Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số giải pháp chỉ đạo tăng cường tiếng việt cho trẻ ở các trường mầm non vùng dân tộc thiểu số huyện ngọc lặc, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 17 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư
phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội.” [1]. Chính vì vậy mà trong những năm qua, Đảng và Nhà nước
luôn quan tâm, chỉ đạo nghành giáo dục có những giải pháp thích hợp nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục cả nước nói chung và nâng cao chất lượng giáo
dục miền núi nói riêng. Một trong những giải pháp để nâng cao chất lượng giáo
dục miền núi thì trong đó vấn đề“Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng
dân tộc thiểu số”cho các huyện miền núi vùng sâu, vùng xa là một mắt xích cần
tháo gỡ và đã được chú trọng.
Hiện nay, ngôn ngữ sử dụng trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta
là tiếng Việt. Vì vậy, việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non vùng dân tộc
thiểu số có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhằm nâng cao khả năng sử dụng tiếng
Việt của trẻ, đảm bảo cho các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng
Việt, để hoàn thành chương trình Giáo dục Mầm non, tạo tiền đề cho việc học
tập, lĩnh hội kiến thức của cấp học tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục vùng dân tộc thiểu số. Trẻ chậm phát triển ngôn ngữ sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến việc lĩnh hội kiến thức, hình thành các kỹ năng và từ đó thiếu niềm tin vào
hoạt động học tập. Sự non yếu về tiếng Việt sẽ làm hạn chế về giao tiếp của trẻ
em vùng dân tộc thiểu số trong sinh hoạt ở nhà trường, gia đình và cộng đồng.
Tuy nhiên, phần lớn trẻ em dân tộc thiểu số (DTTS) trước khi tới trường,
lớp mầm non đều sống trong môi trường tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Việt, ít
có môi trường giao tiếp tiếng Việt. Khi đến trường, trẻ em thích trao đổi với
nhau bằng tiếng mẹ đẻ và có thói quen giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ trong hoạt
động chơi, trò chuyện hàng ngày và thậm chí ngay cả trong môi trường học tập.
Theo đó, trẻ em DTTS sẽ không có vốn tiếng Việt ban đầu cần thiết để học tập
bằng tiếng Việt ở trường phổ thông nếu không được chuẩn bị tiếng Việt. Những
hạn chế về tiếng Việt là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng lưu ban, bỏ học của
hoc sinh phổ thông ở vùng DTTS.


Ngọc Lặc là 1 Huyện miền núi có 4 dân tộc anh em sinh sống. Trong đó,
đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm trên 64%. Để thực hiện tốt Chương
trình giáo dục mầm non và đề án phổ cập giáo dục xóa mù chữ, đặc biệt là giúp
cho trẻ thiểu số có vốn tiếng Việt cần thiết trước khi vào học lớp 1 ở trường tiểu
học. Vì vậy “ Tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số” là hết sức
cần thiết.
Chính vì những lý do trên nên tôi chọn đề tài " Một số giải pháp chỉ đạo tăng
cường tiếng Việt cho trẻ ở các trường mầm non vùng dân tộc thiểu số huyện
Ngọc Lặc” để làm đề tài nghiên cứu cho mình, phần nào tìm ra các giải pháp
nhằm tăng cường tiếng Việt cho trẻ ở địa phương. Qua đó góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục của Huyện ngày một hiệu quả hơn
2. Mục đích nghiên cứu:
1


Tìm ra một số tồn tại, khó khăn trong việc chỉ đạo tăng cường tiếng Việt
cho trẻ mầm non vùng dân tộc thiểu số ở huyện Ngọc Lặc để từ đó:
- Nâng cao nhận thức và năng lực tổ chức thực hiện tăng cường tiếng
Việt cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên mầm non
- Xây dựng môi trường tiếng Việt cho trẻ “học tập" ở các trường mầm
non.
- Làm tốt công tác phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã
hội trong việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ
3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số giải pháp chỉ đạo tăng cường tiếng Việt cho trẻ ở các trường mầm
non vùng dân tộc thiểu số huyện Ngọc Lặc
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý thuyết
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, thực nghiệm, xử lý số liệu

Lựa chọn các biện pháp phù hợp và áp dụng vào thực tế. Đánh giá kết quả
đạt được và so sánh kết quả trước và sau khi áp dụng biện pháp

II. NỘI DUNG
2


1. Cơ sở lý luận:
Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số được đưa ra là
một trong những vấn đề trọng tâm và được coi là một trong những yếu tố quan
trọng góp phần rất lớn về việc nâng cao chất lượng của giáo dục miền núi.
Bởi: Luật giáo dục quy định:“Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong
nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc
thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng tiếp
thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Việc dạy và
học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy định của
Chính phủ”[2].
Mục tiêu chung của cả nước về “ Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm
non, học sinh tiểu học vùng DTTS giai đoạn 2016-2010, định hướng đến năm
2025 đó là: “ Tập trung tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh
tiểu học người dân tộc thiểu số, bảo đảm các em có kỹ năng cơ bản trong việc
sử dụng tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục mầm non và chương
trình giáo dục tiểu học; tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức của các cấp học
tiếp theo; góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững các
dân tộc thiểu số, đóng góp vào sự tiến bộ, phát triển của đất nước.”[3]
Sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường tiếng Việt
cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 -2020,
định hướng đến 2025” theo Quyết định số 1008/QĐ -TTg ngày 02/06/2016 của
Thủ tưởng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Tỉnh đã Phê duyệt Kế hoạch

thực hiện Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học
vùng dân tộc thiểu số tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến
2025”. [4]
Sở giáo dục và Đào tào Thanh Hóa đã xây dựng kế hoạch số: 1361/KHSGDĐT và đưa ra mục tiêu cụ thể như sau: “Đến năm 2020, có ít nhất 35% trẻ
em người DTTS trong độ tuổi nhà trẻ và 97% trẻ em người DTTS trong độ tuổi
mẫu giáo; trong đó, 100% trẻ em trong các cơ sở giáo dục mầm non được tập
trung tăng cường tiếng Việt phù hợp theo độ tuổi.
- Đến năm 2025, có ít nhất 50% trẻ em người DTTS trong độ tuổi nhà trẻ
và 98% trẻ em người DTTS trong độ tuổi mẫu giáo, trong đó, 100% trẻ em trong
các cơ sở giáo dục mầm non được tập trung tăng cường tiếng Việt phù hợp theo
độ tuổi.
- Hằng năm, 100% học sinh tiểu học người DTTS được tập trung tăng
cường tiếng Việt.” [5]
Trong những năm qua, chuyên đề “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mẫu
giáo vùng dân tộc thiểu số” đã được Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa, mở
các lớp tập huấn, hội thảo. Phòng GD&ĐT đã triển khai và thực hiện đồng loạt
đến các trường mầm non trong Huyện. Sau 3 năm đã có những chuyển biến tích
cực. Tuy nhiên việc dạy tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số lại không phải
là vấn đề đơn giản, mà còn rất nhiều phức tạp bởi vì còn có nhiều yêu tố tác
động đến như điều kiện cơ sở vật chất, chất lượng đội ngũ cán bộ giáo viên các
nhà trường, phụ huynh học sinh... Chính vì vậy cần phát huy những ưu điểm đã
3


đạt được, tìm ra những hạn chế, tồn tại để đưa ra các giải pháp chỉ đạo để tăng
cường tiếng Việt cho trẻ vùng DTTS. Nâng cao khả năng nhận thức cho trẻ, vốn
kinh nghiệm của trẻ, trẻ tiếp xúc với mọi người xung quanh bằng ngôn ngữ tiếng
Việt một cách dễ dàng hơn. Góp phần thúc đẩy chất lượng chăm sóc giáo dục
mầm non trong huyện luôn theo kịp chất lượng của các huyện miền xuôi. Giữ
vững là lá cờ đầu trong giáo dục mầm non của 11 huyện miền núi. Đó chính là

lý do tôi chọn đề tài này.
2. Thực trạng của việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non vùng dân tộc
thiểu số ở huyện Ngọc Lặc trước khi áp dụng sáng kiến
Huyện Ngọc Lặc là một huyện miền núi nằm ở phía tây của tỉnh Thanh
Hóa, có tổng số 24 trường mầm non, 402 nhóm, lớp 8646 trẻ. Trong đó, trẻ dân
tộc có 6890 cháu chiếm 79.6 % số trẻ trong trường. ( Dân tộc mường: 79.1 dân
tộc Dao 3%, dân tộc khác 2% ). Sau khi tiếp thu các chuyên đề, hội thảo tại
Tỉnh. Tôi được trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Ngọc Lặc phân công phụ
trách, chỉ đạo “ Tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số” đồng loạt
đến tất cả các trường mầm non trong toàn huyện. Qua quá trình triển khai và tổ
chức thực hiện. Tôi gặp một số thuận lợi khó khăn sau
2. 1.Thuận lợi:
- Các trường mầm non đã thực hiện tăng cường tiếng Việt (TCTV) cho
trẻ mầm non một cách linh hoạt, phù hợp với trình độ tiếng Việt của trẻ hơn; tích
cực tổ chức một số hoạt động như hội thi, giao lưu như: “Ngày hội đọc thơ, kể
chuyện cùng bé”, “Tự làm đồ dùng dạy học, đồ chơi TCTV”, xây dựng góc
“Thư viện thân thiện”, góc “Địa phương”… tạo nhiều cơ hội cho trẻ được giao
lưu tiếng Việt.
- Nhiều đơn vị đã quan tâm bổ sung thiết bị, đồ dùng dạy học, đồ chơi theo danh
mục quy định và phát triển phong trào tự làm đồ dùng dạy học, đồ chơi, đồng thời huy
động được cha mẹ trẻ tham gia làm đồ chơi, sưu tầm học liệu… cho trẻ sử dụng ở
trường.
- Tổ chức tập huấn hướng dẫn 100% giáo viên mầm non sử dụng tài liệu
“Hướng dẫn tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non vùng dân tộc thiểu số”.
- Một số đơn vị tích cực huy động được các nhà tài trợ, dự án, tổ
chức thiện nguyện bổ sung, nâng cấp các điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ ở vùng khó khăn, xây dựng môi trường TCTV cho trẻ ở trường, gia đình.
- Phòng giáo dục và đào tạo đã lựa chọn trường mầm non Vân Am, Đồng
Thịnh chỉ đạo thực hiện điểm Đề án nhằm rút kinh nghiệm trong quá trình chỉ
đạo thực hiện ở các trường có điều kiện, đặc điểm đặc thù tương đồng.

2.2. Khó khăn :
Tuy có rất nhiều thuận lợi song trong việc chỉ đạo và tỏ chức thực hiện ở
các nhà trường cũng còn gặp phải những khó khăn trong vấn đề “ Nâng cao chất
lượng tiếng Việt cho trẻ” đó là:
- Một số trường còn nhiều điểm trường, địa lý cách trở sông, suối, khó khăn
về giao thông, cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng, đồ chơi còn chưa đáp ứng được với
nhu cầu thực tế, thiếu giáo viên, chưa có chế độ chi trả cho giáo viên dạy trẻ vùng
dân tộc, điều kiện sinh hoạt của giáo viên còn thiếu thốn.
4


- Một số giáo viên còn hạn chế về năng lực, đặc biệt là giáo viên mới ra
trường dạy ở điểm trường lẻ nên ảnh hưởng tới chất lượng thực hiện chương
trình GDMN và chất lượng thực hiện tăng cường tiếng Việt cho trẻ.
- Đa số người giáo viên người kinh ở nơi khác đến giảng dạy ở các xã
vùng dân tộc thiểu số đều không biết tiếng dân tộc nếu biết cũng chỉ đứng trước
mức độ rất ít nên họ rất khó khăn trong việc So sánh đối chiếu liên hệ khi gặp
những tình huống cần thiết trong dạy học tiếng Việt cho trẻ.
Mặt khác do ít có điều kiện để tìm hiểu về phong tục tập quán không có
nhiều thời gian để tiếp xúc trao đổi tiếp cận với phụ huynh gia đình các em để
rút ngắn khoảng cách xóa ranh giới giữa cô và trò trình độ chuyên môn của
nhiều giáo viên địa phương còn hạn chế đa số qua những lớp đào tạo ngắn hạn
tiếp đó là đi học tại chức từ xa nhiều giáo viên đi giảng dạy nhiều năm nhưng
vẫn nói ngọng ngữ điệu chưa Rõ ràng chưa rõ chữ như vậy Việc truyền tải kiến
thức bằng tiếng Việt đến cho trẻ là rất khó khăn ăn. Số lượng giáo viên lớn tuổi
hạn chế trong trong việc sử dụng công nghệ thông tin, dẫn đến hạn chế việc
truyền thụ kiến thức đến với trẻ. Một số giáo viên chưa nhanh nhạy, sáng tạo
trong việc tiếp cận những vấn đề mới của bậc học.
Việc xây dựng môi trường “Tăng cường tiếng Việt” cho trẻ trong và ngoài
nhóm, lớp ở một số trường chưa thật sự chú trọng.

2.3. Kết quả thực trạng
Để đánh giá lại công tác quản lý, chỉ đạo và tổ chức hoạt động tăng cường
tiếng Việt cho trẻ thuộc vùng dân tộc thiểu số và chất lượng tiếng Việt của học
sinh. Tôi tiến hành đánh giá, khảo sát chất lượng “ Tăng cường tiếng Việt” trên
học sinh và khảo sát thăm dò ý kiến của cán bộ giáo viên qua “ Phiếu khảo sát”,
qua thanh kiểm tra thực tế các nhà trường... tôi đã thu được kết quả như sau:
2.3.1. Công tác quản lý, chỉ đạo
- Tổng số trường được khảo sát, đánh giá: 24 trường
TS
Kết quả trước khi áp dụng sáng kiến
trường Tốt- khá
Đạt yêu
Chưa đạt
ST
Nội dung khảo sát
được
cầu
yêu cầu
T
đánh SL % SL %
SL
%
giá
- Xây dựng môi trường
1 tiếng Việt trong và
24
6
25 10
42
8

33
ngoài nhóm lớp.
- Lồng ghép và tổ chức
2 các hoạt động tăng
24
10 42
8
33
6
25
cường Tiếng Việt.
- Công tác phối hợp
với phụ huynh để tăng
3
24
6
25 11
46
7
29
cường tiếng Việt cho
trẻ
2.3.1. Chất lượng “Tăng cường tiếng Việt” ở các trường mầm non
Từ công tác quản lý chỉ đạo cũng như việc tổ chức hoạt động của giáo
viên đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng “Ngôn ngữ tiếng Việt" của trẻ. Qua lựa
5


chọn ngẫu nhiên 220 học sinh mẫu giáo người dân tộc thiểu số ở 24 trường mầm
non trong Huyện để khảo sát trước khi tiến hành áp dụng các sáng kiến. Tôi thu

được kết quả như sau như sau:
TS
Kết quả trước khi
trẻ
áp dụng sáng kiến
MG
STT Nội dung khảo sát
Đạt
Chưa đạt
được SC % SC %
KS
- Hiểu nghĩa các từ khái quát, biết lắng
1
nghe, trao đổi với người đối thoại bằng 220 160 72 60
28
ngôn ngữ tiếng Việt.
- Biết dùng ngôn ngữ tiếng Việt để diễn
2
220 145 65 75
35
đạt thành những câu có nghĩa.
- Biết kể chuyện theo tranh minh họa theo
suy nghĩ của mình theo ngôn ngữ tiếng
3
220 135 61 85
39
Việt, đề nghị người khác đọc sách cho
nghe.
Từ kết quả khảo từ các nhà trường, từ các cán bộ quản lý, giáo viên và
học sinh tôi thấy còn nhiều tồn tại. Vì vậy tôi đã rất trăn trở, suy nghĩ và sau

một thời gian nghiên cứu tôi đã tìm ra “ Một số giải pháp chỉ đạo các trường
mầm non huyện Ngọc Lặc tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số”
để thực hiện trong năm học 2018- 2019. Các giải pháp cụ thể như sau:
3. Một số giải pháp chỉ đạo tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non vùng
dân tộc thiểu số ở huyện Ngọc Lặc năm học: 2018- 2019
3.1. Tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực tổ chức thực hiện TCTV
cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên mầm non.
Việc nâng cao nhận thức năng lực tổ chức thực hiện TCTV cho đội cán bộ
quản lý, giáo viên là việc làm cần đặt lên hàng đầu. Vì cán bộ quản lý, giáo viên
các nhà trường là người trực tiếp tiếp xúc với trẻ, giáo viên sử dụng khả năng sư
phạm của mình để truyền đạt cho trẻ những kiến thức cơ bản đầu tiên. Để trẻ dễ
hiểu, dễ cảm nhận được sự vật hiện tượng mà giáo viên đưa ra. Người giáo viên
không thể chỉ truyền đạt và không biết học sinh mình có hiểu hay không. Do vậy
tăng cường tiếng Việt là làm cho học sinh hiểu cô giáo đang nói gì? Và yêu cầu
mình phải làm gì? Chỉ có như thế mới giúp trẻ cảm nhận được vấn đề một cách
có hiệu quả.
Là người phụ trách chuyên môn bậc học mầm non tôi đã đã xây dựng kế
hoạch bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên về TCTV cho trẻ mầm non
và tham mưu cho Lãnh đạo phòng để thành lập đội ngũ cán bộ quản lý, giáo
viên cốt cán gần 20 người ở các cụm chuyên môn để triển khai hoạt động TCTV
cho trẻ em vùng DTTS. Công tác bồi dưỡng giáo viên về TCTV cho trẻ em vùng
DTTS không chỉ được Phòng GD&ĐT Huyện quan tâm mà còn thường xuyên
được đổi mới cả về nội dung và hình thức. Các hình thức bồi dưỡng được đa
dạng hóa thông qua các lớp tập huấn, hội thảo, hội thi, tham quan học tập, trao
đổi kinh nghiệm…
6


Cụm chuyên môn số 2
Cụm chuyên môn số 1

Hình ảnh hội thảo“ tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng DTTS” (Phụ lục 1)
Chỉ đạo các nhà trường có trẻ em vùng DTTS tăng cường các hoạt động
bồi dưỡng thông qua mô hình “sinh hoạt chuyên môn hai chiều” theo hình thức
liên tổ, liên trường, liên cụm; Khuyến khích đội ngũ giáo viên tự bồi dưỡng,
phát huy vai trò chủ động, sáng tạo trong hoạt động TCTV cho trẻ mầm non
vùng DTTS, tích cực nghiên cứu, áp dụng các phương pháp tổ chức các hoạt
động nhằm nâng cao chất lượng TCTV cho trẻ mầm non vùng DTTS; Xây dựng
các câu lạc bộ “Tiếng Việt với trẻ em DTTS”, “Giáo viên mầm non DTTS”…
qua đó nhằm chia sẻ những kinh nghiệm hay, giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong công
tác chăm sóc giáo dục trẻ nhằm TCTV cho trẻ DTTS.
Trên cơ sở cuốn tài liệu hướng dẫn chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ vùng dân
tộc thiểu số trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non 3 độ tuổi, Phòng đã
chỉ đạo các trường nghiên cứu xây dựng chương trình khung cho cả năm học
trong đó giáo viên phải có kế hoạch cụ thể nhằm cung cấp từ tiếng Việt cho trẻ
đảm bảo tính hệ thống logic và theo hướng phát triển.
Bằng các hình thức tổ chức chuyên đề, hội giảng về “ Tăng cường tiếng
Việt cho trẻ người dân tộc thiểu số” đổi mới hình thức sinh hoạt chuyên môn
theo hướng lấy trẻ làm trung tâm để bồi dưỡng kỹ năng, phương pháp cho giáo
viên dạy vùng dân tộc thiểu số góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Thông
qua hình thức này giáo viên đã được tập huấn những kiến thức cơ bản khi dạy
tiếng Việt cho trẻ bằng biện pháp trực quan hành động (hành động với cơ thể,
hành động với vật thật, hành động với câu chuyện....), giáo viên được dự và
quan sát các giờ sinh hoạt chuyên môn và việc đánh giá giáo viên được dựa trên
kết quả nhận thức, kỹ năng của trẻ từ đó khuyến khích giáo viên chủ động tìm
hiểu vốn tiếng Việt của trẻ, tìm tòi sáng tạo các phương pháp dạy trẻ học tiếng
Việt hiệu quả và tự rút ra kết luận cho mình để giúp trẻ học tốt hơn.
Hình ảnh một số giờ dạy mẫu lồng ghép tăng cường tiếng Việt ( Phụ lục 2)
Với các hình thức đã áp dụng, giáo viên đã có thêm nhiều kỹ năng trong
việc dạy tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là kỹ năng dạy trẻ phát
âm, nghe hiểu từ tiếng Việt và cung cấp được vốn từ vựng cho trẻ được nhiều

hơn.
Nội dung bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên cũng được lựa chọn có trọng
tâm theo từng năm học. Ngoài những nội dung bồi dưỡng theo chỉ đạo của Sở
7


GD&ĐT Thanh Hóa, tôi đã chủ động xây dựng bổ sung những nội dung phù
hợp với điều kiện, đặc điểm vùng miền của từng địa phương trong Huyện và
tham mưu cho Phòng GD&ĐT Ngọc Lặc triển khai thực hiện. Như: Công tác
phối hợp với cha mẹ trẻ, cộng đồng trong việc TCTV cho trẻ mầm non vùng
DTTS; Bồi dưỡng tiếng Việt cho cha mẹ trẻ…
Năm học: 2018- 2019, Phòng GD&ĐT đã đã tổ chức được 4 lớp tập huấn
về TCTV cho trẻ mầm non vùng DTTS cho các cụm chuyên môn. Ngoài ra,
100% các trường mầm non có trẻ DTTS đã tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên
bằng cách lồng ghép vào các hội thảo, sinh hoạt chuyên môn, sinh hoạt chuyên
môn liên trường, liên cụm. Theo đó, trên 80% giáo viên đã được nâng cao năng
lực và nhận thức về xây dựng kế hoạch, tạo môi trường giáo dục, tổ chức các
hoạt động TCTV cho trẻ mầm non vùng DTTS.
3.2. Tiếp tục quan tâm, chú trọng “ Xây dựng môi trường tiếng Việt cho
trẻ học tập" ở các trường mầm non
3.2.1. Tạo môi trường tiếng Việt trong lớp học
Môi trường lớp học đóng một vai trò quan trọng trong việc dạy và học, nó
quyết định phần lớn tới chất lượng dạy học của các nhà trường. Đối với các
trường dạy chương trình tăng cường tiêng Việt thì việc tạo môi trường tiếng
Việt trong lớp lại càng có ý nghĩa lớn lao hơn đối với trẻ. Bởi trẻ em lứa tuổi
mầm non " Trẻ học mà chơi, chơi mà học" thông qua chơi để trẻ lĩnh hội kiến
thức và phát triển toàn diện. Đối với trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ rất hiếu động
nhưng thời gian tập trung chú ý lại rất ngắn. Việc tạo môi trường đầy ngôn ngữ
tiếng Việt mà lại thật vui mắt, sinh động cũng sẽ là một trong những cơ hội, là
một trong những con đường rất tốt đưa trẻ đến nhanh hơn, gần hơn với ngôn ngữ

tiếng Việt, qua đó giúp ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ được phát triển.
Hiểu rõ được điều đó ngay từ đầu năm học tôi đã cùng với các đồng chí
chuyên môn cốt cán trong Huyện thống nhất các nội dung và định hướng để các
nhà trường tiếp tục xây dựng kế hoạch tạo môi trường tiếng Việt trong lớp cho
trẻ học tập.
Môi trường giáo dục được xây dựng phù hợp với nội dung giáo dục của
từng độ tuổi, từng chủ đề phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu, nội dung
giáo dục nói chung và nội dung dạy tăng cường tiếng Việt nói riêng của các lớp.
Môi trường của các nhóm, lớp phải tạo cho trẻ có nhiều cơ hội học tập và
được hoạt động với môi trường tiếng Việt, cho dù trẻ học trong lớp đơn hay lớp
mẫu giáo ghép.
Tùy điều kiện thực tế của nhà trường và lớp học, giáo viên phân chia lớp
thành các góc khác nhau, có thể tạo các góc mở để trẻ có nhiều cơ hội tham gia
học tập tại các góc đó. Các góc được sắp xếp ngăn nắp, gọn gàng, đảm bảo yêu
cầu về xây dựng môi trường vật chất. Các góc mở được tạo ra với các hoạt động
phù hợp.
Ví dụ: Góc thư viện: có tranh ảnh lô tô theo chủ đề, sách tranh hoặc
truyện tranh, các thẻ chữ cái tiếng Việt...; Góc tạo hình: có những bức tranh đẹp,
giấy bút để trẻ trải nghiệm tạo thành các nét mà trẻ muốn thể hiện. Điều quan
trọng là trẻ được tập và chuẩn bị cho việc học sau này.
8


Việc sắp xếp các góc hoạt động trong lớp phải hợp lí, thuận tiện và có đủ
không gian cho trẻ hoạt động , các góc yên tĩnh như góc ( học tập, nghệ thuật)
phải xa góc động ( góc xây dựng, góc phân vai). Sử dụng các giá, bảng để làm
hàng rào ngăn cách các góc chơi nhưng phải có độ cao vừa phải để không làm
che khuất tầm nhìn. Thường xuyên hay đổi nội dung các góc chơi trong từng chủ
đề nhằm tạo sự hứng thú, kích thích trẻ tham gia hoạt động.
Trang trí môi trường trong lớp, bố trí tranh ảnh ở các góc chơi luôn đảm

bảo thẩm mĩ, mang tính mở, trang trí những hình ảnh gần gũi với cuộc sống của
trẻ. Ở mảng chủ đề giáo viên có thể trang trí bằng những sản phẩm của cô và trẻ
cùng làm trong quá trình khai thác chủ đề, tạo sự mới mẻ, hấp dẫn, kích thích trẻ
hoạt động.
Nội dung trang trí các góc chơi phải phù hợp với tên gọi của góc để trẻ dễ
dàng nhận biết. Tên các góc chơi luôn được viết to theo đúng quy định mẫu chữ
để giúp trẻ làm quen với Tiếng Việt. Tên các góc chọn những tên đơn giản, gần
gũi, dễ hiểu phù hợp nội dung chủ đề đang thực hiện và phù hợp với đặc điểm
của từng trường.
Một số hình ảnh môi trường trong lớp ở các trường mầm non ( Phụ lục 3)

Trong lớp có một góc truyền thống để trưng bày những nét văn hóa của
người dân tộc mường, mỗi đồ vật được gắn với tên gọi để trẻ cảm nhận được
những hình ảnh gần gũi quen thuộc ở gia đình và được làm quen với các từ bằng
ngôn ngữ tiếng Việt.
Một số hình ảnh góc truyền thống trong lớp ở các nhà trường ( phụ lục 4)

9


Ngoài ra các nhà trường còn phát động giáo viên làm thêm đồ dùng tự tạo
từ phế liệu, nguyên vật liệu sẳn có tại địa phương, đồ chơi phù hợp với từng chủ
đề nhưng có thể sử dụng cho nhiều hoạt động khác nhau. Mỗi đồ chơi được gắn
với các từ để trẻ làm quen.
Các đồ dùng cá nhân của trẻ có kí hiệu riêng (Với trẻ mẫu giáo ký hiệu có
thể là con số, hoặc chữ cái, hoặc tên của trẻ…) giúp trẻ làm quen với Tiếng Việt,
đồng thời giúp trẻ tự lấy, cất đồ dùng mà không cần sự trợ giúp của cô.
Như vậy ta thấy rằng: Môi trường trong lớp đã cho trẻ có nhiều cơ hội học
tập và được hoạt động với môi trường tiếng Việt.
3.2.2. Tạo môi trường tiếng Việt ngoài lớp học

Cảnh quan môi trường ngoài lớp học cũng vô cùng cần thiết đối với quá
trình giáo dục trẻ đặc biệt là việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ. Vì vậy ngay từ
đầu năm học song song với việc chỉ đạo xây dựng môi trường trong lớp, tôi đã
chỉ đạo các nhà trường cần phải quan tâm đến việc xây dựng môi trường tiếng
Việt ngoài lớp học cho trẻ khám phá khi hoạt động ngoài trời.
Cần chú ý thiết kế xây dựng môi trường hoạt động cho trẻ ngoài lớp học,
( như góc thiên nhiên, góc vận động..) tận dụng các điều kiện cơ sở vật chất sẵn
có của trường, tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có tại địa phương để giao nhiệm
vụ cho trẻ, khuyến khích trẻ giao tiếp, tương tác với nhau bằng tiếng Việt.
- Với khu thiên nhiên thì sưu tầm trồng các loại rau phù hợp theo mùa như
mùa đông trồng bắp cải, xu hào, xà lách; mùa hè gieo rau rền, mùng tơi; Mùa
thu gieo rau cải,…Mỗi một loại rau phải có biển chữ đầy đủ để khi trẻ được
quan sát khám phá cây xanh cùng một lúc có thể giúp trẻ làm quen với các chữ
cái, các từ là tên các loại rau….
Ví dụ: xây dựng góc thiên nhiên cho trẻ được chơi với cát, nước, chăm
sóc cây.. để cho trẻ được chơi theo nhóm và khuyến khích trẻ giao tiếp với nhau
bằng tiếng Việt trong quá trình trẻ chơi
. * Khu phát triển vận động
Để tăng cường giáo dục phát động cho trẻ đồng thời lồng ghép tăng
cường tiếng Việt cho trẻ. Mỗi trường đều đã xây dựng được khu phát triển vận
động riêng biệt, các đồ dùng, đồ chơi cho trẻ phần lớn đều là những nguyên vật
liệu sẳn có tại địa phương như lốp ô tô, xe máy hỏng, luồng, tre, nứa, gỗ..... Các
bộ đồ chơi đều được các nhà trường gắn từ cho trẻ làm quen
10


Hình ảnh khu phát triển vận động của một số trường ( phụ lục 5)

Như vậy, qua việc chỉ đạo cho các nhà trường xây dựng môi trường tiếng
Việt trong và ngoài nhóm, lớp. Bằng sự sáng tạo của mình, giáo viên ở các nhà

trường đã tạo ra nhiều góc lớp đẹp, trang trí khoa học, cảnh quan môi trường
xanh, sạch, đẹp, gắn với văn hóa của địa phương, bản sắc dân tộc đã giúp trẻ trải
nghiệm cảm giác thân quen, trẻ được tắm mình trong môi trường ngôn ngữ tiếng
Việt. Trẻ có cơ hội tăng cường phát âm tiếng Việt qua sử dụng các vật dụng gần
gũi, các đồ chơi, đồ vật có gắn từ, tên gọi.... Từ đó mà vốn tiếng Việt của trẻ
ngày càng được củng cố.
3.2.3. Tạo môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt tích cực, gần gũi, thân thiện...
gắn liền với các hoạt động trải nghiệm.
Khi trẻ bất đồng về ngôn ngữ với cô, với các bạn trẻ sẽ thấy mình lạc
lõng, tự thu mình lại, không trò chuyện, không tham gia vào các hoạt động tập
thể. Vì vậy, việc gần gũi, yêu thương, tôn trọng và đối xử công bằng với trẻ có
vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ.
Chính vì vậy, để giúp trẻ nhanh chóng hòa nhập với các bạn, với cô giáo.
Trước hết giáo viên cần tôn trọng trẻ coi trọng những điều trẻ thích thích thú,
tìm hiểu những điều trẻ đang quan tâm. Giáo viên cần thường xuyên trò chuyện
với trẻ để hiểu tâm tư nguyện vọng sở thích và khả năng trẻ sự quan tâm của trẻ
cần được thể hiện qua hành vi của giáo viên
Ví dụ: như lắng nghe trẻ nói/ trình bày, trả lời trẻ khi trẻ có nhu cầu hay
hỏi chơi cùng trẻ....
Có thể tạo những nhóm chơi có 4-5 trẻ cùng chơi và trò chuyện với nhau
bằng tiếng Việt. Nếu có thể giáo viên sắp xếp trẻ tốt tiếng Việt với trẻ kém hơn
trong cùng một nhóm chơi để trẻ có cơ hội học hỏi lẫn nhau.
Các nhóm, lớp tạo tạo ra môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt tích cực
thông qua nhiều hình thức như: tổ chức các giờ học tiếng Việt cho trẻ vào các
buổi chiều trong tuần, tổ chức các trò chơi ngôn ngữ, các hoạt động giáo dục
khác có tăng cường sự giao lưu, giao tiếp bằng tiếng Việt giữa trẻ - trẻ, giữa trẻ cô và những người xung quanh.
Riêng đối với lớp mẫu giáo ghép, môi trường tiếng Việt đã quan tâm đến
tính phù hợp với sự khác biệt về nội dung giáo dục của các độ tuổi, về văn hóa
của các dân tộc có trong lớp. Đặc biệt là môi trường giao tiếp tiếng Việt tăng
cường sự giao tiếp giữa trẻ các độ tuổi với nhau (cùng độ tuổi, khác độ tuổi) và

11


có sự đan xen về độ tuổi cũng như trình độ tiếng Việt để trẻ có nhiều cơ hội học
tập và chia sẻ, không kỳ thị hoặc phân biệt đối xử.
Để giúp trẻ thêm mạnh dạn, tự tin và tạo thêm nhiều cơ hội để cho trẻ
được giao lưu, giao tiếp cùng với mọi người, các nhà trường đã quan tâm cho trẻ
được trải nghiệm qua tổ chức các hoạt động lễ hội cho trẻ tham gia như: “Tết
trung thu”, “Hội chợ xuân”, “Ngày hội mùng 8/3”..... để trẻ trải nghiệm kĩ năng
giao tiếp, sự mạnh dạn, tự tin và mở rộng được vốn từ cho trẻ.
Hình ảnh “ Hội chợ xuân” ( Phụ lục 6)

Ngoài việc tổ chức các lễ hội ở trường, khuyến khích các nhà trường tổ
chức các hoạt động trải nghiệm cho trẻ bằng nhiều hình thức khác nhau, với
phương pháp tổ chức linh hoạt, chú trọng vào các hoạt động chủ đạo của lứa
tuổi, tạo ra các cơ hội tốt cho trẻ trải nghiệm và hoạt động tích cực phù hợp với
nhu cầu. Có thể tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho trẻ ngoài trường học như:
đi tham quan, dã ngoại gắn liền với các chủ đề:
Ví dụ: như chủ đề “ tết và mùa xuân” các nhà trường tổ chức cho trẻ đi
siêu thị,; chủ đề “ Quê hương đất nước” các nhà trường lại tổ chức cho trẻ đi
tham quan: “ Đền Tép”, “ Khu di tích lịch sử Lam Kinh”, Nhà bia tưởng niệm
các anh hùng Liệt sĩ….

Một số hình ảnh hoạt động tham quan của các nhà trường ( Phụ lục 7)
Tăng cường tiếng Việt gắn với hoạt động trải nghiệm là cách kết nối kiến
thức, kỹ năng với thực tiễn cuộc sống phong phú, sinh động mà trẻ em đã và sẽ
trải qua trong cuộc sống. Qua hoạt động trải nghiệm không chỉ giúp hình thành
12



kiến thức mới mà quan trọng hơn là đã tạo cho trẻ thêm mạnh dạn, tự tin hơn
trong giao tiếp, trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động... Từ đó mà vốn tiếng Việt
của trẻ được mở rộng và phong phú hơn.
3.3. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc tăng
cường tiếng Việt cho trẻ
Việc kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc chăm
sóc giáo dục trẻ và nhất là trong việc “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non
vùng dân tộc thiểu số” là một việc làm không thể thiếu. Bời vì, trong sinh hoạt
gia đình, cộng đồng hầu hết các em DTTS chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ, nên khi
bước vào môi trường giáo dục, tiếng Việt trở thành ngôn ngữ thứ hai của các em.
Do đó, việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc tăng cường
chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mầm vùng DTTS là rất quan trọng.
Để tiếp tục chỉ đạo tăng cường tiếng Việt có hiệu quả, phòng giáo dục đã
chỉ đạo các nhà trường tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng mục
đích, ý nghĩa và sự cần thiết của kế hoạch thực hiện Đề án tăng cường tiếng Việt
cho trẻ em Mầm non vùng dân tộc thiểu số, trong đó tập trung hướng dẫn, hỗ trợ
các bậc cha mẹ tham gia tăng cường tiếng Việt cho trẻ em qua việc tạo cơ hội,
môi trường giao tiếp; tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ; từ đó góp phần
xây dựng môi trường tiếng Việt tại gia đình và cộng đồng.
Chỉ đạo các đơn vị trường thực hiện tốt việc phối kết hợp với cha mẹ học
sinh và các ban, ngành, đoàn thể để xây dựng mô hình câu lạc bộ tăng cường
tiếng Việt; để việc đảm bảo tăng cường tiếng Việt cho trẻ em ở mọi lúc, mọi nơi,
đa dạng, linh hoạt cả trong nhà trường, gia đình và xã hội.
Các nhà trường kết hợp với cha mẹ học sinh tận dụng nguồn nguyên vật
liệu sẵn có của địa phương như: vỏ ốc núi, vỏ trứng gà- vịt, nan tre- nứa, quả cầu
lông, vỏ ống cầu lông, vỏ hộp các loại nước giải khát, các hộp xốp, vỏ hộp
thuốc, vỏ hộp dầu rửa bát… làm đồ dùng có ghi tên đồ vật tương ứng giúp trẻ
phát triển tiếng Việt. Phối hợp xây dựng môi trường tiếng Việt trong và ngoài
nhóm lớp cho trẻ hoạt động, tổ chức các hoạt động trải nghiệm để tạo cơ hội để
trẻ được giao tiếp nhiều hơn.

Tuyên truyền tác dụng của việc tổ chức dạy tiếng Việt cho trẻ để đông đảo
phụ huynh hưởng ứng và ủng hộ nhiệt tình, trong vấn đề tạo dựng cảnh quan
môi trường trong lớp đẹp, hấp dẫn đối với trẻ. Lôi cuốn trẻ hứng thú đến trường
ngày càng đông.
Nhà trường chủ động tham mưu với các ban, ngành, đoàn thể ở địa
phương, để được quan tâm hỗ trợ ngày công, tiền công về việc xây dựng môi
trường hoạt động dạy tiếng Việt cho trẻ ngày thêm phong phú, hấp dẫn.
Các trường mầm non, trực tiếp là giáo viên thường xuyên phối hợp với gia
đình học sinh để trao đổi và hướng dẫn cha mẹ các em cùng tạo ra môi trường
nói tiếng Việt trong gia đình, để các em thường xuyên được giao tiếp bằng tiếng
Việt.
Ví dụ: khi ở nhà phụ huynh nên giao tiếp với con bằng tiếng Việt nhiều
hơn. Tạo điều kiện cho con được đến các lớp nhà trẻ, mẫu giáo để được làm
quen với tiếng Việt ngay từ khi trẻ bắt đầu biết nói. Thường xuyên phối hợp với
13


giáo viên và nhà trường để có những điều chỉnh, hỗ trợ tăng cường tiếng Việt
cho trẻ.
Đẩy mạnh việc phối hợp tạo môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt từ ngay
trong nhà trường và trong gia đình trẻ, phối hợp chặt chẽ với cha mẹ trẻ, thường
xuyên giao tiếp với trẻ bằng tiếng Việt ngay tại gia đình. Đồng thời, có các biện
pháp tuyên truyền để khuyến khích cộng đồng nơi trẻ đang sinh sống tăng cường
giao tiếp với trẻ bằng tiếng Việt.
Các trường mầm non đã lồng ghép tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa của
việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non vùng dân tộc thiểu số với phụ
huynh và cộng đồng qua các buổi họp phụ huynh, họp bản; các tiêu chí xây
dựng môi trường tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số; cách
thiết kế khu vui chơi và các khu vực cho trẻ được hoạt động trải nghiệm theo ý
thích…

Năm học: 2018- 2019 đa số các trường mầm non trong Huyện đã làm tốt
công tác phối hợp với phụ huynh để xây dựng môi trường tiếng Việt trong và
ngoài nhóm lớp. 80% phụ huynh đã biết được tầm quan trọng của tiếng Việt đối
với trẻ mầm non và đã phối kết hợp tốt với nhà trường, giáo viên để tăng cường
tiếng Việt cho trẻ.
4. Hiệu quả của sáng kiến:
Qua việc tổ chức thực hiện các giải pháp để tăng cường tiếng Việt cho trẻ
vùng dân tộc thiểu số ở 24 trường mầm non trong toàn Huyện. Tôi đã thu được
kết quả như sau
1. Đối với công tác quản lý, chỉ đạo
- Các trường đã quan tâm xây dựng môi trường tiếng Việt trong và ngoài
nhóm lớp, đẹp, hấp dẫn. Bằng sự sáng tạo của mình, giáo viên ở các nhà trường
đã tạo ra nhiều góc lớp đẹp, trang trí khoa học, cảnh quan môi trường xanh,
sạch, đẹp, gắn với văn hóa của địa phương, bản sắc dân tộc. Tạo nên sự gần gũi,
thân thiện, giúp trẻ nhanh chóng hòa nhập với các bạn
- Các giáo viên đã có kỹ năng trong lồng ghép tiếng Việt và tổ chức các
hoạt động tiếng Việt cho trẻ.
- Các nhà trường làm tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh để tăng
cường cơ sở vật chất và tăng cường thêm vốn tiếng Việt cho trẻ. Hiệu quả cụ thể
như sau:
Nội dung khảo
sát
- Xây dựng môi
trường tiếng Việt
trong và ngoài
nhóm lớp.
- Lồng ghép và
tổ chức các hoạt

TS

Kết quả trước khi áp dụng
trường
sáng kiến
được
Chưa
TốtĐạt yêu
đánh
đạt yêu
khá
cầu
giá
cầu
SL % SL % SL %

Kết quả trước khi áp dụng
sáng kiến
Chưa
TốtĐạt yêu
đạt yêu
khá
cầu
cầu

24

6

25

10


42

8

33

20 83

4

17

24

10

42

8

33

6

25

21

3


13

87

14


động tăng cường
Tiếng Việt.
- Công tác phối
hợp với phụ
huynh để tăng
cường tiếng Việt
cho trẻ

24

6

25

11

46

7

29


20

83

4

17

2.3.1. Đối với chất lượng tiếng Việt ở các nhà trường
Từ công tác quản lý chỉ đạo quan tâm đến công tác bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ giáo viên, việc xây dựng môi trường tiếng Việt, phối kết hợp với phụ
huynh ở các nhà trường.... chất lượng “Ngôn ngữ tiếng Việt" ở các nhà trường đã
có chuyển biến rõ rệt. Qua khảo sát 220 học sinh mẫu giáo người dân tộc thiểu
số ở 24 trường mầm non trong Huyện sau khi áp dụng các sáng kiến. Tôi thu
được kết quả như sau:
ST
T

1

2

3

Nội dung khảo sát

- Hiểu nghĩa các từ khái
quát, biết lắng nghe, trao
đổi với người đối thoại
bằng ngôn ngữ tiếng Việt.

- Biết dùng ngôn ngữ tiếng
Việt để diễn đạt thành
những câu có nghĩa.
- Biết kể chuyện theo tranh
minh họa theo suy nghĩ
của mình theo ngôn ngữ
tiếng Việt, đề nghị người
khác đọc sách cho nghe.

TS trẻ Kết quả trước khi
MG áp dụng sáng kiến
được
Chưa
Đạt
KS
Đạt

Kết quả sau khi áp
dụng sáng kiến
Chưa
Đạt
Đạt

SC

% SC %

SC

%


220

160

72

60

28

218

99

220

145

65

75

35

215

98

220


135

61

85

39

210

95

SC

%

Trong năm học 2018-2019, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện
Ngọc Lặc đã chỉ đạo 24/24 đơn vị trường Mầm non tổ chức tăng cường tiếng
Việt cho trên 402 nhóm lớp với hơn 6890. trẻ dân tộc thiểu số được tăng
cường tiếng Việt. Đến nay, các đơn vị trường đã tổ chức được hơn 30 hoạt
động như phiên chợ ngày Xuân của bé, Tết Trung thu, ngày Quốc tế Thiếu
nhi 1/6; tổ chức cho trẻ đi tham quan các khu di tích lịch sử, các danh lam
thắng cảnh của địa phương, đọc thơ cho học sinh dân tộc mời cha mẹ trẻ cùng
tham gia. Tính đến tháng 5/2019, huyện Ngọc Lặc đã có 4 cụm trường tổ
chức sinh hoạt chuyên môn với 12 hoạt động giáo dục có lồng ghép tăng
cường tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số và đạt hiệu quả chất lượng tốt.
Tôi tin tưởng rằng, khi tiếp tục áp dụng các giải pháp này trong suốt quá
trình chỉ đạo tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số thì kết đạt được
ở các năm học sẽ còn cao hơn nữa.

15


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Từ những kết quả đã đạt được trong việc đưa ra một số giải pháp nhằm
“Nâng cao chất lượng tiếng Việt cho trẻ mầm non vùng dân tộc thiểu số” ở
huyện Ngọc Lặc. Bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Cần phải tiếp tục quan tâm, nâng cao nhận thức và năng lực tổ chức thực
hiện TCTV cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên mầm non
Cần có sự chỉ đạo sáng suốt của người quản lý trong nhà trường. Người
quản lý phải thật sự sâu sát, nắm vững được chất lượng của từng lĩnh vực
chuyên môn mình được phân công phụ trách. Nắm bắt được năng lực, những
sáng tạo, những hạn chế của mỗi giáo viên, nắm rõ chất lượng giáo dục trẻ từng
độ tuổi và điểm mạnh, điểm yếu của học sinh nhất là bám sát vào các chuyên đề
trọng tâm của năm học… Để từ đó nghiên cứu để đưa ra những biện pháp hay
trong chỉ đạo chuyên môn; Lên kế hoạch phù hợp; Sáng tạo trong các hoạt động
như : Tổ chức hội thi trang trí lớp “Tạo môi trường tiếng Việt cho trẻ học tập”
Thi “Thiết kế, sáng tạo, giải quyết các tình huống hay”… Nhằm ngày một nâng
cao chất lượng tiếng Việt cho trẻ.
- Chú trọng “ Xây dựng môi trường tiếng Việt cho trẻ học tập" ở các
trường mầm non. Đổi mới trong việc tạo môi trường giáo dục, kích thích và tạo
cơ hội cho trẻ tích cực khám phá, thử nghiệm và sáng tạo ở các hoạt động giao
tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt.
- Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc tăng
cường tiếng Việt cho trẻ. Làm tốt công tác tham mưu, xã hội hóa giáo dục, tuyên
truyền vận động phụ huynh và các đoàn thể, chính quyền địa phương... để tăng
cường cơ sở vật chất và các điều kiện đồ dùng, đồ chơi, học liệu cho trẻ hoạt
động. Xóa bỏ những tập tục thói quen lạc hậu của địa phương làm ảnh hưởng
đến việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ.

II. Ý kiến đề xuất:
Để từng bước giúp trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số ngày càng nâng cao
chất lượng ngôn ngữ tiếng Việt tôi xin đề xuất một số vấn đề sau:
Các đơn vị cần tăng cường tổ chức các lễ hội để trẻ được tham gia, tăng
cường sự giao tiếp, giao lưu cho trẻ .
UBND Huyện cần quan tâm hỗ trợ kinh phí để các trường mầm non mua
sắm thêm các trang thiết bị theo đúng tiêu chuẩn
Xây dựng các phòng học, phòng chức năng còn thiếu để các nhà trường
đủ điều kiện cho hoạt động dạy và học.
Trên đây là "Một số giải pháp chỉ đạo tăng cường tiếng Việt cho trẻ ở các
trường mầm non vùng dân tộc thiểu số ở huyện Ngọc Lặc” Những gì đạt được
còn rất khiêm tốn và mới chỉ là nền tảng cho những năm tiếp theo. Rất mong
nhận được sự góp ý, nhận xét của hội đồng khoa học các cấp để bản thân tôi có
được những kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo tăng cường tiếng Việt cho trẻ
mầm non vùng dân tộc thiểu số nói riêng và nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo
dục trẻ nói chung./.
16


Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Ngọc Lặc, ngày 08 tháng 4 năm 2019
………………………………………………
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
…………………………………………………
không sao chép nội dung của người khác.
………………………………………………
Người viết
………………………………………………
………………………………………………

………………………………………………
Phạm Thị Anh

17



×