khắc sâu tác phẩm văn học mà cô
giáo chuyển tải nội dung câu chuyện, bài thơ của tác giả đã gửi gắm.
Giải pháp 2: Lấy trẻ làm trung tâm
Hoạt động học của trẻ chỉ có hiệu quả khi trẻ có cách học tích cực, chủ động,
tự giác.Vì vậy cô muốn truyền cho trẻ tình yêu văn học cần hiểu đặc điểm tâm
sinh lí của từng trẻ, tạo cơ hội cho trẻ phát triển khả năng tự khám phá, tìm tòi,
trải nghiệm.
Trong phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm, toàn bộ quá trình dạy học đều
hướng vào nhu cầu, khả năng, lợi ích của trẻ, mục đích là phát triển ở trẻ kĩ năng và
năng lực độc lập học tập và giải quyết vấn đề…theo từng độ tuổi phù hợp.
Dạy học lấy trẻ làm trung tâm là đặt trẻ vào vị trí trung tâm của hoạt động
dạyvà học với những phẩm chất và năng lực riêng của mỗi người – vừa là chủ
thể vừa là mục đích của quá trình đó.
7


Với phương pháp mới này mọi hoạt động giáo dục đều hướng vào trẻ và
xuất phát từ trẻ.Như vậy trẻ vừa là đối tượng vừa là sản phẩm của quá trình giáo
dục đồng thời cũng là chủ thể của quá trình giáo dục.Trẻ trực tiếp tham gia vào
các hoạt động.Giáo viên cần khuyến khích trẻ tham gia tích cực vào quá trình
giáo dục một cách chủ động chứ không thụ động.Trẻ tự học là chính.Trẻ học qua

chơi và được khám phá tìm hiểu trải nghiệm bằng cách sử dụng các giác
quan.Giáo viên đóng vai trò trung gian tổ chức môi trường tạo điều kiện cho trẻ
hoạt động nhằm phát huy hứng thú nhu cầu, kinh nghiệm và mặt mạnh của từng
trẻ.
Trong quá trình tổ chức tiết kể chuyện cô luôn chú trọng việc lấy trẻ làm
trung tâm. Ở đó, cô chỉ có vai trò là người hướng dẫn, gợi ý cách trả lời theo câu
hỏi mở.phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm thú vị hơn cách dạy truyền
thống bởi ở đó mọi đứa trẻ được chủ động, sáng tạo, tích cực hoạt động để tự
chiếm lĩnh tri thức mới.
Giáo viên phải nắm được nhu cầu, hứng thú, khả năng của từng trẻ để có
cách giảng dạy phù hợp.Và cũng chính sự khác nhau đó, đòi hỏi giáo viên mầm
non là phải tạo cho trẻ có nhiều cơ hội để học thông qua môi trường cho trẻ học
tập.Môi trường ở đây không chỉ dừng lại ở trong lớp học mà tận dụng tất cả
không gian trong và ngoài lớp học nhằm tạo điều kiện cho trẻ được học, được
trải nghiệm, được khám phá mọi lúc, mọi nơi.
Với phương châm “lấy trẻ làm trung tâm”, những năm qua Trường mầm
non Hà Sơn đã tạo cơ hội cho trẻ học bằng nhiều cách khác nhau để trẻ chủ
động tham gia các hoạt động vui chơi, khám phá, trải nghiệm theo phương châm
“học mà chơi, chơi mà học”.
Ví dụ: Đối với trẻ cuối cấp, các cô sẽ cho trẻ nhận biết trường Tiểu học
thông qua việc đi thực tế để gợi mở, giúp trẻ hiểu rõ hơn môi trường mình sắp
học. Việc được tự khám phá phòng học và tận mắt nhìn các trang thiết bị trong
trường khiến trẻ vô cùng hào hứng.
Bằng phương pháp “lấy trẻ làm trung tâm” trẻ sẽ tích cực, chủ động tham
gia các hoạt động, làm việc theo nhóm để được trải nghiệm, trao đổi, chia sẻ và
trình bày ý kiến của mình, biết suy nghĩ và vận dụng những điều đã học vào
thực tế cuộc sống, giải quyết các tình huống mà trẻ gặp phải… Từ đó, trẻ mạnh
dạn, tự tin, tích cực, chủ động, tư duy, sáng tạo, thích thú tìm tòi, khám phá
trong quá trình tham gia các hoạt động giáo dục ở trường, ở lớp.
 

Giải pháp 3: Đọc kể diễn cảm các tác phẩm văn học.
Đọc kể diễn cảm cho trẻ nghe là một trong những cách tốt nhất để kích
thích trẻ phát triển ngôn ngữ trí tưởng và cách sáng tạo ở trẻ. Trẻ mẫu giáo
thường luôn thích tìm tòi khám phá thế giới xung quanh bằng đôi mắt ngạc
nhiên, thích thú qua các tác phẩm văn học để giúp trẻ đến cảm thụ các tác phẩm
văn học đạt hiệu quả và làm thỏa mãn nhu cầu ham hiểu biết thì người đọc kể
tác phẩm cần phải thể hiện giọng điệu một cách mượt mà, truyền cảm có khi du
dương, ướt át nhưng có khi cao giọng, chua cay phù hợp với tính cách từng nhân
vật hoặc giọng điệu từng tác phẩm. Tùy cách sử dụng giọng đọc, lời kể kết hợp
với cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp để truyền đạt nội dung, chủ đề của tác phẩm
đến với trẻ để tạo ra những rung cảm, xúc cảm, giúp trẻ làm quen với văn học,
8


một thứ ngôn ngữ thật chau chuốt, giàu hình ảnh. Muốn nội dung của tác phẩm
đến với trẻ làm rung động lòng trẻ, gây hứng thú nghe hiểu thì cô giáo phải là
người tìm ra thủ thuật đọc kể diễn cảm. Trước tiên cần phải xác định loại tác
phẩm văn học thơ hay truyện, từ đó tìm hiểu nội dung truyện thơ, luyện giọng
điệu biến giọng điệu của mình thành giọng điệu của tác phẩm và kết hợp với cử
chỉ điệu bộ nét mặt. Chính giọng điệu, cử chỉ, nét mặt đây là phương tiện hỗ trợ
cho lời kể, giọng đọc thêm sinh động, hấp dẫn.Phương pháp đọc kể diễn cảm cô
cần tách biệt giữa đọc và kể ở hoạt động có chủ đích.
* Đọc thơ cho trẻ cần phải chú ý đến kỹ thuật thể hiện cách ngắt giọng,
ngắt nhịp, đọc nhanh, đọc chậm hay còn gọi là ngữ điệu giọng và một số yếu tố
biểu cảm khác.
Thông qua giọng đọc diễn cảm sẽ nâng cao năng lực cảm thụ thơ cho trẻ,
trẻ làm quen với nhịp điệu và ngôn ngữ hình ảnh trong thơ biết liên kết với hình
ảnh cuộc sống đem đến cho trẻ nhiều cảm xúc lành mạnh mang đến những tình
cảm cao đẹp.
Ví dụ: Khi cô đọc bài: “Em yêu nhà em”

Cô đọc nhẹ nhàng êm dịu thể hiện tình cảm trìu mến, chú ý ngắt giọng
trong các câu thơ:
Cục ta/cục tác/khi vừa đẻ xong
Có ông ngô bắp/râu hồng như tơ
Có ao muống/ với cá cờ
Ếch con học nhạc/dế mèn ngâm thơ
Để tiến hành một giờ dạy thơ cô cần chuẩn bị kỹ lưỡng về nội dung, tư
tưởng chủ đạo nghệ thuật trong bài thơ, xác định giọng điệu âm điệu, nhịp điệu
của bài thơ, khi đọc thơ cho trẻ nghe cô cần phải làm sáng tỏ tư tưởng của tác
phẩm, thể hiện được cảm xúc của tác phẩm và sự hiểu biết của bản thân đối với
tác phẩm. Thơ có đặc điểm riêng, ngôn ngữ làm thơ hàm súc âm hưởng, vẻ đẹp
của bài thơ không chỉ do nhạc điệu, nhịp điệu mà còn do vần điệu nối các câu
thơ thành một bài thơ. Vì vậy cần trau dồi kỹ thuật đọc thơ thì mới có thể trình
bày tác phẩm thơ một cách diễn cảm.Một điều không thể thiếu được trong cách
đọc thơ diễn cảm đó là sự kết hợp giữa giọng đọc và cử chỉ điệu bộ, giúp trẻ tiếp
nhận tác phẩm một cách dễ dàng hơn.
* Kể chuyện:
Để kể một câu chuyện một cách diễn cảm cho trẻ nghe không như cách
đọc một câu chuyện bình thường chỉ dùng giọng điệu của mình thành giọng điệu
của tác phẩm mà trẻ nghe, cảm nhận như có sự kiện hiện hữu của các nhân vật
trong truyện biến nhân vật trong truyện thành hình ảnh sống động có cá tính.
Ví dụ: Truyện“ Tích chu” đoạn đầu kể chậm rãi chú ý nhấn vào chi tiết “
Có thứ gì ngon bà cũng nhường Tích Chu, ban đêm Tích Chu ngủ, bà thức
để quạt cho Tích chu” và câu so sánh “Lòng bà thương Tích Chu cao hơn
trời, rộng hơn biển”.
Rồi giọng nói của bà chậm rãi, mệt mỏi hơn, nhỏ hơn bình thường thể
hiện ở câu “ Tích chu ơi…khô cả cổ rồi”.
Giọng của Tích Chu kêu lên hốt hoảng lo sợ, cường độ giọng hơi to hơn
và nhịp độ giọng cũng nhanh hơn bình thường ở câu Tích Chu gọi bà “ Bà ơi bà
9



trở lại thành người với cháu đi…bà uống” khi kể hơi kết hợp với ánh mắt cử
chỉ hốt hoảng lo sợ bộc lộ lên vẻ mặt của cô giáo.
Giọng Tích Chu tha thiết
Giọng bà chậm rãi và hơi nhỏ hơn
Giọng bà tiên từ từ nhẹ nhàng…
Kể chú ý vào chi tiết Tích Chu lặn lội lên đường để lấy nước suối tiên cho
bà uống và câu “Từ đây Tích Chu hết lòng yêu thương chăm sóc bà”
Qua thực hiện phương pháp này tôi thấy đọc kể là một vấn đề rất quan
trọng, qua đọc kể giúp trẻ dễ dàng hiểu được nội dung tác phẩm, tập trung chú ý,
xuất hiện sự hồi hộp lo lắng chờ đợi được thể hiện trên trẻ.
Chính vì thế mà tôi thường xuyên chú ý tới việc luyện tập giọng đọc, kể
cho mình.
Trước hết tôi xác định giọng đoc, kể, phối hợp ánh mắt cử chỉ điệu bộ
minh họa tự nhiên thoải mái, đơn giản, hấp dẫn phù hợp với nội dung.
Tôi cho đây là một vấn đề quan trọng đòi hỏi giáo viên chú ý rèn luyện về
khả năng này bằng cách:
Nghe băng đĩa truyện thơ dành cho trẻ Mầm non.
Học hỏi qua các giáo viên dạy giỏi môn làm quen văn học.
Dự giờ dạy mẫu các trường mầm non có chất lượng.
Chú ý lắng nghe ý kiến góp ý xây dựng, tiết dạy cần ghi chép những điều
tâm đắc để học hỏi đúc rút kinh nghiệm cho bản thân.
Kiên trì chịu khó tự học, tự bồi dưỡng tập đọc, tập kể nhiều lần, để bộc lộ được
cảm xúc, phản ánh đúng nội dung tác phẩm.
Giải pháp 4: Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học qua ứng dụng
công nghệ thông tin.
Hiện nay Công nghệ thông tin được ứng dụng ngày càng nhiều trong giáo
dục mầm non. Với Công nghệ thông tin chúng ta có thể sử sụng các phần mềm
có sẵn hoặc sử dụng chương trình Powerpoint để soạn các hoạt động cho trẻ

chơi và học. Đây là một biện pháp không những mang lại hiệu quả cao, gây
được hứng thú cho trẻ mà còn có những tiện ích như sau:
Đáp ứng được nhu cầu thích được làm quen với máy vi tính của trẻ.
Bài dạy có hình ảnh, màu sắc, âm thanh vui tươi sinh động.
Có thể thực hiện nhiều lần, không ngại tốn nguyên vật liệu.
Nhiều sự vật, hiện tượng khó quan sát được trong tự nhiên thì dễ dàng tìm
hiểu được qua phần mềm máy tính .
Với những hình ảnh động làm cho bài dạy sinh động và tăng sự hứng thú
học tập cho trẻ .
Đưa Công nghệ thông tin vào việc dạy và học cho trẻ sẽ giúp cho giáo
viên giải quyết được những khó khăn về giáo cụ trực quan, phát triển được nhiều
hình thức luyện tập, tích hợp các hoạt động thuận lợi hơn. Trẻ có nhiều trò chơi
linh hoạt, giờ học, giờ chơi sinh động phong phú và dễ tiếp thu hơn.
Nắm được tầm quan trọng của Công nghệ thông tin trong việc dạy học
cho trẻ, bản thân tôi lại suy nghĩ và nhận thấy bên cạnh việc phải lựa chọn
những hình ảnh âm thanh, bài hát thật gây ấn tượng, bắt mắt với trẻ và phù hợp
với chủ đề giảng dạy thì việc sử dụng Công nghệ thông tin cho linh hoạt, phù
10


hợp với từng hoạt động để thu hút sự chú ý của trẻ cũng là điều mà mỗi giáo
viên cần phải tìm tòi và học tập thêm. Giải quyết được những vấn trên là chúng
ta sẽ đạt được mục tiêu chung của ngành học đó là lấy trẻ làm trung tâm, trẻ
được trực tiếp tham gia vào các hoạt động một cách chủ động, tích cực, sáng tạo,
trẻ tự học là chính, học qua chơi, qua khám phá, qua tìm hiểu, qua trải nghiệm
bằng cách sử dụng các giác quan và khám phá, nhờ vậy mà trẻ có thêm vốn hiểu
biết.
Để thu hút sự chú ý, gây hứng thú của trẻ tôi đã sử dụng công nghệ thông
tin vào một số bài dạy cụ thể sau :
Ví dụ : Với tiết kể truyện : “ Quả bầu tiên ”, Chủ đề : Thế giới thực vật

Với bài dạy này tôi đã sử dụng phần mềm PoWerPoint để soạn giáo án
điện tử xuyên suốt cả tiết dạy .
Để làm được giáo án điện tử trước hết tôi cần phải chuẩn bị đầy đủ những
học liệu cần thiết như :
+ Tìm những cây hoa ,cây cảnh, cây lấy gỗ, cây ăn quả ở ngoài thật và trên
mạng theo chủ đề và bài hát về chủ đề đó là bài “ Vườn cây nhà bé ” để quay
video làm thành phim đưa vào vi tính
+ Quyển tranh truyện
+ Băng đĩa kịch bản câu chuyện
+ Nhạc bài hát : “ Bầu và Bí ”
+ Vẽ hình ảnh con chim én
Tất cả những hình ảnh trên đều được quay video, chụp ảnh đưa vào máy
theo trình tự một tiết dạy
Trước khi vào tiết dạy cô còn chuẩn bị máy tính xách tay đã cài đặt phần mềm
PoWerPoint, máy chiếu,phông chiếu là những đồ dùng cần thiết khi giảng dạy .
Vào giờ học để thu hút sự chú ý của trẻ tôi gọi trẻ đến bên cô và hỏi :
- Các con thấy thời tiết hôm nay như thế nào ?
- Với thời tiết đẹp thế này các con có dự định đi đâu ?( trẻ nêu ý định)
-Bây giờ cô có một đề nghị , cô con mình sẽ cùng đi chơi, cô sẽ đưa chúng mình
đến thăm “ Vườn cây nhà be” cô – các con cùng khám phá những điều thú vị
trong khu vườn nhé!.
Sau đó tôi sẽ cho trẻ nhẹ nhàng ngồi trước máy vi tính xem hình ảnh về
các loại cây trên máy chiếu và trò chuyện cùng cô. Tiếp đó trẻ cùng cô đàm
thoại nội dung câu truyện và lắng nghe cô kể câu chuyện kết hợp với băng đĩa.
Với việc sử dụng công nghệ thông tin vào tiết dạy, trẻ đặc biệt có hứng
thú, trước khi vào bài học, khi nhìn thấy trong lớp có máy vi tính, có máy chiếu,
tất cả trẻ đều ngạc nhiên đến sửng sốt, đến khi vào tiết học khi được xem trực
tiếp các hình ảnh động âm thanh, bài hát trên màn hình trẻ vô cùng thích thú
.Tiết học trôi qua một cách nhẹ nhàng đầy lôi cuốn trẻ từ đầu đến cuối.
Với bài dạy này trẻ được quan sát kỹ các hình ảnh các loại cây một cách

sống động và trung thực, trẻ được quan sát kỹ nội dung quyển tranh truyện trên
máy chiếu thay vì quyển tranh truyện bé ở ngoài . Trẻ được xem và khắc sâu
tính cách nhân vật cậu bé hiền lành tốt bụng, lão địa chủ tham lam độc ác qua cử
chỉ, nét mặt của từng nhân vật, qua đó trẻ tập trung cao độ vào tiết học, hăng hái
phát biểu xây dựng bài, giờ học sôi nổi.
11


Ví dụ: Với tiết truyện “Chú Dê đen”. Chủ đề : Thế giới động vật
Với bài dạy này tôi chuẩn bị :
Hình ảnh một số động vật sống trong rừng như hổ, voi, sư tử…
Bài hát : vào rừng xanh
Băng đĩa kịch bản với câu chuyện .
Mở đầu bài dạy tôi cho trẻ đến bên cô cùng trò chuyện, sau đó cho trẻ đến thăm
sở thú qua việc xem hình ảnh những con vật trên máy chiếu và đàm thoại cùng
trẻ .
- Có những con vật gì ?
- Chúng đang làm gì ?
- Những con vật này sống ở đâu ?
Sau đó kể chuyện cho các cháu nghe .
Bài dạy : “Chú Dê đen” là một bài khó, bởi vì đây là bài thuộc chủ đề thế
giới động vật – những con vật sống trong rừng nên việc tìm được những con vật
sống trong rừng để giới thiệu với trẻ là rất khó. Thay vì trước đây tôi chỉ có thể
sử dụng tranh ảnh hoặc những con vật bằng rối rẹt để giới thiệu với trẻ nên bài
dạy không có tính thuyết phục, trẻ không hứng thú.Thì nay với công nghệ thông
tin tôi có thể dễ dàng tìm được hình ảnh những con vật sống trong rừng ở trên
mạng thật dễ dàng.
( Hình ảnh câu chuyện Chú dê đen)
Từ việc tìm được hình ảnh đó trẻ rất hứng thú khi được quan sát những
bước đi, tư thế, đang rình mồi, tiếng kêu các con vật. Chính điều đó kích thích

sự hứng thú trẻ vào tiết học, trẻ nào cũng chăm chú theo dõi. Qua tiết học trẻ
không chỉ được làm quen với thế giới động vật phong phú, mà còn được học chữ
viết, được phát triển ngôn ngữ tích cực, trẻ đựơc học một cách thoải mái, nhẹ
nhàng, vui chơi là chính, nhưng trong chơi có học. Giờ học đạt kết quả cao.
Để dạy trẻ học tốt môn văn học giáo viên phải là người nhiệt tình, chịu
khó học hỏi, học bồi dưỡng thường xuyên… đặc biệt là dạy học áp dụng công
nghệ thông tin vào bài dạy giúp trẻ mở mang nhiều kiến thức mà thực tế trẻ chưa
được học, chưa được thấy.
Giải pháp 5: Phát huy tính tích cực chủ động của trẻ.
Để phát huy tính tích cực, chủ động trong việc cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học, Tôi phải thường xuyên tạo điều kiện để trẻ được là chủ thể tích
cực trong các hoạt động nhận thức bằng việc tạo điều kiện cho mọi trẻ đều được
tham gia trực tiếp hoạt động với đồ vật, được phát huy hết khả năng của mình
trong các hoạt động, giúp trẻ có điều kiện nhận xét, so sánh đối chiếu trẻ được
kiểm tra, đánh giá kết quả họat động của mình và của bạn. Từ đó trẻ biết diễn
đạt những điều lĩnh hội được qua các hoạt động.
Đặc biệt giáo viên phải biết tạo ra những tình huống có vấn đề nhằm kích
thích, gây hứng thú lôi cuốn trẻ tham gia vào các hoạt động để giải quyết vấn đề
một cách độc lập, chủ động.
Ví dụ: Khi dạy trẻ học truyện “Những giọt nước bé xíu”. Để giáo dục trẻ
có ý thức và biết cách tiết kiệm năng lượng thì giáo viên phải tạo ra những tình
12


huống: Những giọt nước bé xíu nhưng có ý nghĩa rất lớn với mọi sự sống, những
giọt nước nhỏ góp lại sẽ thành nhiều. Vì vậy, khi sử dụng nước thì phải làm sao?
Tiết kiệm bằng cách nào?Bằng cách không dùng nước có được không?Vậy thì
phải như thế nào? Con đã làm được gì để tiết kiệm nước? Cho trẻ cùng làm một
thử nghiệm: “Cô mở một vòi nước nhưng vặn không hết vẫn còn chảy nhỏ giọt,
cô hứng một chiếc cốc thủy tinh cho trẻ quan sát thấy sau một thời gian những

giọt nước nhỏ này đã thành một cốc nước, nếu để lâu hơn nữa thành chậu,
thành xô nước...như vậy rất tốn nước, mà tốn nước thì tốn cả điện nữa vì khi
bơm nước lại dùng đến điện”. Nước có ích lợi như thế nào? Cho trẻ làm thử
nghiệm nhỏ: hai lọ hoa một lọ hoa có nước và một lọ hoa không có nước, sau
một ngày điều gì sẽ xảy ra với mỗi lọ hoa. Cho trẻ quan sát và nhận xét để từ đó
trẻ tự rút ta kết luận (cô bổ sung vào kết luận của trẻ để trẻ hiểu rõ hơn về sự cần
thiết của nước).
Ngoài ra, sau mỗi bài học, mỗi chủ đề cần thực hiện thường xuyên và có
hiệu quả việc đánh giá cuối ngày và đánh giá chủ đề, tránh kiểu làm hình thức,
chiếu lệ, phải thật sự đi vào chất lượng, trú trọng quan tâm ghi chép đầy đủ,
thường xuyên những thông tin về tình hình hoạt động của cô và của trẻ; những
điểm đã làm tốt, những tình huống, vấn đề nảy sinh chưa giải quyết tốt để có
biện pháp bổ sung kịp thời, phát huy tính tích cực, chủ động giúp trẻ bình tĩnh,
tự tin ham hiểu biết, thích khám phá, tìm hiểu, sáng tạo hơn. Giáo viên thì tích
luỹ thêm vốn kinh nghiệm sẽ linh hoạt, sáng tạo hơn trong giảng dạy. Bên cạnh
đó còn tránh được sự nhồi nhét, áp đặt kiến thức một cách dập khuôn, máy móc,
cứng nhắc, bó buộc vào một khuôn mẫu, hay một mô tuýp nào đó, tránh sự lặp
lại, nhàm chán, sự đồng loạt không thể hiện hết cá tính độc đáo, sáng tạo của trẻ.
Để làm tốt việc này giáo viên cần phải luôn biết làm mới mình bằng cách sáng
tạo, linh hoạt lựa chọn các hình thức mới lạ, hấp dẫn, bất ngờ, phương pháp tổ
chức thiết kế hoạt động cho trẻ một cách khéo léo, nhịp nhàng, lô gíc, mềm dẻo;
biết lựa chọn, đưa ra những câu hỏi, hệ thống câu hỏi phù hợp với đặc điểm
nhận thức của trẻ. Phải tôn trọng tính sáng tạo và những kinh nghiệm của trẻ, tạo
cơ hội cho trẻ trải nghiệm và cảm nhận. Như vậy mới khuyến khích, động viên
trẻ độc lập, tích cực tự tin say mê, hứng thú thực hiện nhiệm vụ một cách có
hiệu quả, làm thoả mãn nhu cầu nhận thức về thế giới xung quanh của trẻ. Góp
phần vào việc hình thành kỹ năng sống cho trẻ.
Ví dụ: Cho trẻ làm quen bài thơ “Lời chào” giáo dục trẻ kĩ năng biết chào
hỏi lễ phép, đi hỏi về chào, biết xin lỗi cảm ơn đúng lúc, đúng chỗ.
Hoặc qua bài thơ “Đôi mắt”, “Cái lưỡi” giáo dục trẻ kĩ năng biết tự phục

vụ bản thân: chăm sóc, giữ gìn vệ sinh cơ thể, các bộ phận trên cơ thể, không
làm tổn thương đến các bộ phận...và cho trẻ thực hành trải nghiệm việc rửa tay,
lau mặt đúng qui cách. Bài thơ “Chùm quả ngọt” cho trẻ thực hành chăm sóc
cây, tưới cây.
Do đặc điểm, tính chất và nhận thức của mỗi trẻ khác nhau nên khi tổ
chức các hoạt động giáo viên chú ý, quan tâm thích đáng và phù hợp đến mỗi trẻ
để giúp trẻ phát triển hay khắc phục những nét cá tính cá nhân hoặc ngăn ngừa
ảnh hưởng của những tình huống bất lợi, đồng thời phát hiện được những năng
khiếu của trẻ về nghệ thuật như: Khả năng diễn xuất kể chuyện, đọc thơ, đóng
13


kịch, tạo ra các nhân vật trong truyện thơ bằng các kĩ năng tạo hình: vẽ, nặn, cắt
xếp dán, gấp từ nhiều nguyên vật liệu như len, giấy màu, họa báo, đất nặn...Cụ
thể như: Trao đổi trực tiếp với giáo viên chủ nhiệm, với tổ trưởng thực hiện tốt
việc bố trí không gian, vị trí hoạt động của trẻ hợp lý, vì đây là yếu tố ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình hoạt động, đến chất lượng tiếp thu lĩnh hội kiến thức của
trẻ. Ngoài việc quan tâm đến chất lượng mũi nhọn, nhưng cũng cần phải làm tốt
đến chất lượng đồng loạt, tăng cường hoạt động tập thể, hoạt động theo nhóm
đối với những cháu nhút nhát. Bằng cách: Cho cháu nhút nhát, dụt dè tiếp thu
chậm, ngại hoạt động ngồi gần những cháu tiếp thu nhanh, mạnh dạn, tự tin
thích hoạt động để cháu nhút nhát học cùng bạn, cháu sẽ không xấu hổ, làm
nhiều lần như vậy trẻ sẽ bớt nhút nhát hơn, thích hoạt động hơn.
Ví dụ: Khi đọc thơ, cho trẻ nhút nhát đọc cùng với một số bạn giỏi để trẻ
đọc theo bạn, và cho trẻ hoạt động nhiều hơn. Còn với những cháu tiếp thu tốt
thì giáo viên cần bồi dưỡng phát huy kiến thức cho trẻ bằng những câu hỏi ở
mức độ cao hơn như: “Vì sao? “Tại sao?” “Nếu là con, con sẽ làm gì?”, làm như
thế nào? còn cách nào khác nữa?...để kích thích khả năng tư duy, tích cực chủ
động, sáng tạo giải quyết nhiệm vụ theo nhiều cách khác nhau.
Đây là biện pháp có vai trò không nhỏ trong việc bồi dưỡng, phát triển

năng lực độc lập trong suy nghĩ và hành động của trẻ.Trong đó trẻ là nhân tố
trung tâm và giáo viên là người tạo cơ hội cho trẻ.
Giải pháp 6: Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh.
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và
nhà trường chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là biện pháp
không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quyết định trong việc tạo nguồn
nhiên liệu của góc văn học để phát triển ngôn ngữ cho trẻ,tuyên truyền đến các
bậc phụ huynh và cộng đồng hiểu được nội dung của môn văn học đối với trẻ 5
tuổi cũng là vấn đề quan trọng và cấp thiết. Đây là một việc làm rất khó khăn vì
đa số phụ huynh làm nông nghiệp nên rất ít quan tâm đến nội dung giảng dạy ở
cấp mầm non nên còn nhiều hạn chế, vì vậy tôi đã lựa chọn một số biện pháp
tuyên truyền sau :
Tuyên truyền trong buổi họp phụ huynh đầu năm. Trước khi họp tôi chuẩn bị
chu đáo về nội dung sẵn có như : đĩa truyện, thơ, ti vi, đầu đĩa, máy vi tính, và
các đồ dùng thủ công khác để tuyên truyền môn làm quen văn học. Khi trao đổi
tôi giải thích cho phụ huynh hiểu ý nghĩa của văn học đối với sự phát triển của
trẻ, tác động của công nghệ thông tin để trẻ làm quen với văn học.
Xây dựng góc tuyên truyền có nội dung và hình thức phong phú để ở
những nơi dễ nhìn, để phụ huynh xem vào giờ đón trả trẻ .
Trò chuyện, trao đổi với các bậc phụ huynh, thông qua giờ đón trả trẻ
hàng ngày để họ nắm bắt được tình hình sức khỏe và khả năng nhận thức của trẻ
Phối hợp với phụ huynh động viên trẻ mang các loại đồ dùng, vật liệu cũ
của gia đình đến để làm đồ dùng đồ chơi. Cuối tháng, cuối chủ đề trẻ nào mang
được nhiều nguyên vật liệu, phế liệu được tặng quà.
( Hình ảnh phụ huynh mang phế liệu)
14


Tuyên truyền phụ huynh hiểu về bậc học hơn để họ có những thiện chí
ủng hộ con em: Giáo viên phô tô kế hoạch tuần, bài thơ, câu truyện, câu đố...có

nội dung liên quan đến chủ đề, đến bài học để phụ huynh nắm bắt được nội dung
các môn học để họ có phương pháp dạy trẻ tại nhà.
Ví dụ: chủ đề “Gia đình” vận động phụ huynh mang tranh ảnh về người
thân trong gia đình, kể chuyện về gia đình cho trẻ hiểu, giáo viên phô tô một số
bài thơ về gia đình cho các nhóm lớp, để phụ huynh theo dõi và sửa sai cho trẻ
đọc đúng trình tự bài thơ, đúng lời bài thơ. Vì có những trẻ nói ngọng, đọc nhảy
cóc nếu không có bài thơ phô tô đó phụ huynh cứ tưởng là con mình đọc đúng,
nhưng khi có bài thơ thì phụ huynh sẽ “học” cùng trẻ đối chiếu và biết được trẻ
đọc đúng hay không.
Giáo viên làm tốt việc xã hội hóa, thắt chặt mối quan hệ giữa giáo viên phụ huynh, thông tin hai chiều kịp thời để phụ huynh hiểu và có biện pháp nuôi
dạy trẻ thống nhất với giáo viên.
Sau mỗi chủ đề giáo viên và học sinh làm đồ dùng đồ chơi, trang trí nhóm
lớp nhằm khuyến khích trẻ tìm tòi, khám phá phục vụ cho hoạt động học tập
Qua việc phối kết hợp với phụ huynh học sinh trong công tác chăm sóc và
giáo dục trẻ, cho thấy nhận thức của trẻ về mọi mặt được nâng lên rõ rệt đặc biệt
là môn làm quen tác phẩm văn học.
2.4. Hiệu quả:
Sau khi nghiên cứu và thực hiện áp dụng các giải pháp lớp 5 - 6 tuổi đã
có hiệu quả mong đợi tốt hơn cụ thể như:
Tổng số
Số
trẻ được
Số
trẻ
ST khảo sát
Nội dung khảo sát
trẻ
% chưa %
T
Đạt

Đạt
1
Khả năng hứng thú nghe các
25
100
0
0
tác phẩm văn học
25
2
Khả năng trả lời câu hỏi đàm
24
96
1
4
thoại
3
Khả năng cảm thụ tác phẩm
25
100
0
0
văn học
4
Khả năng đọc kể diễn cảm tác
22
88
3
12
phẩm văn học

Với kết quả trên cho thấy sự nỗ lực và cố gắng của bản thân trong việc đổi
mới phương pháp dạy học đã có nhiều kết quả đáng kể, việc tạo môi trường, làm
đồ dùng dạy học, không thể thiếu được trong việc dạy trẻ, nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học đạt hiệu quả cao.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Qua quá trình áp dụng những giải pháp của mình vào việc tổ chức hoạt
động cho trẻ 5 – 6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học tại trường mầm non đã
mang lại hiệu quả giáo dục tốt. Các hoạt động trẻ luôn là trung tâm, cô giáo
hướng lái đưa trẻ vào hoạt động, tạo nhiều cơ hội để trẻ được thể hiện mình,
kích thích trẻ bộc lộ khả năng tiềm ẩn, nói lên được những hiểu biết của mình.
15


Thực tế hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học đạt hiệu quả đã kích
thích các thao tác tư duy: Khả năng quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, phát
triển ngôn ngữ, diễn đạt mạch lạc, ở trẻ thể hiện rõ nét hơn. Góp phần vào việc
hình thành và phát triển nhân cách trẻ một cách toàn diện.
Muốn nâng cao hiệu quả cho trẻ 5 - 6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học
thì người giáo viên luôn phải trau dồi kiến thức, luôn tìm tòi sáng tạo, rèn luyện
giọng đọc, giọng kể, các thủ thuật, nghệ thuật, các phát âm của mình, tự sửa
sang cho mình về ngôn ngữ và tìm hiểu sâu hơn về cách phát âm, ý nghĩa của từ.
Là giáo viên Mầm non phải có tâm hồn cao đẹp trái tim nhân hậu, yêu nghề mến
trẻ, hiểu được tâm lý trẻ và khả năng nhận biết của trẻ từ đó để có biện pháp
giáo dục phù hợp với từng cá nhân trẻ.
Giáo viên phải tranh thủ thời gian phối hợp chặt chẽ với gia đình để tạo
điều kiện cho trẻ tham gia vào các hoạt động ở trường mầm non nói chung và
hoạt động làm quen với tác phẩm văn học nói riêng.
Cô giáo và phụ huynh là chiếc cầu nối giúp trẻ hoạt động tích cực. Mời
các bậc phụ huynh tham gia vào các phong trào của lớp để họ thấy được tầm

quan trọng của việc chăm sóc giáo giục trẻ ở trường mầm non.Từ đó chúng ta
thuận lợi trong việc vận động phụ huynh tham gia cùng nhà trường trong các
hoạt động.
Tôi đề ra một số biện pháp tốt để hướng dẫn cho trẻ.
- Chuẩn bị bài soạn đầy đủ rõ ràng, chi tiết khoa học.
- Lựa chọn các nội dung lồng ghép tích hợp phù hợp.
- Dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi để đạt những yêu cầu đề ra.
- Câu hỏi đưa ra phải hệ thống ngắn gọn, lô gich.
- Thường xuyên ôn luyện các bài thơ, câu chuyện đã học và sắp học.
Tích cực học hỏi đồng nghiệp, tìm tòi UDCNTT vào dạy học để phát huy
khả năng sáng tạo của mình trong công tác phục vụ tiết dạy.Tham gia đầy đủ các
hoạt động thực hành về chuyên đề văn học .
Tích cực làm đồ dùng, đồ chơi, tổ chức cho trẻ được thực hành, trải
nghiệm qua các đồ dùng, đồ chơi mang tính sáng tạo, luôn cải biên tạo ra sự mới
lạ hấp dẫn, gây sự chú ý của trẻ sẽ tạo giúp trẻ nhớ lâu về tác phẩm. Cô cùng trẻ
tự tay làm ra các sản phẩm để trẻ được tự kể chuyện, tự chơi với những đồ dùng
đồ chơi do mình làm ra.
Thường xuyên trò chuyện, khơi gợi, khuyến khích trẻ nói ra những ý
nghĩa của trẻ qua nội dung truyện giúp trẻ luyện cách trình bày, diễn đạt ý…Tạo
môi trường hoạt động ngôn ngữ phong phú phù hợp. Tích cực ứng dụng công
nghệ thông tin vào giảng dạy. Sử dụng đồ dùng dạy học khéo léo đúng lúc, đúng
chỗ.
Có thể nói rằng giáo viên mầm non vừa là cô giáo, là người mẹ, người
thầy thuốc, người nghệ sĩ rất tài năng đồng thời là người đặt nền móng đầu tiên
trong việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Mỗi giáo viên vừa mới ra
trường hay đã có nhiều năm kinh nghiệm phải thường xuyên trưởng thành, tự
rèn luyện bản thân và hoàn thiện nghề nghiệp bằng cách luôn có ý trí cao, tinh
thần trách nhiệm lớn và biết phối hợp với gia đình, nhà trường, xã hội chăm sóc
giáo dục trẻ, luôn là tấm gương sáng cho trẻ học tập và noi theo, chỉ có lao động
16



cần cù, bền bỉ, kiên trì, chịu khó tìm tòi sáng tạo, biết chắt lọc kinh nghiệm của
bản thân và đồng nghiệp thì mới thấy hạnh phúc nghề nghiệp.
3.2. Kiến nghị:
- Đối với phòng giáo dục:
Cần cung cấp tài liệu tập san,xuất bản tranh chuyện, thơ phù hợp đầy đủ
hơn ở các chủ đề.
Tổ chức bồi dưỡng thường xuyên cho các giáo viên mầm non được tiếp
thu các chuyên đề để giúp giáo viên nắm bắt, tiếp cận những vấn đề đổi mới.
Thường xuyên tổ chức các hội thi giáo viên giỏi để giáo viên có điều kiện
phát huy khả năng của mình, giáo viên có cơ hội trao đổi, rút kinh nghiệm và
tìm ra phương pháp dạy tốt.
Hằng năm mở chuyên đề nói chung và chuyên đề văn học nói riêng để
cho cán bộ giáo viên tham gia học tập, bồi dưỡng cập nhật những cái mới vào
công tác giảng dạy.
- Đối với nhà trường:
Hàng năm mua sắm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho môn văn học như: thơ
chữ to, tranh chữ to, trang phục phục vụ đóng kịch. Tạo môi trường mô hình,
trang trí như vườn cổ tích, để hoạt động làm quen với văn học ngày càng tốt
hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm trên tuy còn nhỏ bé nhưng đó là sự cố
gắng tìm tòi, học hỏi và nghiên cứu của bản thân, một mặt đã tạo cho bản thân
cảm thấy yêu thích, tự tin trong soạn giảng cũng như các giờ cho trẻ làm quen
với tác phẩm văn học, mặt khác đem đến cho trẻ không ít hứng thú trong giờ học
và đã đạt được một số kết quả nhất định trong các giờ dạy.
Kính mong sự góp ý và xét duyệt của Hội đồng khoa học để bản thân có
thêm được nhiều kinh nghiệm hơn trong giảng dạy làm quen văn học.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Hà Sơn, ngày 10 tháng 3 năm 2019
Tôi xin cam kết SKKN này do tôi đúc
rút từ kinh nghiệm thực tế trong công
tác giảng dạy.
CAM KẾT KHÔNG COPPY

Đặng Thị Hà

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tâm lý học trẻ mầm non.
2. Tạp chí , tập san Giáo dục mầm non.
3. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non chu kỳ II, III
4. Báo, tivi, Mạng Internet

18


`
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đặng Thị Hà
Chức vụ và đơn vị công tác: Mầm non Hà Sơn,

TT
1.

2.
3.
4.
5.

Tên đề tài SKKN

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
Phòng GD
B

Năm học
đánh giá xếp
loại

Một số biện pháp nâng cao
2008 - 2009
chất lượng cho trẻ 3- 4 tuổi
làm quen với Văn học
Một số biện pháp nâng cao
Phòng GD
B

2010 - 2011
chất lượng môn Âm nhạc
cho trẻ 3- 4 tuổi
Một số biện pháp nâng cao
Phòng GD
C
2012 -2013
chất lượng cho trẻ 3- 4 tuổi
làm quen với Văn học
Một số biện pháp nâng cao
Phòng GD
C
2014 - 2015
chất lượng môn Hoạt động
góc cho trẻ 5 - 6 tuổi
Một số biện pháp giúp trẻ học Phòng GD
B
2016 - 2017
tốt môn văn học
* Liệt kê tên đề tài theo thứ tự năm học, kể từ khi tác giả được tuyển dụng vào
Ngành cho đến thời điểm hiện tại.
----------------------------------------------------

19



×