Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tạo hứng thú cho học sinh khi học tiết ôn tập bài hát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.47 KB, 20 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đế tài:
- Trong thời kỳ hiện nay Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng giáo dục con
người để phát triển toàn diện, đặc biệt là thế hệ trẻ.
- Qua đó giáo dục đã trở thành nhân tố tích cực, một động lực thúc đẩy sự
sản xuất mà sản phẩm chính là nguồn nhân lực cho xã hội, mở đường cho sự
phát triển kinh tế, khoa học công nghệ, văn hóa…. Phân môn âm nhạc cùng với
các môn học khác trong nhà trường sẽ hình thành cho người học một nhân cách
sống của con người lao động mới trong thời đại mới mà mục tiêu giáo dục của
Đảng ta là đào tạo con người biết tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng lực giải
quyết vấn đề thực tiễn đặt ra. Qua đó góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Âm nhạc còn mang lại cho thế hệ trẻ sự vui
tươi, lành mạnh và tác động mạnh đến các mặt giáo dục như: Giáo dục đạo đức,
giáo dục trí tuệ.
Từ khi còn trong bào thai đến khi lọt lòng mình đã được nghe tiếng ru,
tiếng ầu ơ của bà, của mẹ. Môn Âm nhạc giúp các em hướng tới cái đẹp, góp
phần giáo dục các em trở thành những người có đạo đức. Ngoài ra nó còn giúp
các em có tâm hồn phong phú và bớt mệt mỏi sau những giờ học căng thẳng Âm
nhạc cũng theo ta khi ta bắt đầu đi học và cũng từ đó âm nhạc giúp ta phát triển
được ở ‘’Đức’’, ‘Trí’’,’’Thể’’, ‘’Mĩ’’.
Trong chương trình Âm nhạc ở Tiểu học, Ôn tập bài hát cũng là nội dung
trọng tâm, được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 5, đây cũng là phân môn học sinh yêu
thích nhất. Ôn tập bài hát có ba dạng là: ôn tập bài hát thiếu nhi Việt Nam, ôn
tập các bài hát dân ca và ôn tập các bài hát nước ngoài.
Khả năng âm nhạc của học sinh Tiểu học có sự phát triển rõ rệt từ lớp 1 đến
lớp 5. Ví dụ học sinh lớp 1, 2 có trí nhớ còn hạn chế, các em khó học thuộc
những bài hát có lời ca tương đối dài hoặc có nhiều lời ca. Đến lớp 4, 5, khả
năng ghi nhớ của học sinh đã được nâng cao hơn so với giai đoạn trước. Biểu
hiện về năng lực âm nhạc của học sinh rất khác biệt, mỗi lớp thường có cả
những em học khá giỏi, trung bình và học yếu. Cũng có những học sinh có năng
1




khiếu ở mặt này nhưng lại yếu ở mặt khác, ví dụ: hát đúng về cao độ thì lại chưa
vững về trường độ, có khả năng gõ đệm tốt nhưng lại yếu về vận động theo
nhạc… Đa số học sinh có khả năng hát kết hợp các hoạt động khác như: vận
động theo nhạc, gõ đệm, tham gia trò chơi… Hứng thú, sở thích âm nhạc của
học sinh không hoàn toàn giống nhau, cảm nhận thẩm mĩ âm nhạc của các em
cũng khác biệt.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Trong thời kỳ đổi mới và phát triển, ca hát là món ăn tinh thần cho con
người cũng như trong chương trình giáo dục ở các cấp học. Đối với tiểu học thì
đây là kiến thức ban đầu giúp học sinh học và biết ca hát theo một quy định
chung nhất, nhưng qua thực tế việc giảng dạy phân môn này ở trường tiểu học
tôi thấy còn nhiều khó khăn như: Ngoài sự quan tâm của ngành giáo dục, sự
quan tâm của ban giám hiệu và giáo viên trong nhà trường thì mong muốn của
tôi là giáo viên âm nhạc phải thực sự đồng bộ từ cấp mầm non, tiểu học vì khi
không có sự đồng bộ thì sự truyền thụ kiến thức sẽ gặp nhiều khó khăn cho các
cấp sau.
Các trang thiết bị như: Máy nghe nhạc, nhạc cụ, phòng học âm nhạc cần
được xây dựng thật phù hợp để việc học được đạt kết quả cao. Bản thân giáo
viên âm nhạc cần phải năng động, sáng tạo để tuyên truyền thuyết phục để tạo
sự lôi cuốn, thích học âm nhạc đối với các em học sinh nhất là các em lứa tuổi từ
lớp 1 đến lớp 5.
Sau 3 năm dạy học Âm nhạc, tôi đã thực hiện nhiều tiết dạy ôn tập bài hát
cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 5 ở trường Tiểu học Đông Vệ 1, tp Thanh Hóa và
thu được nhiều kinh nghiệm sư phạm cũng như những phương pháp dạy học
phù hợp. Nhờ tích luỹ được một số kinh nghiệm nên việc dạy các bài ôn tập cho
các em ngày càng trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Tôi lựa chọn đối tượng nghiên cứu là: “ Tạo hứng thú cho học sinh trong

tiết ôn tập bài hát”

2


Các vấn đề về dạy 1 bài hát ôn tập, gây được sự hứng thú, thích học ôn tập
để được vận động cũng như được tham gia các trò chơi lồng ghép trong tiết ôn
tập bài hát của học sinh trường Tiểu học Đông Vệ 1,tp Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Qua quá trình học tập, nghiên cứu, hướng dẫn, cộng với thực tiễn trong quá
trình dạy. Các phương pháp giúp tôi tập trung vào nghiên cứu đó là:
- Phương pháp quan sát thực tế.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
- Trình bày những kinh nghiệm thu được sau quá trình nhiều năm dạy ôn
tập bài hát cho học sinh Tiểu học.
- Trình bày hiệu quả thu được sau khi áp dụng những kĩ thuật dạy ôn tập.
- Đọc và nghiên cứu một số tài liệu về giáo dục Âm nhạc trong trường phổ
thông ở Việt Nam.
- Trao đổi với đồng nghiệp về những kết quả thu được, điều chỉnh cho phù
hợp với thực tế dạy học tại nhà trường.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
- Như chúng ta đã biết âm nhạc có một vai trò rất to lớn, nó đem đến những
khoái cảm thẩm mĩ cao, là món ăn tinh thần không thể thiểu của mỗi con người.
Trong những năm qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo âm nhạc có điều kiện phát
triển những bước cao hơn. Cho đến nay việc đưa âm nhạc vào trường học đã
được chú trọng vì những lợi ích quan trọng trong việc giáo dục hình thành nhân
cách cho học sinh trở thành những con người toàn diện.
Ngày mới vào nghề, tôi thấy có nhiều khó khăn khi dạy các tiết ôn tập cho

học sinh. Ví dụ: học sinh thường hát rất buồn, kinh nghiệm chưa nhiều nên các
tiêt dạy thường lặp đi lặp lại các bước, gây ra một tiết học hơi nhàm chán…
Trong quá trình dạy học, tôi đã suy nghĩ để tìm biện pháp khắc phục những hạn
chế mà mình còn gặp phải. Đến nay, việc dạy những bài ôn tập này đã trở nên dễ

3


dàng hơn, đó là nhờ việc áp dụng phương pháp cũng như kế hoạch cụ thể mà
mình xây dựng được trong quá trình giảng dạy.
Học bài hát mới trong một tiết, sẽ vẫn còn nhiều học sinh chưa hát đúng
giai điệu, chưa thuộc lời ca, chưa cảm nhận sâu về vẻ đẹp của bài hát, ôn tập bài
hát nhằm khắc phục những hạn chế đó.
Mục tiêu tóm tắt của hoạt động ôn tập bài hát nhằm giúp học sinh hát thuộc
lời ca, hát đúng hơn, hát hay hơn và yêu thích bài hát hơn. Mục tiêu cụ thể là
giúp học sinh củng cố lại kiến thức đã học, luyện tập các kĩ năng trình bày bài
hát, giúp học sinh có cảm thụ âm nhạc tốt hơn, tạo các em thêm tự tin, có điều
kiện trình bày bài hát đã học, phát huy tính tích cực của học sinh, phát triển tư
duy sáng tạo của các em.
Việc ôn tập bài hát là không cần thực hiện theo một trình tự nào, tuỳ vào đặc
điểm riêng của từng bài hát mà giáo viên chọn các hoạt động thích hợp. Với thời
gian có hạn, mỗi lần ôn tập, giáo viên chỉ nên chọn một vài hoạt động trong số
nhiều hoạt động sau: Thông thường, mỗi bài hát được dạy trong một tiết, sau đó
được ôn tập trong một hoặc hai tiết tiếp theo. Khi dạy một bài hát, giáo viên
thường tiến hành theo các bước sau:
- Giới thiệu bài hát: Ngoài giới thiệu tên bài, tên tác giả, xuất xứ, nội dung,
chủ đề…Nếu là dân ca, nên có giới thiệu về vùng, miền.
- Tìm hiểu bài: đọc lời ca, chia đoạn, chia câu: giáo viên hướng dẫn học
sinh đọc lời sau đó chia đoạn, chia câu để thuận lợi cho việc luyện tập từng câu.
- Nghe hát mẫu: giáo viên có thể tự trình bày bài hát với sự chuẩn bị chu

đáo hoặc cho học sinh nghe qua băng đĩa. Khi trình bày bài hát, giáo viên cần
trình bày chuẩn xác, có thể kết hợp động tác minh họa kèm theo sẽ làm cho học
sinh thấy thích thú hơn. Nếu cho học sinh nghe qua băng, đĩa phải chuẩn bị cẩn
thận đĩa nhạc, máy nghe tránh để học sinh chờ đợi gây ức chế tâm lí.
Việc hát mẫu cho học sinh có những ưu điểm mà người giáo viên cần khai
thác như: Giúp học sinh cảm nhận đầy đủ, trọn vẹn bởi cách hát của giáo viên
gần gũi các em hơn so với đĩa nhạc, học sinh cảm thấy hào hứng khi nghe thầy
cô hát, thể hiện được năng lực âm nhạc và cảm xúc của giáo viên.
4


- Khởi động giọng: Giúp học sinh khởi động giọng trước khi tập hát. Giáo
viên cho HS luyện theo đàn cao độ đi lên dần rồi đi xuống dần, hoặc theo mẫu
do giáo viên qui định.
- Dạy hát từng câu: giáo viên đàn cho học sinh nghe nhẫm và tập hát hòa
giọng theo đàn. Những câu hát khó, luyến láy nhiều giáo viên cần hát mẫu vì
học sinh nghe đàn không thể hiện rõ bằng nghe giọng hát. Đôi khi, giáo viên nên
chỉ định học sinh giỏi hát mẫu thay cho giáo viên nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh, đồng thời làm cho môi trường học tập trở nên gần gũi và thân thiện
hơn. Trong khi dạy từng câu, giáo viên cần cho học sinh nhận xét lẫn nhau và
kết hợp sửa sai cho các em.
- Hát cả bài: giáo viên cho học sinh hát cả bài theo giai điệu của đàn, chú ý
những chổ ngân, nghỉ và sửa sai cho các em, lưu ý học sinh cách phát âm, hát rõ
lời và cảm xúc của bài hát, tránh gào thét đây là lỗi hay mắc phải ở giáo viên,
sau đó kết hợp nhạc đệm, nhạc đệm giáo viên chuẩn bị và lưu sẳn trong đàn.
Giáo viên hướng dẫn học sinh trình bày bài hát với nhiều hình thức như đơn ca,
song ca, tốp ca…
- Kết hợp gõ đệm, vận động và phụ họa: GV hướng dẫn cho HS thực hiện
gõ đệm, cách gõ đệm tùy thuộc vào từng bài cụ thể.
Phần kết hợp vận động và phụ họa không đòi hỏi nhất thiết HS phải thực

hiện thật thành thạo vì vận động và phụ họa có thể tiến hành ở tiết tiếp theo ở
phần ôn tập bài hát. Tiết học hát chủ yếu HS biết kết hợp gõ đệm, GV hướng
dẫn một vài động tác cho các em làm quen với nhịp của bài ở tiết tiếp theo khi
đã thuộc lời ca các em kết hợp thực hiện vận động và phụ họa dễ dàng hơn. Đó
là đôi với những tiết học sinh học bài mới, Còn đối với những tiết ôn tập
- Giáo viên đệm đàn cho học sinh hát lại bài, hướng dẫn các em sửa chỗ
sai và thể hiện sắc thái.
- Giáo viên đặt câu hỏi để học sinh nhắc lại tên bài hát, tác giả, nội dung
(nên kết hợp tranh minh họa).
- Học sinh nghe bài hát qua băng đĩa để nhớ lại giai điệu, lời ca.

5


- Củng cố giai điệu, tiết tấu: giáo viên đàn một nét nhạc để học sinh nhận
biết đó là câu hát nào rồi trình bày lại câu hát đó. Tương tự, giáo viên gõ tiết tấu
của một câu hát, học sinh nhận biết đó là tiết tấu của câu hát nào rồi hát câu đó.
- Củng cố lời ca: học sinh bổ sung lời ca vào chỗ trống.
- Hát kết hợp gõ đệm.
- Hát kết hợp vận động theo nhạc.
- Hát kết hợp đánh nhịp.
- Hát kết hợp trò chơi.
- Thi đua giữa các tổ, nhóm.
- Trình bày bài hát bằng các hình thức: đơn ca, cặp, nhóm, tổ, dãy, học sinh
nam, học sinh nữ…
- Luyện tập các cách hát tập thể: hát hoà giọng, hát có lĩnh xướng, hát đối
đáp, hát nối tiếp, hát bè, hát đuổi.
- Biểu diễn: học sinh hát trước lớp kết hợp gõ đệm hoặc vận động theo
nhạc.
- Học sinh tập sáng tác lời hát mới.

- Học sinh tập vẽ tranh minh hoạ cho bài hát.
- Kiểm tra.
Tuỳ thuộc vào nội dung, tính chất của bài hát, thời lượng dạy học, năng lực
của học sinh, điều kiện dạy học cụ thể mà giáo viên chọn một vài hoạt động ôn
tập cho thích hợp. Các hoạt động ôn tập không nên tách rời mà cần liên kết với
nhau sao cho phù hợp, hiệu quả. Ví dụ: kết hợp giữa gõ đệm với luyện tập các
cách hát tập thể (hát có lĩnh xướng, hát đối đáp, hát nối tiếp), kết hợp vận động
theo nhạc với trình bày bài hát bằng các hình thức khác nhau (đơn ca, song ca,
tam ca, tốp ca, tổ, dãy, học sinh nam, học sinh nữ), thi đua giữa các nhóm tổ thể
hiện sắc thái bài hát, biểu diễn bài hát kết hợp gõ đệm hoặc vận động theo
nhạc… Tuy nhiên những hoạt động đặc trưng nhất mà giáo viên thường dùng
khi ôn tập bài hát là hướng dẫn học sinh ôn tập và sửa sai, hát kết hợp gõ đệm,
hát kết hợp vận động theo nhạc, tập hát đối đáp, nối tiếp.

6


Việc ôn tập bài hát đóng vai trò quan trọng để học sinh yêu thích bài hát.
Nhiều học sinh thường nói “Thưa cô, em không biết hát ạ”, “Thưa cô, em thấy
bài hát này không hay” hoặc “Thưa cô, em không thuộc bài hát này” khi giáo
viên yêu cầu các em hát. Một trong những nguyên nhân là do cách tổ chức ôn
tập bài hát chưa kĩ và hiệu quả. Chỉ số ít bài hát hấp dẫn được học sinh ngay từ
khi các em mới tiếp xúc, còn lại phải qua quá trình ôn tập lâu dài mới làm các
em yêu thích bài hát. Dạy Âm nhạc trong trường Trung học ở Mỹ, để biểu diễn
một bài hát chỉ trong 3 - 4 phút, học sinh thường phải luyện tập bài đó trong 3
tháng (bao gồm cả tập hát các bè, kết hợp nhảy múa hoặc trình diễn). Có thể tập
luyện kĩ như vậy mới thật sự làm các em cảm nhận được những vẻ đẹp của bài
hát.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
- Do đây là một trong nhưng môn học mới được đưa vào trường học, nhằm

tạo cho các em giải trí sau những giờ học căng thẳng, nhưng từ sự thay đổi về
mặt tâm sinh lý lứa tuổi và một số em học sinh xem môn học là môn phụ, do đó
các em chỉ quan tâm đến các môn học chính mà chưa thực sự hứng thú với môn
âm nhạc, từ đó tạo sự khô khan, cứng nhắc trong môn học.
- Cũng xuất phát từ gia đình, sự quan tâm về tinh thần từ phía gia đình các
em không được đồng đều, sự khập khiễng về ý thức, nhận thức giữa các học sinh
cũng gây không ít khó khăn trong quá trình học tập.
- Đặc biệt qua một vài năm đi dạy tôi thấy các em còn nhút nhát, thụ động,
còn e ngại khi trình bày một bài hát trước tập thể lớp, và một phần do các em
năng khiếu không được đồng đều nên khó khăn trong việc hát múa, từ thực tế
trên tôi thấy cần phải thay đổi một số nội dung trong tiết ôn tập, cũng như nên
lồng ghép các trò chơi cho phù hợp với bài ôn tập từ đó sẽ giúp các em thích thú
hơn, ham học và tự tin hơn khi biểu diễn trước lớp cũng như biểu diễn trước tập
thể.
- Để cung cấp kiến thức khoa học, giáo dục tư tưởng và rèn luyện kỹ năng
cho học sinh, giáo viên phải làm cho học sinh ham mê, hứng thú học tập, làm
cho quá trình học của các em trở nên tự giác, tạo niềm vui trong sáng và bổ ích,
7


bồi dưỡng cho các em tinh thần học tập, tự tin, mạnh dạn trước tập thể, tạo sự
hứng phấn đồng đều giữa các em, để giữa các em có sự hòa đồng trong nhận
thức và học tập. Bất kỳ môn học nào cũng có thể làm cho các em yêu thích và
ham học, do đó nghệ thuật âm nhạc nói chung và môn học hát ở tiểu học ở tiểu
học nói riêng là sự kích thích, say mê học tập của học sinh.
Vì vậy vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa các
hoạt động của học sinh trong phân môn hát nhạc là một vấn đề hết sức cần thiết,
qua đó giúp học sinh chủ động trong các hoạt động, tự chiếm lĩnh, tự tìm kiếm
kiến thức mới tốt hơn, năng động, sáng tạo hơn, thích ứng với sự phát triển xã
hội.

2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề:
Thực tế cho thấy nếu trong một tiết học giáo viên biết sắp xếp thời gian hợp
lý để tổ chức trò chơi hoặc tổ chức một tiết ôn tập phù hợp thì học sinh sẽ rất
hào hứng học. Trong các tiết ôn tập bài hát giáo viên có thể áp dụng rất nhiều trò
chơi cho phù hợp với nội dung ôn tập của bài hát đó. Qua đó muốn tiến hành trò
chơi, kết quả gây được sự chú ý, hào hứng cho học sinh, đồng thời nó còn có tác
dụng giải trí, thư giản và ứng dụng nội dung vào bài học và trò chơi cần chú ý
những điểm sau:
+/ Chọn trò chơi: Mỗi tiết ôn tập và tùy theo nội dung và từng bài ôn tập mà
giáo viên có thể chọn từ 1 đến 2 họt động. Đồng thời trò chơi phải thu hút được
các em tham gia.
+/ Chuẩn bị của giáo viên: Nếu trò chơi có bài hát thì giáo viên cần nắm
vững nội dung bài hát và cho các em hát tốt bài hát trước khi chơi, nếu trò chơi
có động tác giáo viên cần thành thạo các động tác trước khi hướng dẫn học sinh
chơi.
+/ Ngoài áp dụng các trò chơi trong tiết ôn tập giáo viên cần cho học sinh :
“ Nghe nhạc đoán tên bài hát”
“ Nghe tiết tấu đoán tên câu hát”
“ Điền thêm vào chỗ tróng từ bài hát đang còn thiếu”

8


Giáo viên đặt câu hỏi: “Đây là hình ảnh trong bài hát nào?” “ em có thể hát
lại bài này?”( Hình ảnh con gà xuất hiện trong bài gà gáy) Giáo viên đưa ra lời
bài hát và những chỗ còn thiếu.
Cái cây xanh xanh
Thì lá…xanh
…Đậu trên cành
chim hót…

Điền vào chỗ trống từ còn thiếu?
Và cho biết tên bài hát? Hát lại bài hát.
Trong một giờ học sôi nổi,sinh động giáo viên không thể không sử dụng
các phương tiện dạy học. Phổ biến là sách giáo khoa, nhạc cụ, tranh ảnh. Các
phương tiện đó giáo viên phải biết sử dụng sao cho đúng và phù hợp với từng
nội dung bài học, biết minh họa một cách độc đáo, thú vị sẽ kích thích tinh thần
học tập của các em. Qua kinh nghiệm cho thấy nếu chỉ dạy những phương pháp
đơn thuần, lặp đi lặp lại những kiến thức trong sách giáo khoa thì học sinh cũng
không thích thú học, hiệu quả thấp vì thế vai trò của giáo viên trên lớp cũng
không phát huy hiệu quả một cách tối ưu được.
Mặt khác nếu thoát ly sách giáo khoa làm cho học sinh khó nắm kiến thức
cần thiết thì Bài giảng dù có hấp dẫn đến mấy cũng không mang lại hiệu quả sư
phạm. Vì vậy phải biêt kết hợp kiến thức sách giáo khoa.
Đặc biệt đối với tiết ôn tập cần chú trọng cho học sinh thực hành nhiều.
Việc tạo sự thích thú, ham học cho học sinh trong một tiết ôn tập không chỉ một
lần mà thường xuyên từ phút đầu tiên đến phút cuối cùng, hơn nữa giờ học giáo
viên cần tạo sự sôi nổi để học không cảm thấy thời gian trôi đi nhanh chóng và
đến khi giờ học kết thúc học sinh vẫn muốn học và cảm thấy thoải mái sau khi
học. Ngoài ra giáo viên có thể thay đổi cách tổ chức dạy học:
Muốn thiết kế tiết học Âm nhạc độc đáo và sáng tạo để thi giáo viên dạy
giỏi hoặc tiết chuyên đề, nhất thiết giáo viên phải tìm tòi và thể hiện sự sáng tạo
của mình trong các hoạt động dạy học. Dưới đây là những hoạt động mà tôi đã
vận dụng :
9


- Thay đổi vị trí ngồi của học sinh: bàn ghế của học sinh được sắp xếp lại,
nhằm hỗ trợ hoạt động học tập của các em. Thay cho kiểu truyền thống, giáo
viên xếp bàn ghế của học sinh thành các cặp, các nhóm hoặc hình chữ U để tạo
không gian cho các em hoạt động, vui chơi hoặc biểu diễn. Xếp theo cách nào sẽ

phụ thuộc vào nội dung học tập, hoạt động của học sinh và mục tiêu của tiết học.
- Thay đổi cách học sinh vào lớp: giáo viên đàn (hoặc mở đĩa nhạc) một
bản nhạc, học sinh từ ngoài lớp đi đều theo tiếng nhạc, vào chỗ ngồi của mình.
- Thay đổi cách mở đầu tiết học: học sinh cùng nhau hát một bài đã học là
cách thông thường để mở đầu tiết học, tuy nhiên giáo viên có thể cho học sinh
nghe một bản nhạc không lời trong khoảng 1-2 phút cũng là cách mở đầu rất
hay. Trong hoạt động này, giáo viên nên chọn bản nhạc hay, có nhịp điệu mạnh
mẽ, lôi cuốn hoặc chọn bản nhạc có điểm nào đó chung với nội dung tiết học, từ
việc nghe nhạc sẽ thuận lợi để dẫn dắt vào bài học.
- Thay đổi môi trường học tập: giáo viên dạy Âm nhạc ở sân trường,
phòng thể thao hoặc sân khấu… Học sinh sẽ tích cực và sáng tạo hơn trước thực
tiễn và môi trường học tập mới.
- Thay đổi trình tự thực hiện các nội dung trong tiết học: Giáo viên có
thể thay đổi trình tự các nội dung đó mà vẫn đảm bảo việc dạy đúng, đủ các nội
dung và rõ trọng tâm. Sự thay đổi này không ảnh hưởng đến hiệu quả học tập
của học sinh mà còn làm tiết học trở nên sinh động hơn, hấp dẫn hơn, tránh được
kiểu dạy học khuôn.
- Tổ chức linh hoạt các hình thức học tập: Giáo viên thay đổi hợp lí các
hình thức luyện tập cá nhân, cặp đôi, nhóm, tổ, học sinh nam, học sinh nữ, phát
huy sự tương tác giữa giáo viên và học sinh.
Ví dụ, giáo viên phân công từng nhóm chuẩn bị và trình bày về một nội
dung của tiết học, như giới thiệu một nhạc cụ, vẽ tranh minh hoạ, sáng tác lời
hát…
- Sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học: giáo viên sử dụng hiệu quả
các phương pháp trực quan, trò chơi, đóng vai, trình diễn… để phát huy tính tích

10


cực và sự sáng tạo của học sinh. Đó cũng là cách làm phát huy được trí tưởng

tượng và tư duy sáng tạo của học sinh.
- Sử dụng hiệu quả các phương tiện dạy học: giáo viên thể hiện sự sáng
tạo trong việc chuẩn bị đồ dùng dạy học, như tranh ảnh minh hoạ, các nhạc cụ
gõ, bài tập thực hành, album âm nhạc, tài liệu học tập… Có thể dùng các chất
liệu như vỏ sò, vỏ ốc, vỏ quả dừa, vỏ lon nước ngọt, chai nhựa để tạo những
nhạc cụ gõ trong các tiết học Âm nhạc, học sinh thường tỏ ra thích thú với
những nhạc cụ đơn giản như vậy. Hơn nữa, mỗi khi học sinh nhìn thấy những
chất liệu đó trong cuộc sống, có thể chúng lại gợi cho các em nhớ đến những nội
dung âm nhạc đã học.
Một số gợi ý khác về việc sử dụng phương tiện dạy học tạo nên sự độc đáo
và hiệu quả: khi học sinh ôn tập những bài dân ca Tây Nguyên, giáo viên hướng
dẫn các em sử dụng các nhạc cụ gõ của Tây Nguyên như cồng chiêng, đàn
t’rưng, tre lắc… để biểu diễn bài hát; khi giới thiệu về các loại nhạc cụ, giáo
viên (hoặc học sinh) dùng nhạc cụ đó để tạo nên màn trình diễn ấn tượng; sử
dụng Internet và công nghệ thông tin để soạn bài và tổ chức các tiết dạy Âm
nhạc…
Ngoài ra, tiết học Âm nhạc có chuẩn bị loa âm thanh và 2-3 chiếc micro
cũng sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh. Khi đó, ngay cả những em hay hát
nhỏ cũng dễ dàng làm cho mọi người nghe thấy rõ tiếng hát của mình.
- Ngoài ra giáo viên có thể sáng tạo các bài tập âm nhạc cho học sinh
như: Nghe giai điệu và nhận biết câu hát (hoặc câu nhạc), học sinh nghe giai
điệu một câu hát và cho biết đó là giai điệu của câu hát nào, rồi trình bày câu hát
đó.
Nghe tiết tấu nhận biết câu hát, tương tự nghe giai điệu đoán câu hát.
Nghe một vài nốt nhạc và nhận biết đó là những nốt mở đầu của câu hát
(hoặc câu nhạc) nào.
- Sử dụng linh hoạt cách củng cố kiến thức: thay cho việc đặt câu hỏi,
giáo viên có thể dùng hình thức trắc nghiệm để củng cố kiến thức.

11



Sử dụng tranh ảnh để củng cố bài hát: giáo viên đưa ra một số bức tranh
(hoặc ảnh) minh họa cho bài hát, học sinh cần phải xếp chúng theo trình tự phù
hợp với nội dung của bài hát. Ví dụ xếp 5 bức ảnh sau cho phù hợp với trình tự
nội dung của bài Em yêu hoà bình (Nguyễn Đức Toàn):

Ảnh dòng sông

Ảnh bờ tre
12


Ảnh cánh đồng lúa

Ảnh đàn cò bay

13


Ảnh mái trường

Kết quả của bài tập là:
Lời bài hát Em yêu hoà bình

Thứ tự phù hợp của 5 bức ảnh

1/ Em yêu hoà bình, yêu đất nước Việt Nam,
yêu từng gốc đa bờ tre đường làng. 2/Em
yêu xóm nhỏ nơi mà em khôn lớn, yêu những

mái trường rộn rã lời ca.
3/Em yêu dòng sông hai bên bờ xanh thắm,

1/ hình ảnh bờ tre.
2/ hình ảnh mái trường.
3/ hình ảnh dòng sông.
4/ hình ảnh cánh đồng lúa.

dòng nước êm trôi lắng đọng phù sa.
4/Em yêu cánh đồng thơm mùi hương lúa,
giữa đám mây vàng có đàn cò trắng bay xa.

5/ Hình ảnh đàn cò bay.

- Sáng tạo động tác nhảy múa: giáo viên nên bắt đầu từ việc khuyến khích
học sinh thể hiện những động tác phản ứng tự nhiên khi nghe nhạc (đung đưa,
lắc lư, nhún nhảy, gõ nhịp…), tiếp đến là học sinh lựa chọn động tác múa (do
14


giáo viên gợi ý) phù hợp với tính chất bài hát, cuối cùng là các em tự sáng tạo
động tác nhảy múa.
Hát kết hợp vỗ tay theo cặp đôi: hai học sinh đứng đối diện, vừa hát vừa
sáng tạo động tác vỗ tay sao cho phù hợp với nhịp điệu và nội dung của bài hát.
Hoạt động này nâng cao sự hợp tác và năng lực sáng tạo của học sinh, các em có
thể nghĩ ra nhiều cách vỗ tay rất độc đáo và hấp dẫn. Thậm chí ở mỗi câu hát,
các em lại áp dụng từng kiểu vỗ tay khác nhau. Một ví dụ về cách vỗ tay theo
nhịp

với bài Đếm sao, 2 em vừa hát vừa vỗ tay theo cách sau:

+ Câu hát thứ nhất: phách 1 từng em vỗ hai tay vào nhau, phách 2, 3 vỗ nhẹ

lòng bàn tay của mình vào tay bạn.
+ Câu hát thứ hai: phách 1 từng em vỗ hai tay vào nhau, phách 2 vỗ nhẹ
lòng bàn tay của mình vào tay bạn, phách 3 vỗ nhẹ lưng bàn tay của mình vào
tay bạn.
+ Câu hát thứ ba: phách 1 từng em vỗ hai tay vào nhau, phách 2, 3 vỗ nhẹ
lòng bàn tay phải của mình vào tay bạn. Lần tiếp theo, thực hiện với tay trái.
+ Câu hát thứ tư: phách 1 từng em vỗ hai tay vào nhau, phách 2 vỗ nhẹ lòng
bàn tay phải của mình vào tay bạn, phách 3 vỗ nhẹ lưng bàn tay phải của mình
vào tay bạn. Lần tiếp theo, thực hiện với tay trái.
- Sáng tác câu chuyện âm nhạc: giáo viên đưa ra các nhân vật, khuyến
khích học sinh sáng tạo câu chuyện xung quanh những nhân vật đó. Ví dụ, em
hãy sáng tác một câu chuyện âm nhạc dựa vào các nhân vật: một người hát rong,
một gia đình giàu có, một em bé nghèo…
Biến thể khác là giáo viên kể câu chuyện âm nhạc, khi đến đoạn kết thì tạm
dừng lại để học sinh đoán về đoạn kết đó.
- Phổ nhạc cho câu thơ hoặc đọc thơ theo tiết tấu: giáo viên đưa ra 1-2
câu thơ ngắn, đề nghị học sinh tự hát lên hoặc đọc chúng theo tiết tấu.
Một vài lưu ý giáo viên: nên sử dụng hoạt động nào phù hợp với năng lực
của mình và điều kiện dạy học cụ thể; nên vận dụng từ những hoạt động đơn
giản đến phức tạp; cần động viên và sử dụng sản phẩm sáng tạo của học sinh
15


theo cách tích cực, ví dụ như dùng lời hát do học sinh sáng tác và trình bày trước
lớp để động viên, khuyến khích sự sáng tạo của các em.
Để có một tiết dạy độc đáo và sáng tạo, giáo viên cần thực hiện theo ba
bước. Thứ nhất là nắm vững nội dung và tìm các ý tưởng độc đáo, sáng tạo. Thứ
hai và chuẩn bị phương tiện cho phù hợp với ý tưởng đó. Thứ ba là thực hiện tiết

dạy độc đáo, sáng tạo. Không thể có một tiết dạy xuất sắc nếu giáo viên bỏ đi
một trong các bước trên.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục:
* Kết quả đạt được: Với sự áp dụng các biện pháp nêu trên tôi nhận thấy
đa số học sinh đều rất hứng thú, ham thích học các tiết ôn tập bài hát, các lớp
qua các đợt kiểm tra đều đạt kết quả cao.Giờ học đã sôi nổi, Học sinh tự tin hơn
khi biểu diễn và thể hiện bài hát trước lớp. 100% các em hoàn thành môn học và
yêu thích môn âm nhạc. cụ thể là:
Các mức độ yêu cầu

Kết quả ở những lớp

Kết quả ở những lớp áp

chưa sáng tạo các tiết

dụng các biện pháp trên

học sôi nổi
Hát đúng giai điệu, lời ca Khoảng 75%
Biết hát kết hợp gõ đệm Khoảng 80%

để gây hứng thú cho hs
100%
90%

theo các cách
Biết hát kết hợp vận Khoảng 75%

100%


động theo nhạc
Thích vận động, sáng tạo Khoảng 60%

90% hs thích vận động

các động tác cho bài hát
Yêu thích giờ học ôn tập Khoảng 70%

100% học sinh thích thú

bài hát cũng như yêu tiết
âm nhạc
III. Kết luận, Kiến nghị.
a. Kết luận
Từ thực tế giảng dạy của tôi trong những năm qua bản thân tôi đã đúc rút
ra một số kinh nghiệm như sau:

16


- Để tạo sự hứng thú đối với học sinh thì trước hết phải gây hứng thú cho
học sinh ngy từ phần mở đẩu bài học, phần giới thiệu đề mục mới.
- Trong quá trình dạy học giáo viên phải biết phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh.
- Giáo viên cần phải nắm đặc trưng của bộ môn, có phương pháp dạy học
linh hoạt, sáng tạo, phải tìm mọi cách để cải tiến trong các tiết dạy đặc biệt là
tiết ôn tập để không gây nhàm chán cho học sinh, đa dạng hóa cách thức truyền
đạt ở mỗi bài học.
- Phương tiện dạy học phải đầy đủ, giáo viên phải biết sử dụng phương tiện

dạy học như một yếu tố gây xúc cảm.
- Trong các tiết học phải tạo sự thoải mái, vui tươi, bởi vì đặc trưng bộ môn
đó là vui học- học vui, tránh gò ép đối với học sinh.
- Tăng cường các hoạt động âm nhạc trong lớp, trong trường bằng hình
thức tổ chức hội thi văn nghệ ngoại khóa.
Muốn thực hiện những nội dung trên được hiệu quả, đòi hỏi mỗi giáo viên
không ngừng nâng cao kiến thức, tạo cho mình một chuyên môn vững vàng,
thường xuyên học hỏi rút kinh nghiệm ở các đồng nghiệp.
Có thể nói rằng môn học ở trường tiểu học có vị trí quan trọng trong việc
giáo dục thế hệ trẻ. Ngày nay với nội dung chương trình đổi mới phương pháp
dạy học, người giáo viên phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ. Ngoài những môn học chính thì môn âm nhạc giúp cho học sinh
phát triển thị hiếu thẩm mĩ nghệ thuật nâng cao dần từng bước tiếp cận với nghệ
thuật tạo đà cho sự giáo dục và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh.
Những cách thức những con đường gây hứng thú cho học sinh trong học
tập tiết ôn tập bài hát cũng như một tiết học hát mới là hết sức phong phú, mỗi
người có một biện pháp cho riêng mình.
- Trên đây tôi mới chỉ đề cập phần nào đến kinh nghiệm của bản thân, chắc
chắn không tránh khỏi sự thiếu sót. Mong các thầy cô và các bạn bè đồng nghiệp
góp ý bổ sung thêm./.
*/ kiến nghị:
17


- Vì đây là môn học mang tính đặc trưng riêng nên cần phải có phòng học
nghệ thuật, trang bị thêm một số tranh ảnh, tài liệu phục vụ môn học.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Xác nhận của hiệu trưởng


Thanh Hóa, ngày 20 tháng 03 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết.
Không sao chép nội dung của người khác
Người viết

Nguyễn Thị Tâm

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách giáo khoa Âm nhạc lớp 4, 5. Nhà xuất bản Giáo dục.
-Sách Giáo viên Âm nhạc lớp 1, 2, 3, 4, 5. Nhà xuất bản Giáo dục.
-Phương pháp dạy học các môn học ở Tiểu học, Nhà xuất bản Giáo
dục, 2007.
- Phương pháp dạy học Âm nhạc, Hoàng Long, Nhà xuất bản Giáo dục.
-Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên môn Âm nhạc ở Tiểu học, Nhà xuất
bản giáo dục.

19


MỤC LỤC
Trang

I. MỞ ĐẦU............................................................................................................1
1. Lý do chọn đế tài:..............................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu:........................................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu........................................................................................2

4. Phương pháp nghiên cứu:..................................................................................3
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM....................................................3
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:......................................................3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:.......................7
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề:................................................................8
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục:...............16
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................19

20



×