Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập tại mầm non nga giáp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC TRẺ KHUYẾT TẬT HÒA NHẬP
TẠI TRƯỜNG MẦM NON NGA GIÁP

Người thực hiện: Vũ Thị Từ
Chức vụ : P. Hiệu trưởng
Đơn vị công tác : Trường Mầm non Nga Giáp
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý

THANH HÓA NĂM 2019


MỤC LỤC
Tên đề mục
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1: Xây dựng kế hoạch chỉ đạo thực hiện giáo dục trẻ


khuyết tật hòa nhập một cách khoa học, chặt chẽ, làm tốt
công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về giáo dục trẻ
khuyết tật tới toàn bộ giáo viên trong nhà trường.
2.3.2: Tạo môi trường giáo dục thuận lợi, thân thiện cho
trẻ khuyết tật hòa nhập.
2.3.3: Hướng dẫn giáo viên, trẻ làm đồ dùng, đồ chơi
trong lớp và sưu tầm đồ dùng đồ chơi riêng dành cho trẻ
khuyết tật.
2.3.4: Hướng dẫn giáo viên tổ chức tốt các hoạt động giáo
dục cho trẻ khuyết tật hòa nhập.
2.3.5. Theo dõi, đánh giá sự tiến bộ của trẻ khuyết tật:
2.3.6. Làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với cha mẹ
trẻ và cộng đồng tham gia giáo dục phát triển vận động
cho trẻ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt
động giáo dục, bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị
3.1.Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
2
2
3- 4
5

5- 7

8
9 - 12
13- 15
16
17
18
19
19
20

2


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết: Thực trạng người khuyết tật Việt Nam nói chung
và thực trạng trẻ khuyết tật ở Huyện Nga Sơn nói riêng vẫn còn gặp nhiều khó
khăn trong cuộc sống về vật chất và tinh thần. Bởi vì phần lớn người khuyết tật
và trẻ em khuyết tật ở Việt Nam thuộc đối tượng hộ nghèo, gia đình chính sách,
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Do đó việc chăm sóc sức khỏe, học tập, tham
gia các hoạt động xã hội của trẻ khuyết tật đều bị hạn chế nên trẻ khuyết tật có
nguy cơ bị bạo hành, lạm dụng rất cao.
Theo trang web: thống kê: “Tính đến tháng 6/2015,
Việt Nam có khoảng 7 triệu người khuyết tật, chiếm 7,8% dân số, người khuyết
tật đặc biệt nặng và nặng chiếm khoảng 28,9%, khoảng 58% người khuyết tật là
nữ, 10,2% người khuyết tật là người cao tuổi, khoảng 10% người khuyết tật
thuộc hộ nghèo. Tỉ lệ người khuyết tật nữ (16,58%) cao hơn nam (13,69%) và
có 28,3% người khuyết tật là trẻ em” [1].

Thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật, Chính phủ Việt Nam đã quy định chi
tiết chính sách trợ giúp xã hội đối với người tàn tật nặng không có nguồn thu
nhập và không nơi nương tựa, người mắc bệnh tâm thần mãn tính, hộ gia đình
có từ hai người tàn tật nặng không có khả năng tự phục vụ.
Việc khiếm khuyết đi một phần về thể chất không làm mất đi giá trị cũng
như năng lực của người khuyết tật nhưng do những rào cản vô hình như sự phân
biệt đối xử từ cộng đồng cũng như bản thân sự mặc cảm của nhiều người khuyết
tật, việc hoà nhập cộng đồng của nhiều người khuyết tật gặp khó khăn.
Trẻ em là tương lai của đất nước, bảo vệ trẻ em nói chung và trẻ em khuyết
tật nói riêng là mục tiêu lớn của Chính phủ và xã hội. Trẻ khuyết tật chịu rất
nhiều thiệt thòi so với các trẻ bình thường nên cần được quan tâm đặc biệt. Trẻ
khuyết tật luôn có tâm lý sợ sệt, mặc cảm, e dè nên cần nhận được sự trợ giúp,
cần có các chính sách dành cho trẻ khuyết tật nhiều hơn nữa để trẻ có thể tự tin
hòa nhập cộng đồng.
Nhiều trẻ em khuyết tật không thể đi học cũng do gia đình, cha mẹ các em
và chính bản thân các em sợ bị bạn bè trêu chọc. Nhiều người khuyết tật không
dám đến các nơi công cộng vì sợ bị nhiều ánh mắt để ý khiến họ cảm thấy tự ti.
Ngay tại các doanh nghiệp, người khuyết tật tưởng như được nhiều ưu đãi
nhưng thực chất họ lại gặp nhiều khó khăn không mong đợi như cơ sở vật chất,
thời gian làm, công việc làm vv…..
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giáo dục hòa nhập cho trẻ,
nhà trường cũng đã chỉ đạo thực hiện giáo dục đến các nhóm lớp có trẻ khuyết
tật hòa nhập, đến các giáo viên tuy vậy trong quá trình tiếp nhận học sinh, nhiều
giáo viên giáo viên còn e ngại không dám nhận hoặc có muốn nhận cũng chỉ là
bắt buộc một phần do nhận thức, một phần lo lắng về kiến thức, kỹ năng,
phương pháp hoặc lúng túng trong cách dạy và chăm sóc trẻ khuyết tật...Vậy
làm thế nào để phát huy tính chủ động sáng tạo của đội ngũ giáo viên, giúp giáo
viên trong nhà trường thực hiện tốt giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập, mang lại
3



những kiến thức, sự mạnh dạn tự tin đến cho trẻ khuyết tật? Là một quản lý
được phân công nhiệm vụ phụ trách chuyên môn, trước vấn đề cấp bách đó tôi
đã đi sâu vào nghiên cứu và áp dụng:” Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng
giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập tại trường mầm non Nga Giáp”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
+ Tìm ra một số biện pháp chỉ đạo thực hiện trong giáo dục trẻ khuyết tật
hòa nhập tại trường mầm non Nga Giáp.
+ Hướng dẫn giáo viên cách xây dựng, tổ chức hoạt động, làm đồ dùng đồ
chơi… phục vụ các hoạt động cho trẻ khuyết hòa nhập.
+ Nâng cao chất lượng cho trẻ khuyết tật hòa nhập tại trường mầm non Nga
Giáp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu “Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện trong giáo dục
trẻ khuyết tật hòa nhập tại trường mầm non Nga Giáp”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp nghiên cứu lý luận: Tham khảo các tài liệu liên quan đến
vấn đề trẻ khuyết tật.
+ Phương pháp điều tra: Theo phiếu điều tra và trao đổi trực tiếp.
+ Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp kết quả điều tra.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “ Nhà
nước tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hóa và học nghề phù hợp”.
Điều 16, pháp lệnh về người tàn tật ngày 30/7/1998 quy định:” Việc học tập
của trẻ tàn tật được tổ chức, thực hiện bằng các hình thức học hòa nhập trong
các trường phổ thông, các trường chuyên biệt dành cho người tàn tật, cơ sở
nuôi dưỡng người tàn tật tại các gia đình” [2].
“Trẻ khuyết tật là trẻ bị khiềm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc

bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật, khiến cho các hoạt động
và sinh hoạt hằng ngày gặp khó khăn” [3].
Trẻ khuyết tật thường được phân thành các nhóm sau: trẻ khiếm thính, trẻ
khiếm thị, trẻ chậm phát triển trí tuệ hay trẻ khó khăn về học, trẻ khuyết tật vận
động, trẻ khó khăn về ngôn ngữ, trẻ đa tật( trẻ có hai hặc nhiều khuyết tật) và trẻ
có các dạng khuyết tật khác.
“Giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập là phương thức giáo dục chung trẻ
khuyết tật với trẻ không khuyết tật trong cơ sở giáo dục. Ở đó trẻ khuyết tật
được giáo dục trong cùng một môi trường với trẻ em không khuyết tật, hòa nhập
trẻ khuyết tật và trẻ bình thường trong cùng một lớp học” [4].
Để nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập đối với người khuyết tật, bộ
giáo dục và đạo tạo đã ban hành thông tư số 03/2018/TT-BGDĐT ngày 29 tháng

4


01 năm 2018 quy định về giáo dục hòa nhập đối với người khuyết tật. Thông tư
chỉ rõ nhiệm vụ, quyền hạn của giáo viên và người khuyết tật, qua đó có thể thấy
rằng bộ giáo dục cũng rất chú trọng, quan tâm đến đối tượng trẻ khuyết tật hòa
nhập trong các nhà trường.
Như vậy qua đây chúng ta có thể khẳng định rằng: Việc giáo dục hòa nhập
trẻ khuyết tật trong trường là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng đối
với bậc học mầm non cả nước nói chung và trường mầm non Nga Giáp nói
riêng, đây là cơ hội tốt để trẻ khuyết tật được hòa nhập với cộng đồng, không
còn bị biệt thị được tham gia học tập, vui chơi, chăm sóc, nuôi dưỡng và được
đảm bảo an toàn giống như bao trẻ em bình thường.
Để thực hiện tốt các nội dung giáo dục hòa nhập thì chúng ta phải nhận
thức được rằng: Đối với trẻ khuyết tật ở độ tuổi mầm non thì việc giáo dục trẻ
bình thường đã là một khó khăn thì đối với trẻ em khuyết tật lại càng khó khăn
hơn vì vậy đồi hỏi hỏi mỗi giáo viên phải có sự kiên trì, nhẫn nại, chịu thương,

chịu khó… có như vậy mới tạo được cho trẻ khuyết tật cảm giác an toàn, yên
tâm khi tham gia vào lớp học hòa nhập ở trường mầm non.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng dụng sáng kiến kinh nghiệm.
* Những thuận lợi:
- Là trường chuẩn Quốc gia, tổ chức nuôi bán trú 100% tại trường nên có
đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình chăm sóc- giáo dục.
- Trường có khuôn viên thoáng mát, sạch sẽ có hệ thống đồ chơi ngoài trời
đảm bảo theo quy định.
- Được Đảng ủy - UBND, các ban ngành đoàn thể xã, hội cha mẹ học sinh
rất quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho nhà trường.
- Đa số cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường đều đạt trình độ
chuẩn và trên chuẩn.
- Tỷ lệ trẻ khuyết tật ra lớp đủ 2/2 trẻ (trẻ 5 tuổi) trong đó 1 trẻ khuyết tật
vận động, và 1 trẻ đa tật theo điều tra phổ cập.
- Nhà trường có 1 giáo viên được phòng giáo dục và dào tạo Huyện Nga Sơn
cử tham gia lớp tập huấn giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật năm học 2015- 2016 do
Sở giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa mở nên ít nhiều các giáo viên trong nhà trường
cũng nắm sơ qua về kiến thức chăm sóc giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập.
* Những khó khăn:
- Số giáo viên giảng dạy trẻ khuyết tật chưa được đào tạo chuyên sâu để
giảng dạy trẻ khuyết tật và phần lớn giáo viên đều cho rằng giáo dục trẻ khuyết
tật không phải là trách nhiệm của họ mà là trách nhiệm của gia đình và các trung
tâm giáo dục chuyên biệt bởi họ không được đào tạo để dạy trẻ khuyết tật.
- Nhận thức của người lớn thay đổi kéo theo sự thay đổi trong nhận thức
của trẻ nên trẻ hay trêu chọc, xa lánh hoặc không chơi với các trẻ khuyết tật ở
nhà cũng như ở trường.
- Đồ dùng đồ chơi, đồ dùng học tập dành cho trẻ khuyết tật chưa có nên rất
hạn chế trong việc truyền thụ kiến thức, kỹ năng đến cho trẻ.

5



- Tại các lớp học chưa tạo ra được môi trường thuận lợi, kích thích sự ham
thích tham gia các hoạt động của trẻ khuyết tật.
- Do điều kiện gia đình nên cha mẹ trẻ khuyết tật mãi đến 5 tuổi mới cho
trẻ ra lớp.
* Kết quả của thực trạng: Từ những thực trạng trên, đầu năm học tôi tiến
hành khảo sát: Khả năng nhận thức, phương pháp, hình thức, cách tổ chức…
giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập của giáo viên, và khảo sát chất lượng các nội
dung giáo dục trên trẻ khuyết tật.
- Khảo sát cán bộ, giáo viên, nhân viên:
Tổng số 20 đồng chí. Trong đó: Giáo viên: 12; Cán bộ quản lý: 3; Nhân viên: 5
Có những hiểu
Tổn biết, kiến thức về
trẻ khuyết tật,
g số
các dạng nhận
Giáo
biết….
Viên
12
Tỉ lệ
%

Nắm vững cách
xây dựng kế
hoạch giáo dục
cá nhân, kế
hoạch dạy cho
trẻ khuyết tật.


Xây dựng môi
trường, làm đồ
dùng đồ chơi
cho trẻ khuyết
tật hòa nhập
hoạt động

Công tác
tuyên truyền,
Phối hợp với
phụ huynh
GD trẻ khuyết
tật hòa nhập.

Kết quả
chung

T

K

TB

Y

T

K


TB

Y

T

K

TB

Y

T

K

TB

Y

T

K

TB

Y

4


5

2

1

2

5

4

1

3

5

3

1

3

6

2

1


3

5

3

1

8.3

16.7

8.3

25 41.7

25

8.3

25

50

25

8.3

33.3


41.7 16.7

41.7 33.3

16.7 8.3

25 41.7

- Bảng khảo sát trẻ: Tổng số trẻ khuyết tật đến trường : 2/2 cháu = 100%.
Tôi tiến hành khảo sát các tiêu chí dành cho 2 trẻ khuyết theo từng tuần
của tháng 9 đầu năm học như sau:
Sự tiến bộ của trẻ theo tiêu chí
Trẻ biết tự đi vệ sinh
Trẻ biết tự rửa tay.
Trẻ biết tự ăn uống.
Biết súc miệng chải răng.
Biết tự mặc quần áo.
Hiểu khi nghe cô và các bạn nói.
Biết chơi cùng nhau.
Biết phát âm, nói rõ câu, từ…
Biết đi lại 1 mình, biết cầm nắm các đồ dùng.
Biết tô màu, cầm bút…
Tham gia các hoạt động học tập, vui chơi.
Thực hiện các vận động thô.
Thực hiện vận động tinh trong giờ tạo hình.
Tuân theo các qui định của lớp.

Tuần 1
+_
_

_
_
_
+
+_
+_
_
_
+_
+_
_
+_

tuần 2
+_
_
_
_
_
+
+_
+_
_
_
+_
+_
_
+_

tuần 3


tuần 4

+_
+_
+_
_
_
+
+_
+_
+_
_
+_
+_
_
+_

+_
+_
+_
_
_
+
+_
+_
+_
_
+_
+_

+_
+

Ghi chú:
Rõ rệt:+
6


Chưa rõ rêt:+_
Chưa được:_
Từ kết quả trên tôi thực sự băn khoăn làm sao để trẻ có được kỹ năng
nhất, định để trẻ sớm hòa nhập với cô giáo và bạn bè, làm sao trẻ có thể tự tin
trong giao tiếp sống biết quan tâm chia sẻ và hợp tác với mọi người xung quanh.
Với thực trạng trên để nâng cao chất lượng giáo dục trẻ khuyết tật hòa
nhập, tôi đã nghiên cứu tìm tòi sáng tạo và áp dụng các phương pháp mới nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập đến từng giáo viên, từng cá
nhân trẻ khuyết tật trong nhà trường.
2. 3. Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề:
Từ việc nhận thức và đánh giá về việc giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập, về
vai trò của người quản lý, giáo viên trong trường cũng như những thuận lợi, khó
khăn tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp chỉ đạo thực hiện như sau:
2.3.1: Xây dựng kế hoạch chỉ đạo thực hiện giáo dục trẻ khuyết tật hòa
nhập một cách khoa học, chặt chẽ, làm tốt công tác bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ về giáo dục trẻ khuyết tật tới toàn bộ giáo viên trong nhà trường.
a, Xây dựng kế hoạch chỉ đạo thực hiện giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập
một cách chặt chẽ, khoa học.
Vào đầu năm học, tôi đã xây dựng kế hoạch quản lý giáo dục trẻ khuyết tật
hòa nhập xuyên suốt cả năm học cho nhà trường. Để giáo viên xây dựng kế
hoạch giáo dục cá nhân phù hợp với trẻ khuyết tật của các nhóm lớp, tôi đã yêu
cầu giáo viên các nhóm lớp có cháu khuyết tật khảo sát tình hình cháu khuyết tật

của lớp mình về đồ dùng, khả năng vận động của trẻ để nắm được những nhu
cầu của trẻ khuyết tật... Khi xây dựng kế hoạch quản lý giáo dục hòa nhập, tôi
cần xác định nhu cầu cần hỗ trợ cho trẻ khuyết tật. Trong trường hòa nhập với sự
có mặt của học sinh khuyết tật và học sinh bình thường, đòi hỏi tôi cần phải xác
định được nhu cầu cần đáp ứng để tạo điều kiện cho mọi trẻ có thể tham gia
hoạt động một cách tốt nhất.
Ví dụ: Đối với nhà trường, tôi xây dựng kế hoạch giáo dục trẻ khuyết tật
hòa nhập.
( Xem phụ lục I)
b, Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụtrong giáo dục hòa nhập trẻ khuyết
tật tới đội ngũ giáo viên.
Có thể nói rằng, để giáo viên nắm được yêu cầu và phương pháp tổ chức
xây dựng được các tiết học cá nhân cho trẻ khuyết tật hòa nhập thì việc bồi
dưỡng cho giáo viên là rất cần thiết và phải thường xuyên liên tục. Tôi đã bồi
dưỡng cho toàn bộ giáo viên trong nhà trường bằng nhiều các hình thức khác
nhau như:
+ Bồi dưỡng lý thuyết: Trước khi vào đầu năm học, cùng với ban giám hiệu
nhà trường tôi đã tổ chức cho giáo viên dự lớp học bồi dưỡng chuyên môn do
7


trường tổ chức theo nội dung giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập. Bồi dưỡng cho
giáo viên nắm được đặc điểm phát triển và khả năng nhận thức của trẻ khuyết
tật, xây dựng kế hoạch cá nhân, các tiêu chí đánh giá, cách chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ……
Đối với độ tuổi trẻ khuyết tật ở độ tuổi mầm non, tôi bồi dưỡng cho giáo
viên hiểu biết được các dạng khuyết tật thường gặp ở trẻ em mầm non, các dấu
hiệu nhận biết các dạng khuyết tật đó và các biểu hiện theo mốc thời gian để
xác định đúng loại khuyết tật của trẻ để đưa ra các đánh giá, mục tiêu, phương
pháp dạy cho phù hợp.

Ví dụ: Đối với trẻ khuyết tật vận động thì dấu hiệu nhận biết đó là:
Trẻ 10 tháng tuổi không tự ngồi một mình, trẻ 2 tuổi không có khả năng tự
đi một mình, trẻ 4 tuổi không có khả năng tự cân bằng trên 1 chân trong một
thời gian ngắn, trẻ vận động khó khăn hơn so với trẻ ucngf lứa tuổi.
Các biểu hiện theo mốc thời gian để có thể xác định trẻ khuyết tật vận động
( Xem phụ lục 2)
Ví dụ: Đối với trẻ khuyết tật ngôn ngữ thì dấu hiệu nhận biết gồm:
+ Trẻ không quay đầu theo âm thanh
+ Trẻ không mỉm cười với người khác lúc 3 tháng tuổi
+ Không bập bẹ lúc 9 tháng tuổi
+ Không chỉ ngón tay vào đồ vật mà trẻ quan tâm lúc 12 tháng tuổi.
+ Không nói được từ đơn lúc 16 tháng
+ Trẻ 18 tháng không nói được tiếng mẹ.
+ Trẻ 2 tuổi không gọi được tên người thân cha,mẹ, anh em.
+ Trẻ 3 tuổi không nhắc lại được câu đơn giản
+ Trẻ 4 tuổi không nói được câu đủ nghĩa
+ Trẻ 5 tuổi không tiếp xúc và nói chuyện được với người ngoài gia đình.
Các biểu hiện theo mốc thời gian để có thể xác định trẻ khuyết tật ngôn ngữ
( Xem phụ lục 3)
Bên cạnh việc cung cấp kiến thức cho giáo viên, tôi đưa ra các vấn đề liên
quan đến trẻ khuyết tật như môi trường thuận lợi cho trẻ hoạt động, cách xây
dựng kế hoạch, cách tổ chức tiết học chung, tiết học cá nhân, cách đánh giá để
giáo viên tự nghiên cứu, thảo luận để từ đó giúp cho giáo viên hiểu rõ hơn trong
quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ khuyết tật có tại nhóm lớp mình
phụ trách.

8


Hình ảnh: Bồi dưỡng chuyên môn tại văn phòng nhà trường.

Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi đã tổ chức cho giáo viên ôn lại
các phương pháp tổ chức, hướng dẫn, cách thức tổ chức thực hiện, cách điều
chỉnh các hoạt động giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật mà giáo viên khi học ở các
trường sư phạm.
Ví dụ: Tôi cho giáo viên tự ôn một số hoạt động điều chỉnh hoặc thay thế
cho trẻ khuyết tật:.
Với hoạt động:” Chạy thay đổi theo tốc độ hiệu lệnh” cho trẻ khuyết tật
khiếm thính. Tôi cho giáo viên nhắc lại cách hướng dẫn như: Cho từng trẻ hoặc
từng nhóm nhỏ ( 3- 4 trẻ) đứng ở vạch xuất phát. Khi xuất phát cho trẻ chạy
chậm, được khoảng 5 m thì cô hô cho trẻ chạy nhanh lên; trẻ chạy được 4- 5 m
cô hô cho trẻ chạy chậm lại rồi dừng hẳn. Yêu cầu trẻ khi chạy phải chú ý nghe
khẩu lệnh nhanh- chậm của cô để thay đổi tốc độ chạy cho phù hợp. Sau khi
giáo viên nhắc lại cách hướng dẫn tôi cho giáo viên nhắc lại cách điều chỉnh.
Điều chỉnh theo 2 cách:
+ Cách 1: Tại đích chạy cần cáo tín hiệu âm thanh nưu tiếng trống, còi,xắc
xô. Cô phát âm thanh từ đích; trẻ khiếm thị nghe âm thanh và hiệu lệnh của giáo
viên chạy tới hướng phát ra âm thanh
+ Cách 2: Trẻ khiếm thị cùng chạy với các bạn,xong cần có 1 bạn cầm dây
chạy trước. khoảng cách giữa trẻ cầm dây và trẻ khiếm thị khoảng 1 m. Chú ý
trong khi chạy, không để cho trẻ dẫn đường kéo bạn khiếm thị hoặc dây trùng
quá khiếm bạn khiếm thị bị mất định hướng chạy.
+ Bồi dưỡng qua thực hành: Sau mỗi lần bồi dưỡng lý thuyết cho giáo viên,
để giáo viên hiểu rõ hơn về thực hành các tiết dạy cá nhân, tôi tổ chức xây dựng
các hoạt động mẫu cho từng loại khuyết tật.
Ví dụ: Mẫu giáo 5 tuổi xây dựng tiết cá nhân cho trẻ khuyết tật ngôn ngữ
( Xem phụ lục 4)
Trong quá trình dự giờ giáo viên tôi đã chọn và bồi dưỡng thêm cho giáo
viên những kỹ năng cơ bản, cách hướng dẫn theo khả năng của trẻ khuyết tật tại
lớp đó. Những hoạt động giáo viên còn lúng túng như cách tổ chức chơi ở
cacsgocs cho trẻ khuyết tật tôi góp ý kỹ hơn để cho giáo viên nắm vững.

9


Kết quả: Với việc thực hiện giải pháp trên tôi thấy 100% giáo viên đã nắm
vững được cách xây dựng kế hoạch, kiến thức về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết
tật được nâng lên cao rõ rệt, giáo viên không còn lúng túng trong việc xây dựng
các kế hoạch, các tiết học cá nhân...
2.3.2: Tạo môi trường giáo dục thuận lợi, thân thiện cho trẻ khuyết tật hòa
nhập:
Môi trường giáo dục có vai trò rất quan trong trong quá trình phát triển
toàn diện cho trẻ, đặc biệt là đối với trẻ khuyết tật.
Môi trường giáo dục thuận lợi sẽ giúp phát triển nhân cách cho trẻ đồng
thời giúp trẻ phát triển về tiềm năng của các tư chất, các năng lực tinh thần và
thể chất. Hơn nữa đối với trẻ khuyết tật rất nhạy cảm với mọi tác động bên
ngoài. Không những bệnh tật, thiếu dinh dưỡng có thể gây tác hại lâu dài mà
ngay cả những thiếu sót trong cách thức giáo dục, trong quan hệ tình cảm cũng
dễ làm nảy sinh những chấn thương tâm lý, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển
của trẻ. Cho nên giáo viên có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục hòa
nhập.
Trẻ mầm non là lứa tuổi đầu tiên tiếp xúc với môi trường giáo dục. Cô
giáo như mẹ hiền, thay thế mẹ để chăm sóc, giáo dục và giúp đỡ cháu ở mọi lúc
mọi nơi. Vì vậy việc chăm sóc và giáo dục trẻ khuyết tật phải thường xuyên
được cải tiến, đổi mới, phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và sở thích của
trẻ. Kiên quyết tránh mọi hình thức gò bó, áp đặt, mệnh lệnh làm căng thẳng, ức
chế tâm lý trẻ. Tôi hướng dẫn giáo viên phải thường xuyên trò chuyện, âu yếm
vỗ về trẻ, tạo cho trẻ tâm thế vui vẻ, thoải mái, tạo môi trường đẹp, thân thiện để
trẻ được hòa nhập cùng với bạn bè, xây dựng nhóm bạn cùng chơi với trẻ. Giúp
trẻ mạnh dạn, tự tin thích đến trường.
Đối với môi trường trong lớp, tôi hướng dẫn giáo viên xây dựng, bố trí
các góc chơi, đồ dùng đồ chơi thuận lợi cho trẻ được hoạt động theo khả năng,

hứng thú, sở thích riêng như: vẽ, nặn, lắp ráp, làm truyện tranh…phù hợp với
chủ đề và dễ dàng giao tiếp với các bạn trong nhóm.
Chẳng hạn: đối với khu vực chơi đóng vai: Tôi hướng dẫn giáo viên bố trí
vị trí, không gian thích hợp, đủ để triển khai các góc nhỏ phù hợp với các vai
chơi như: “ Căn hộ gia đình”; “ Cửa hàng”; “ Bệnh viện”….và đồ dùng đồ chơi
được sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ, khoa học thuận tiện cho trẻ trong lớp và trẻ
khuyết tật hoạt động hoặc đối với khu vực khám phá khoa học, khu vực này có
các loại cây, hạt , rau hoa quả để cho trẻ tìm hiểu, khám phá… Tùy theo nội
dung của chủ đề, tôi hướng dẫn giáo viên lựa chọn nội dung chơi ở khu vực này
cho thích hợp. Tôi hướng dẫn giáo viên chú ý, lên kế hoạch và có những gợi ý
để có thể luân phiên cho trẻ chơi ở trong khu vực và đặc biệt tạo ra khoảng
không gian để cho trẻ khuyết tật hòa nhập, giao lưu và chơi cùng các bạn trong
nhóm.
Ví dụ : Trong lớp 5 tuổi A1 có bé Mai Xuân Tuấn Kiệt bị đa tật đầu năm
bé còn tự chơi một mình nhưng sau khi được sự yêu thương dìu dắt của cô giáo

10


từng bước đưa trẻ vào chơi ở môi trường trong lớp dần dần bé đã ngồi cùng và
chơi với các bạn.

Hình ảnh: Bé đang chơi cùng nhóm bạn
Kết quả: Giáo viên phụ trách lớp có trẻ khuyết tật đã tạo được môi trường
đảm bảo an toàn, phù hợp cho cả trẻ bình thường và trẻ khuyết tật cùng hoạt
động. Trẻ khuyết tật đã mạnh dạn, tự tin chơi hòa nhập cùng với các bạn trong
lớp, không còn sợ sệt, nhút nhát thay vào đó là thường hỏi cô giáo, hỏi bạn và
chơi cùng các bạn trong môi trường thân thiện.
2.3.3: Hướng dẫn giáo viên, trẻ làm đồ dùng, đồ chơi trong lớp và sưu
tầm đồ dùng đồ chơi riêng dành cho trẻ khuyết tật.

a, Hướng dẫn giáo viên, trẻ làm đồ dùng đồ chơi trong lớp:
Muốn chăm sóc và giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật được tốt hơn thì việc
đầu tư sáng tạo làm đồ đồ dùng, đồ chơi là rất cần thiết. Như chúng ta đã biết,
đặc điểm tâm sinh lý của trẻ tư duy hình tượng là chủ yếu. Nếu không chuẩn bị
tốt đồ dùng, đồ chơi cho trẻ thì sẽ khó giúp trẻ thể hiện tốt khả năng cá nhân của
mình. Vì vậy đồ dùng, đồ chơi đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục trẻ và
đặc biệt là trẻ khuyết tật. Các đồ chơi, nguyên vật liệu chuẩn bị cần phải phù
hợp với từng góc chơi theo từng chủ đề. Đồ chơi phải đẹp, phong phú, đa dạng,
nhiều màu sắc tạo sức hấp dẫn, lôi cuốn trẻ vào các góc chơi và đặt biệt phải
đảm bảo vệ sinh an toàn cho trẻ
Để chuẩn bị tốt đồ dùng đồ chơi , nguyên vật liệu tôi đã lên kế hoạch mua
sắm những đồ chơi cần thiết. Kết hợp với phụ huynh học sinh sưu tầm, đóng góp
các phế liệu, nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương. Tận dụng một số đồ dùng, đồ
chơi, sản phẩm của hoạt động học có chủ định được lưu lại để thực hiện hoạt
động chơi ở các góc nhằm phục vụ cho trẻ khuyết tật.
Khi lựa chọn những đồ dùng, đồ chơi cho trẻ tôi hướng dẫn giáo viên cân
nhắc những điểm sau: Đồ dùng có màu sắc đẹp, hấp dẫn đồi với trẻ, dễ phục hồi
hoặc sửa chữa, dễ kiếm( hột, hạt…. ), dễ bảo quản hay cất giữ, an toàn (Không
độc hại, không có cạnh sắc, không nhọn..), rẻ tiền( tận dụng nguyên vật liệu phế
thải, đồ dùng mua và của địa phương).

11


Ví dụ: Với chủ đề “ Gia đình” tôi hướng dẫn giáo viên sưu tầm các hộp
nhựa, hộp sữa, hũ sữa chua, vỏ hộp rau câu, bình dầu ăn 1 lít… làm thành bộ đồ
chơi nấu ăn như: ấm trà, ca, ly, xoong nồi, chén bát, bàn ghế … Dùng những
quả bóng nhỏ, sợi len, chai nước rửa chén, vải vụn làm gia đình búp bê, làm rối
các nhân vật trong chuyện …
Hoặc chủ đề “Thế giới động vật” tôi hướng dẫn giáo viên dùng các hộp

sữa, chai nhựa các loại, nguyên liệu phế thải tôi đã tạo dáng thành các con vật
ngộ nghĩnh như: con heo, con mèo, con voi, con gà, vịt… Dùng vỏ trứng gà,
trứng vịt tạo thành con thỏ, con gà, con vịt, con cá
Ngoài ra tôi hướng dẫn giáo viên dùng các loại lá, vỏ cây khô, cỏ khô, vỏ
hạt dưa,vỏ lạc… cùng với trẻ làm tranh trang trí theo từng chủ đề.….Dùng vỏ
hộp sữa rửa sạch, cô cùng trẻ sáng tạo thành những đồ chơi ngộ nghĩnh như:
hình chú Rôbốt đứng chào, dán các hộp sữa lại với nhau tạo thành các khối
vuông, chữ nhật để xây nhà, xây Lăng Bác, xây hàng rào…
Kết hợp với chương trình Sữa học đường cho trẻ lấy cái lô gô ở vỏ hộp
sữa dán vào tranh chủ điểm tạo hình cây xanh, ngôi nhà, đường đi….
- Dùng vỏ hộp sữa rửa sạch, cô cùng trẻ sáng tạo thành những đồ chơi ngộ
nghĩnh như: hình chú Rôbốt đứng chào, dán các hộp sữa lại với nhau tạo thành
các khối vuông, chữ nhật để xây nhà, xây Lăng Bác, xây hàng rào…
Đối với trẻ khuyết tật hướng dẫn giáo viên đầu tư nghiên cứu kỹ hơn làm
những bộ đồ chơi phát triển trí tuệ phù hợp với trẻ ở các dạng khuyết tật. Bộ
tranh lô tô, đôminô động vật, thực vật, nghề nghiệp …giúp trẻ nhận biết về thế
giới xung quanh, kích thích khả năng tư duy, chú ý ghi nhớ có chủ định của trẻ
sau đó hướng dẫn và cùng làm với giáo viên để dạy trẻ .

Hình ảnh: Giáo viên đang hướng dẫn trẻ khuyết tật làm đồ dùng
đồ chơi với cô và các bạn trong lớp
Bên cạnh việc xây dựng môi trường vật chất trong lớp, đối với những lớp
có trẻ khuyết tật, tôi hướng dẫn giáo viên tạo ra môi trường riêng cho trẻ đó.
12


Ví dụ: Đối với trẻ bị đa tật ( trong đó bị cả khiếm thính), tôi hướng dẫn
giáo viên xây dựng môi trường như:
- Xây dựng được môi trường nghe thích hợp:
+ Đảm bảo máy trợ thính cho trẻ hoạt động tốt và cho trẻ đeo suốt cả ngày

bởi vì trẻ sẽ tiếp thu âm thanh ngôn ngữ suốt cả ngày.
+ Khoảng cách: sắp xếp chỗ ngồi cho trẻ khiếm thính gần cô, trực diện
với cô.
+ Đồ dùng giảm tiếng vang ồn: Tường nhám, trần nhà hổng xốp ( để hút
ẩm), nền nhà trải thảm, treo rèm vải dầy…
+ Giọng nới: to, rõ ràng, tự nhiên không cường điệu hình miệng, tốc độ
nói vừa
phải phù hợp với khả năng ngôn ngữ cảu trẻ.
- Môi trường tâm lý xã hội:
+ Xây dựng môi trường quan hệ thân thiện, hợp tác giữa trẻ khiếm thính
với trẻ nghe bình thường trong lớp.
- Môi trường ngôn ngữ:
+ Giáo viên và trẻ nghe bình thường cần hiểu và sử dụng hình thức giáo
tiếp với trẻ khiếm thính bằng ngôn ngữ nới và bằng cử chỉ điệu bộ.
+ Giáo viên cần học và biết sử dụng ngôn ngữ ký hiệu và có ý thức hỗ trợ
trẻ khiếm thính giao tiếp thôngq ua đọc hình miệng.
b, Sưu tầm đồ dùng, đồ chơi riêng dành cho trẻ khuyết tật:
Trẻ mầm non nói chung và trẻ khuyết tật nói riêng dù không nói được hoặc
nói được thì trẻ cũng rất thích các loại đồ dùng, đồ chơi. Không có trẻ nào lại
không thích đồ dùng, đồ chơi cả. Những đồ dùng, đồ chơi có khi chính là những
người bạn thân thiết của trẻ. Nó giúp trẻ bớt cô đơn, nó nói chuyện với trẻ theo
cách riêng mà chỉ trẻ mới biết, giúp trẻ tích cực vận động. Đồ dùng, đồ chơi
dành cho trẻ đặc biệt cũng cần đặc biệt như chính bản thân trẻ vậy. Nắm bắt
được đặc điểm tâm lý đó, tôi đã vận động toàn bộ giáo viên trong trường sưa
tầm các loại đồ dùng đồ chơi dành cho trẻ để hỗ trợ cùng với giáo viên nhóm lớp
có trẻ khuyết tật.
Ví dụ: Đối với lĩnh vực phát triển nhận thức: Làm quen với biểu tượng
Toán sơ đẳng với hoạt động: Làm tiếp tục ( nội dung: So sánh, phân loại và xếp
theo quy tắc- Mẫu giáo lớn). Tôi và giáo viên sưu tầm các đồ dùng để trẻ được
thực hành trực tiếp trên đồ dùng. Chẳng hạn hoạt động: So sánh, phân loại và

xếp theo quy tắc của trẻ mẫu giáo lớn.

Còn đối với lĩnh vực phát triển thể chất, tôi sưu tầm được các loại đồ dùng
đồ chơi để phục vụ cho trẻ khuyết tật vận động như:
13


+ Bờ xiên: Dụng cụ trợ giúp trong thể nằm sấp, giúp trẻ phát triển và kiểm
soát đầu, vai, tay và hai bàn tay, kéo dãn cơ hông, gối và vai; giúp ngó đầu lên
và giữ hai tay ra trước.

+ Trục lăn: Giúp ngó đầu lên khhi cho nằm sấp, ngồi giữ 2 chân để kéo dãn
cơ áp đùi, kích thích thăng bằng tư thế ngồi

+ Khung đi: Nhằm giúp trẻ di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác.

14


+ Ghế kiểu tam giác: Có lưng tựa tạo thành một góc giúp nâng đỡ lưng trẻ
và giữ 2 tay ra trước.

Kết quả: 2/2 nhóm lớp có cháu khuyết tật đã xây dựng được môi trường
thuận lợi cho trẻ hoạt động đúng theo yêu cầu, có đồ dùng đồ chơi tự tạo riêng
để hỗ trợ cho trẻ lớp mình, đồ dùng đẹp, bố trí hợp lý, khoa học.
2.3.4: Hướng dẫn giáo viên tổ chức tốt các hoạt động giáo dục cho trẻ
khuyết tật hòa nhập.
Tổ chức cho trẻ khuyết tật tham gia vào các hoạt động:
Để tổ chức cho trẻ khuyết tật tham gia vào các hoạt động vui chơi, học tập
giúp trẻ phát triển khả năng tư duy sáng tạo là một yêu cầu hết sức quan trọng.

Để thực hiện được vấn đề này đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức
sâu sắc về các cơ sở khoa học và phương pháp chăm sóc - giáo dục trẻ, phải có
kỹ năng, kỷ xảo nghề nghiệp. Cô giáo phải linh hoạt, nhạy bén, sáng tạo, chu
đáo và tỷ mỷ để phát hiện những khả năng tiềm ẩn và đáp ứng kịp thời những
15


nhu cầu đòi hỏi của trẻ. Tạo cho trẻ sự tự tin, mạnh dạn hòa nhập tham gia hoạt
động với các bạn.
Ví dụ: Bé Mai Xuân Tuấn Kiệt, bé thuộc nhóm khuyết tật đa tật nhưng bé
lại rất thích hát, tuy nhiên nhiều khi bé không tự kiểm soát được hành vi của
mình. Vì thế nên bé thiếu tự tin, rất ngại khi đứng trước bạn bè. Tôi luôn gần
gũi, động viên khuyến khích tạo tình cảm gắn bó giữa cô và trò, giữa các bạn
với nhau.Trong giờ hoạt động âm nhạc tôi mời bé lên tham gia cùng với các bạn,
những tràn pháo tay khen ngợi bé cảm thấy hứng thú và cô thường xuyên mời bé
lên tham gia hát múa cùng cô. Dần dần bé tự tin, mạnh dạn xung phong lên hát
múa cho các bạn.

Hình ảnh: Bé Mai Xuân Tuấn Kiệt đang biểu diễn
trên góc âm nhạc cùng với bạn.
Trong các hoạt động, tôi hướng dẫn giáo viên lúc nào cũng phải là người dẫn
dắt, gợi mở, giúp trẻ phát hiện những tri thức khoa học, trẻ là người chủ động tiếp
nhận các tri thức. Từ đó từng bước tạo cho trẻ thói quen thích tìm tòi khám phá.
Đặc biệt trong quá trình chăm sóc - giáo dục cô giáo phải thường xuyên gần gũi, trò
chuyện, động viên tạo tình cảm thân thiết để trẻ cảm thấy an tâm khi có cô bên
cạnh. Tôi đã chỉ đạo giáo viên phải tạo điều kiện về thời gian để trẻ được hoạt
động dạo chơi, hít thở không khí trong lành. Đây cũng là cơ hội để trẻ luyện tập,
phát triển ngôn ngữ, phục hồi dần các khiếm khuyết của trẻ khuyết tật.
Trong các hoạt động vui chơi, các trò chơi vận động cô thường xuyên chú
ý, quan tâm đến trẻ, hướng dẫn trẻ thực hiện các vận động cùng cô, giờ chơi

nhắc nhỡ các bạn trong lớp giúp đỡ bạn khi chơi, không chạy nhảy xô đẩy làm
ngã bạn. Cô giáo phải là chỗ dựa cho trẻ khuyết tật dìu dắt trẻ mỗi khi trẻ tham
gia hoạt động tạo niềm tin và sự an toàn cho trẻ.

16


Hình ảnh: Giáo viên hướng dẫn trẻ tham gia vào vận động.
Trong giờ hoạt động tạo hình, vì khả năng nhận thức của bé kém, bé
không biết mình phải làm gì , phải bắt đầu từ đâu để làm giống các bạn Tôi luôn
nhắc nhở, uốn nắn, cầm tay chỉ dạy cháu vẽ mặc dù nó chỉ là những nét ngang
dọc không theo một trình tự và tôi nhắc nhở các bạn trong lớp giúp đỡ bạn,giáo
dục cho các cháu luôn có tình cảm yêu thương bạn. Trong khi thực hiện cô luôn
quan tâm giúp đỡ động viên, khuyến khích để trẻ tích cực hoạt động hoàn thành
sản phẩm của mình.

Hình ảnh: Bé Minh Sơn đang được cô giáo hướng dẫn trong
hoạt động tạo hình
Trong các hoạt động cô thường xuyên động viên, khuyến khích, gợi mở
kích thích trẻ khuyết tật tích cực tham gia hoạt động, hoạt động vừa sức không ỷ
lại vào người khác.
17


Hiện nay việc ứng dụng CNTT trong trường mầm non là một phương tiện
giáo dục vô cùng tiện lợi và hữu ích. Tôi thường xuyên truy cập mạng Internet
tìm hiểu thông tin giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật, tìm tòi những hình ảnh tư
liệu giáo dục, thiết kế những trò chơi trong bài giảng powerpoint để trẻ tiếp cận
CNTT và đặc biệt là trẻ khuyết tật rất hứng thú tham gia và sau đó hướng dẫn
cho giáo viên biết cách thao tác, dạy trẻ.

Ví dụ: Tôi thiết kế những trò: Ai tinh mắt thế, trò chơi Ai đoán giỏi, hoặc trò
chơi Ai đúng - Ai sai …nhằm mục đích mở rộng cho trẻ hiểu biết về thế giới xung
quanh, nhận biết đoán tên những đồ dùng trong gia đình, những con vật, các loại rau
quả …. trong khi thiết kế tôi tạo những hiệu ứng âm thanh, lời nói như: Bạn tài quá,
bạn giỏi quá, đúng rồi xin chúc mừng bạn.. hoặc: sai rồi bạn chọn lại đi…..
Việc ứng dụng các trò chơi câu đố trong Phần mềm Vui học mầm Non
giúp trẻ tư duy nhanh nhẹn, thông minh hơn. Trẻ rất hứng thú tham gia và đặt
biệt là khả năng nhận biết, chú ý, ghi nhớ của trẻ khuyết tật tiến bộ rõ rệt.
Kết quả: Với biện pháp này trẻ khuyết tật và trẻ trong trường tôi vô cùng
hứng thú với các hoạt động. Đến thời điểm này tôi thấy giáo viên đã tự tin, sáng
tạo trong cách dạy dỗ, chăm sóc trẻ khuyết tật, không còn bỡ ngỡ, lo sợ như
ngày đầu mới tiếp nhận các cháu. Còn đối với trẻ khuyết tật và các trẻ bình t
2.3.5. Theo dõi, đánh giá sự tiến bộ của trẻ khuyết tật:
Theo dõi, đánh giá là một trong những kỹ năng quan trọng đối với mọi
giáo viên mầm non nói chung và đối với giáo viên dạy lớp có trẻ khuyết tật nói
riêng. Đây là quá trình thu thập thông tin một cách khoa học, thực tiễn để trên
cơ sở đó có thể đưa ra những quyết định về kế hoạch, về định hướng can thiệp
phù hợp với mỗi cá nhân trẻ và gia đình trẻ.
Trong quá trình chăm sóc - giáo dục tôi hướng dẫn giáo viên thường xuyên
theo dõi sự tiến bộ của trẻ về mức độ của một hay hơn một mặt phát triển sau: kĩ
năng nhận thức, kĩ năng vận động, kĩ năng ngôn ngữ và giao tiếp, kĩ năng xã hội
và tình cảm, thẩm mỹ, kĩ năng tự phục vụ và thích ứng để từ đó đưa ra những
tiêu chí cụ thể để đánh giá.
Ví dụ: Lên kế hoạch giáo dục theo từng tháng, tuần, đề ra nội dung giáo
dục và biện pháp giáo dục cụ thể.
- Có sổ nhật ký theo dõi sự tiến bộ của trẻ qua từng ngày, qua các hoạt
động.
( Xem phụ lục 5)
- Lập bảng theo dõi kết quả phát triển theo các lĩnh vực. Bảng theo dõi
phải đánh giá chính xác quá trình phát triển của trẻ. Thường xuyên quan sát theo

dõi trẻ ở mọi lúc mọi nơi, trong mọi hoạt động. Khi quan sát phải hiểu rõ là
mình quan sát những nội dung nào, phải ghi chép đầy đủ từng nội dung, hiện
tượng xảy ra trong hoạt động hàng ngày của trẻ sau đó cập nhật xem cho tiến bộ
ở những tiêu chí nào, còn tiêu chí nào chưa tiến bộ để điều chỉnh nội dung,
phương pháp cho phù hợp.
Kết quả: Nhờ có phương pháp đánh giá, giáo viên dễ dàng đưa ra các mục
tiêu, nội dung, phương pháp trong việc lên kế hoạch thực hiện chủ đề của trẻ
18


khuyết tật. Chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật tăng lên rõ rệt so với đầu
năm.
2.3.6. Làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với cha mẹ trẻ và cộng
đồng tham gia giáo dục phát triển vận động cho trẻ.
Công tác phối hợp với các bậc cha mẹ, phụ huynh để thực hiện các mục
tiêu giáo dục của nhà trường là nhiệm vụ rất quan trọng ở trường mầm non.
Ngày nay khi khoa học công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát triển
vận động cho trẻ mầm non nói chung và đối với trẻ khuyết tật nói riêng là rất
cần thiết và phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa cô giáo với các bậc phụ huynh.
Sự kết hợp nhịp nhàng này có giá trị làm cho trẻ ngày càng tiến bộ hơn. Tôi
hướng dẫn các giáo viên cần cung cấp các cơ hội cho các bậc cha mẹ, các thành
viên của gia đình tham gia vào các hoạt động của trường mầm non.
Qua thực tế một điều dễ thấy rằng: Tất cả mọi công việc trong trường muốn
đat kết quả tốt đều không thể không có sự ủng hộ của phụ huynh và cộng đồng,
vì vậy khi triển khai nội dung này tôi đã phối hợp với phụ huynh bằng nhiều
hình thức:
- Trong buổi họp phụ huynh đầu năm thông báo rõ với phụ huynh về tình
hình có cháu khuyết tật ở một số lớp và đề nghị phụ huynh phối hợp thực hiện,
không được biệt thị với trẻ….
- Viết lên bảng tuyên truyền hoặc trao đổi trực tiếp với phụ huynh có cháu

khuyết tật về các nội dung cần phối hợp khi trẻ ở nhà.
Ví dụ: Trao đổi với phụ huynh có trẻ khiếm thính, khuyết tật ngôn ngữ các
nội dung:
- Hỗ trợ về tinh thần: Khi mới phát hiện trẻ có vấn đề về thính giác gia
đính có nhu cầu lớn nhất là họ cần hỗ trợ về tinh cản và tinh thần :
- Cung cấp thông tin: Gia đình có nhu cầu cần biết những thông tin có liên
quan tới tật điếc và cần được giải thích tại sao con họ bị điếc:
+ Làm thế nào để tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ, máy trợ thính………….
+ Các mô hình giáo dục, cuộc sống của người lớn, cơ hội việc làm……
+ Thông tin về cách giao tiếp, dạy trẻ nói.
- Hướng dẫn phụ huynh: Gia đình có ảnh hưởng tích cực nhất đến sự phát
triển của trẻ bình thường cũng như trẻ khiếm thính . Trẻ điếc sẽ hưởng những cơ
hội phát triển tốt nhất nếu sống với gia đình. ( Gia đình là môi trường phát triển
tốt nhất đặc biệt là phát triển ngôn ngữ của trẻ trước tuổi học:
+ Trẻ khiếm thính, khuyết tật ngôn ngữ và sự phát triển bình thường: Trẻ
khiếm thính trước hết là trẻ em, giống như đứa trẻ bình thường chúng có nhiều
nhu cầu, trong đó có nhu cầu giao tiếp.
+ Môi trường học ngôn ngữ tại gia đình: Giao tiếp tự nhiên: Tận dụng
giao tiếp hằng ngày như: chơi, mặc quần áo tắm, cho trẻ ăn. Đọc, kể hát……cho
trẻ nghe. Nhằm thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ.
Hỗ trợ thêm các điều kiện: Máy trợ thính: Cho trẻ đeo máy sớm và phù hợp.
Hãy nói nhiều với trẻ: Cha mẹ tạo nhiều cơ hội cho trẻ tham gia vào những
câu chuyện phù hợp với tình huống và mức độ phát triên của trẻ.
19


* Kết quả: 100% phụ huynh đồng tình hưởng ứng với việc làm trên của
nhà trường, giáo viên chủ nhiệm đề ra. Đặc biệt phụ huynh tin tưởng, yên tâm,
đưa con đến trường ngày một đông hơn và về nhà phụ huynh đã cùng tham gia
vận động với trẻ bới phụ huynh thiết nghĩ đối với những cháu khuyết tật nhà

trường cũng đã tiếp nhận, dạy dỗ, chăm sóc chu đáo nên họ càng yên tâm hơn
khi gửi con mình tại nhà trường.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau một năm thực hiện đề tài: ” Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng
giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập tại trường mầm non Nga Giáp” đã đạt được kết
quả như sau:
- Về phía nhà trường và giáo viên
+ 100% giáo viên xây dựng kế hoạch tổ chức giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập.
+ 100% các nhóm lớp có đủ trang thiết bị tối thiểu phục vụ cho trẻ bình thường
và một số đồ dùng tối thiểu cho học sinh khuyết tật.
+ 100% các giáo viên biết xây dựng môi trường giáo dục cho trẻ khuyết tật hòa
nhập.
- Về phụ huynh:
+ Nhận thức của phụ huynh về tiếp nhận trẻ khuyết tật hòa nhập trường
mầm non được nâng lên rõ rệt, ban đại diện hội cha mẹ học sinh đã quan tâm
thiết thực đến công tác chăm sóc các khuyết tật.
+ Phụ huynh có trẻ khuyết tật nắm bắt được một số kiến thức dạy trẻ như
cách sử dụng các đồ dùng đồ chơi, các nội dung dạy riêng cho con mình ở nhà.
+ Phụ huynh tin tưởng, yên tâm vào chất lượng của nhà trường và đưa
con đến trường đi học ngày càng đông.
- Về học sinh:
+ Trẻ có biết hòa đồng cùng với các bạn khuyết tật, giúp đỡ các bạn trong
quá trình tham gia các hoạt động trên lớp.
+ Trẻ khuyết tật mạnh dạn, tự tin trong các hoạt động, không còn sợ sệt
như đầu năm học.
* Kết quả khảo sát cuối năm học:
- Khảo sát cán bộ, giáo viên, nhân viên: Tổng số 20 đồng chí.
Tổng
số

Giáo
Viên

12

T

K

T
B

Nắm vững cách
xây dựng kế
hoạch giáo dục
cá nhân, kế
hoạch dạy cho
trẻ khuyết tật.
Y T K T Y
B

5

6

1

0

Có những hiểu

biết, kiến thức
về trẻ khuyết
tật, các dạng
nhận biết….

Tỉ lệ % 41.7

50

8.3

6
50

5

1

41.7

8.3

0

Xây dựng môi
trường, làm đồ
dùng đồ chơi
cho trẻ khuyết
tật hòa nhập
hoạt động

T K T Y
B

7

5

58.3 41.7

0

0

Công tác tuyên
truyền, Phối hợp
với phụ huynh
GD trẻ khuyết
tật hòa nhập.

Kết quả
chung

T

K

T
B

Y


T

K

T
B

Y

6

6

0

0

6

5

1

0

50

50


50

41.7 8.3

20


- Bảng khảo sát trẻ: Tổng số trẻ khuyết tật đến trường : 2/2 cháu = 100%.
Stt
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14

Sự tiến bộ của trẻ theo tiêu chí
Tuần 1 tuần 2 tuần 3
Trẻ biết tự đi vệ sinh
+_
+_
+_

Trẻ biết tự rửa tay.
+
+
+_
Trẻ biết tự ăn uống.
+
+
+_
Biết súc miệng chải răng.
+
+
+
Biết tự mặc quần áo.
+
+
+
Hiểu khi nghe cô và các bạn nói.
+
+
+
Biết chơi cùng nhau.
+_
+_
+_
Biết phát âm, nói rõ câu, từ…
+_
+_
+_
Biết đi lại 1 mình, biết cầm nắm các đồ dùng.
+

+
+_
Biết tô màu, cầm bút…
+
+
+
Tham gia các hoạt động học tập, vui chơi.
+_
+_
+_
Thực hiện các vận động thô.
+_
+_
+_
Thực hiện vận động tinh trong giờ tạo hình.
+
+
+
Tuân theo các qui định của lớp.
+_
+_
+_

tuần 4
+_
+_
+_
+
+
+

+
+_
+
+
+
+_
+_
+

Qua kết quả khảo sát trên giáo viên và trên trẻ cho thấy chỉ đạo thực hiện
giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập bằng những biện pháp trên đạt kết quả cao hơn
rất nhiều so với những hoạt động bình thường. Giáo viên xây dựng môi trường
lớp học thân thiện, tạo cho trẻ cảm giác thoải mái, phát huy tính độc lập sáng tạo
trong hoạt động cá nhân trẻ.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận:
Đúng vậy, giáo dục mầm non giữ một vị trí quan trọng trong sự phát triển
của xã hội, trong quá trình hình thành nhân cách con người. Do vậy, trong công
tác giáo dục mầm non phải được tiến hành một cách khoa học có mục đích, có
hệ thống nhằm tạo dựng những nền tảng ban đầu vững chắc cho quá trình phát
triển sau này của mỗi cá nhân trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước.
Nhận thức được điều đó, sau khi vận dụng sáng kiến kinh nghiệm vào
thực tế chỉ đạo thực hiện, bản thân tôi thấy mình cần phải không ngừng học hỏi
nghiên cứu tài liệu, vận dụng linh hoạt hơn nữa các phương pháp, biện pháp,
hình thức phù hợp để giúp giáo viên, học sinh tiếp nhận các nội dung của giáo
dục hòa nhập trẻ khuyết tật một cách tốt nhất và đạt kết quả cao nhất.
Giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mẫu giáo. Quan
tâm đến từng cḠthể và hiểu được một số tâm tư nguyện vọng riêng biệt của
từng trẻ, luôn tôn trọng trẻ từ đó cuốn hút trẻ vào các hoạt động một cách tự
nguyện

Giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu các biện pháp giáo dục hòa nhập
trẻ khuyết tật có ý nghĩa rất lớn trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ trong
trường mầm non để có thêm kiến thức về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật, khơi
dậy tình cảm của mọi người đối với những trẻ kém may mắn.
21


Giáo dục cho trẻ kỹ năng sống, lòng nhân ái, tình thương yêu bạn bè giữa
những trẻ bình thường và trẻ bị khuyết tật nhằm phát triển nhân cách cho trẻ.
Giúp cho trẻ mạnh dạn, tự tin, tạo tâm thế vui vẻ, thích đến trường.
Phát huy những thế mạnh của trẻ khuyết tật và hạn chế những khiếm
khuyết cho trẻ, giúp trẻ phát triển đầy đủ cả thể chất và tinh thần, tạo cơ hội phát
triển toàn diện để sau này trở thành những người con có ích cho gia đình và cho
xã hội.
3.2: Đề xuất:
- Đối với phòng giáo dục:
- Thường xuyên mở các lớp chuyên đề về giáo dục dành cho trẻ khuyết tật
để tạo điều kiện cho giáo viên học hỏi làm vốn kinh nghiệm cho bản thân trong
quá trình chăm sóc giáo dục trẻ
- Qua các biện pháp đã đưa ra khi thực hiện còn rất nhiều khó khăn như:
Cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi… Vì vậy nên tôi xin đề xuất với các cấp lãnh
đạo tạo điều kiện hỗ trợ kinh phí, đồ dùng đồ chơi, tài liệu tham khảo, trang thiết
bị dạy học và sự hướng dẫn của cán bộ chuyên trách về khuyết tật để giúp cho
nhà trường chúng tôi thực hiện chương trình Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật
ngày càng tốt hơn.
* Đối với nhà trường:
+Tham mưu với cấp lãnh đạo đầu tư tạo điều kiện về cơ sở vật chất ,đồ
dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ khuyết tật, góp phần năng cao chất lượng giáo dục
cho trẻ mầm non nói chung và trẻ khuyết tật nói riêng.
+ Có chính sách hỗ trợ kip thời đối với các giáo viên chăm sóc, nuôi

dưỡng và giáo dục trẻ khuyết tật.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm: “ Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất
lượng giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập tại trường mầm non Nga Giáp ”. Tôi rất
mong sự đóng góp, bổ sung của các cấp, của hội đồng xét duyệt để sáng kiến
của tôi được hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày10 tháng 4 năm2019.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội
dung của người khác
Người viết sáng kiến

Vũ Thị Từ
TÀI LIỆU THAM KHẢO

22


1. thống kê: “ Tính đến tháng 6/2015, Việt Nam có
khoảng 7 triệu người khuyết tật, chiếm 7,8% dân số, người khuyết tật đặc biệt
nặng và nặng chiếm khoảng 28,9%, khoảng 58% người khuyết tật là nữ, 10,2%
người khuyết tật là người cao tuổi, khoảng 10% người khuyết tật thuộc hộ
nghèo. Tỉ lệ người khuyết tật nữ (16,58%) cao hơn nam (13,69%) và có 28,3%
người khuyết tật là trẻ em” [1].
2. Điều 16, pháp lệnh về người tàn tật ngày 30/7/1998 quy định:” Việc
học tập
của trẻ tàn tật được tổ chức, thực hiện bằng các hình thức học hòa nhập trong
các trường phổ thông, các trường chuyên biệt dành cho người tàn tật, cơ sở
nuôi dưỡng người tàn tật tại các gia đình” [2].

3. Hướng dẫn quản lý và thực hiện can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập trẻ
khuyết tật mầm non của Bộ GD&ĐT- Vụ GDMN; chủ biên Lê Minh Hà“ Trẻ
khuyết tật là trẻ bị khiềm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy
giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật, khiến cho các hoạt động và sinh
hoạt hằng ngày gặp khó khăn” [3].
4. Mô đun 44: Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong giáo dục mầm non;
biên soạn: Hoàng Thị Thu Hương “ Giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập là phương
thức giáo dục chung trẻ khuyết tật với trẻ không khuyết tật trong cơ sở giáo dục.
Ở đó trẻ khuyết tật được giáo dục trong cùng một môi trường với trẻ em không
khuyết tật, hòa nhập trẻ khuyết tật và trẻ bình thường trong cùng một lớp học”
[4].

23



×