Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số kinh nghiệm giáo dục, rèn luyện giúp học sinh cá biệt phát triển toàn diện ở lớp 4a trường tiểu học thanh tân 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ
PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHƯ THANH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN GIÚP HỌC SINH
CÁ BIỆT PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN Ở LỚP 4A
TRƯỜNGTIỂU HỌC THANH TÂN 1

Người thực hiện: Mai Huy Cương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thanh Tân 1
SKKN thuộc lĩnh vực : Chủ nhiệm

THANH HOÁ NĂM 2016

NHƯ THANH NĂM 2015


MỤC LỤC
A. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài…………………………………………..……….… …… 1
2. Mục đích nghiên cứu.………………………….………..………………… ..1
3. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. .1
4. Phương pháp nghiên cứu:………………………………….……………… .1
B. Nội dung
I. Cơ sở lí luận…………….………….………… …………………......…......2
II.Thực trạng……...………….……...……………….....…………...….….….2
1. Thực trạng giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường………………..….....2
2.Về học sinh cá biệt lớp 4A…………………...………….….………….....… 3


III. Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1: Tìm hiểu cụ thể từng học sinh cá biệt……………...…………….3
Biện pháp2. Xây dựng kế hoạch giáo dục, rèn luyện học sinh cá biệt………....4
Biện pháp 3: Giáo dục học sinh thông qua hoạt động học tập.............................6
Biện pháp 4: Giáo viên biết chia sẻ, lắng nghe học sinh………….....................8
Biện pháp 5- Giáo dục học sinh thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp……... .9
Biện pháp 6- Giúp các em tránh các hành động không an toàn……………….10
Biện pháp 7-Tăng cường phối hợp với phụ huynh ...………………..………..11
Biện pháp 8- Tổ chức thi đua, động viên khen thưởng……………...………...13
IV. Kết quả đạt được …………………………….....………………...….….14
C. Kết luận – Đề xuất
1. Kết luận ……...…..……………..………………....………………….…….15
2. Đề xuất……...…..……………..………………....................……...……….15


A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện là yêu cầu thiết yếu của giáo dục
hiện nay. Trong xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt, nhiệm vụ
của công tác giáo dục đứng trước những đòi hỏi mới. Nhằm góp phần vào việc
thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục tồn diện, hình thành cho trẻ những yếu
tố nhân cách của con người; cũng là để góp phần vào việc thực hiện tốt công tác
phổ cập giáo dục tiểu học. Tuy nhiên, không phải phụ huynh nào cũng may mắn
có được những đứa con thơng minh, khỏe mạnh, giỏi giang, có tư chất tốt và
hồn tồn đủ điều kiện cả về sức khỏe thể chất lẫn sức khỏe tinh thần để hoàn
thành tốt nhiệm vụ học tập. Thực tế hiện nay, ngày càng có nhiều trẻ em gặp rất
nhiều các vấn đề khó khăn trong học tập.
Vấn đề nâng cao chất lượng tồn diện, trong đó có việc giáo dục học sinh gặp
khó khăn trong học tập (mà thường gọi là học sinh cá biệt) là công việc chung
của gia đình, nhà trường và xã hội. Các em cần được giáo dục phát triển một

cách toàn diện, cần được chú trọng một cách đặc biệt hơn để đảm bảo quyền học
tập tốt nhất. Công tác rèn luyện giáo dục học sinh cá biệt trong độ tuổi tiểu học
là việc làm thiết thực nhằm giúp những trẻ đó có nề nếp hoạt động, hòa nhập với
các bạn cùng trang lứa, tạo được niềm tin, tích cực học tập và rèn luyện ở các
em. Góp phần hình thành những kĩ năng sống cơ bản ban đầu phù hợp với lứa
tuổi, phù hợp với đặc điểm từng em góp phần tạo điều kiện tốt cho các em học
lớp trên và phát triển nền tảng nguồn nhân lực có chất lượng sau này.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy nhiều năm, đòi hỏi bản thân cần phải nắm bắt
yêu cầu cụ thể để có kế hoạch hướng dẫn tổ chức rèn luyện giáo dục các em nên
người và đặc biệt những đối tượng học sinh cá biệt. Nhận thức được tầm quan
trọng của việc giáo dục học sinh cá biệt là việc làm rất cần thiết và vô cùng quan
trọng, nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Một số biện pháp giáo dục, rèn luyện giúp học sinh cá biệt
phát triển toàn diện ở lớp 4A trường Tiểu học Thanh Tân 1”
2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp người giáo viên có điều kiện gần gũi với học sinh, hiểu học sinh hơn để
từ đó giáo dục, rèn luyện học sinh cá biệt trong học tập ngày càng tiến bộ hơn.
- Học sinh bị xem là cá biệt, khơng cịn ngại gần gũi, ngại tiếp xúc với mọi
người, học sinh có cơ hội phát huy tối đa những khả năng vốn có của mình
trong học tập cũng như mọi hoạt động của lớp, của trường.
3. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp cách thức để giáo dục, rèn luyện học sinh cá biệt.
4. Phương pháp nghiên cứu


- Phương pháp điều tra, trực quan, nêu gương, hỏi đáp.
- Phương pháp nghiên cứu kết quả của hoạt động.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN

- Sống trong mơi trường với nhiều mối quan hệ; quan hệ với cha mẹ, anh chị;
với thầy cô, bạn bè; với nhiều người xung quanh khác nữa, các em sẽ chịu nhiều
tác động. Bên cạnh những tác động tích cực giúp trẻ phát triển thì cũng có nhiều
tác động tiêu cực mà học sinh tiểu học rất hay bắt chước. Nhiều khi bắt chước
một cách ngây thơ. Nhất là những điều gây ấn tượng đối với các em. Nếu sống
trong mơi trường có nhiều tiêu cực thì hình thành những thói quen xấu, những
đức tính khơng tốt. Ở lứa tuổi tiểu học, các em tiếp nhận những tác động bên
ngồi đang cịn tự phát mà ít có sự tự giác. Nhưng lứa tuổi này rất dễ thay đổi cả
tình cảm và hành vi của các em. Nên việc giáo dục để thay đổi đối với học sinh
chưa ngoan là có thể làm được và ít khó khăn hơn. Việc này địi hỏi người làm
cơng tác giáo dục phải có những hiểu biết về tâm sinh lí của trẻ, về hồn cảnh
của trẻ, biết được trẻ muốn gì, thích gì thì chắc chắn việc giáo dục sẽ đạt kết quả
tốt.
- Đến trường tiểu học, không gian được mở ra đối với các em. Các em tham gia
nhiều hơn vào các mối quan hệ thầy cô, bạn bè. Lúc ở nhà thì tình cảm của trẻ
đối với cha mẹ là chủ yếu thì đến trường tình cảm của các em đối với thầy cô
giáo là rất lớn. Các em coi thầy cơ mình là thần tượng, cái gì thầy cơ cũng biết,
thầy cơ khơng những dạy bài tốn khó, bài văn hay, những hiểu biết về vũ trụ,
con người, về cuộc sống xung quanh mà thầy cơ cịn dạy các em hát, tập vẽ, tập
cho các em chơi, dạy em nên làm thế này, nên làm thế kia, toàn là những điều
hay, điều đẹp.
- Thầy cô là chỗ dựa tinh thần của các em, các em tin vào sự quan tâm, công
bằng mà thầy cô đối xử với các em. Hầu hết thời gian ở trường, các em được
tiếp xúc với thầy cơ, bạn bè. Từ đó, giáo viên nắm được tính cách của từng em,
biết được em này có ưu điểm gì; nhược điểm gì và có biện pháp tác động thích
hợp.
Một lớp học có nhiều học sinh cá biệt thì trách nhiệm đó trước hết thuộc về
giáo viên chủ nhiệm. Người giáo viên phải luôn luôn bên cạnh các em, ln là
nguồn động viên, khuyến khích cổ vũ các em làm nhiều điều hay lẽ phải, chỉ cho
các em thấy khiếm khuyết để kịp thời khắc phục.

II. THỰC TRẠNG
1. Thực trạng giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường


Hầu hết giáo viên yêu nghề mến trẻ, tận tụy với cơng việc, chăm lo chun
mơn. Tuy nhiên cũng có nhiều giáo viên cịn gặp khó khăn trong việc tìm ra biện
pháp giáo dục học sinh cá biệt đạt kết quả cao. Tìm hiểu, tơi nhận thấy phần
nhiều cịn sử dụng biện pháp trách phạt cấm đoán khi một học sinh mắc lỗi. Biện
pháp này chỉ tác động tức thời đến học sinh làm cho các em sợ hãi, lo lắng mà
tránh. Nhưng về lâu dài, nếu sử dụng nhiều lần dễ làm cho các em chai lì ăn vào
tiềm thức của các em những suy nghĩ lối sống không tốt. Cứ mắc lỗi là trách
phạt mà khơng có sự bao dung tha thứ, chưa thấy được sự quan tâm giúp đỡ từ
thầy cô giáo.
Một số giáo viên gặp những em học chưa hoàn thành, chưa tiến bộ, trong giờ
học chưa tập trung chú ý, giáo viên liền liệt kê em đó vào loại học sinh “khuyết
tật”, từ đó các bạn trong lớp xem em học sinh đó là khuyết tật. Như vậy cả giáo
viên và học sinh trong lớp thường không quan tâm đến sự tiến bộ của các em, vơ
tình đã đẩy em ra khỏi hoạt động học tập của lớp.
2. Về học sinh cá biệt lớp 4A
Đa số các em đều ngoan ngoãn, thật thà. Các em hiểu được nỗi vất vả của cha
mẹ nên cũng sớm có ý thức tự lập và mong muốn học tập để vươn lên. Tuy
nhiên, cũng có khơng ít học sinh chưa ngoan, chưa hồn thành nhiệm vụ học tập
mà tơi gọi là "học sinh gặp khó khăn trong học tập hay học sinh cá biệt".
Qua thực tế dạy học và nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, tôi gặp không ít
học sinh cá biệt. Mỗi em có biểu hiện cá biệt khác nhau và có những mức độ
khác nhau. Học sinh lớp 1, 2, 3 thì mức độ biểu hiện cá biệt dạng nhẹ hơn. Sang
lớp 4, 5 - đặc biệt là lớp 4 mức độ thể hiện cá biệt bắt đầu rõ hơn, mạnh hơn và
gây khơng ít khó khăn trong công tác giáo dục học sinh. Cụ thể ở lớp 4A tơi chủ
nhiệm là một lớp có 25 em nhưng có tới 6 em hs cá biệt, cụ thể như em:
Lương Anh Tuấn: Là học sinh hoạt bát sơi nổi. Tuy nhiên trong giờ học ít khi

tập trung chú ý, tiếp thu bài chậm, hay nói chuyện, trêu chọc bạn, mỉa mai bạn;
khi chơi với bạn hoặc làm việc gì đó thường dễ nổi nóng.
Lơ Thanh Hồn: Tính tình trầm, dễ nổi nóng, trong giờ học khơng tập trung,
ngồi học thì im lặng nhưng hay quay ngược quay xi, mặt lơ đãng đi nơi khác.
Cịn biểu hiện né tránh việc học hành, tiếp thu bài chậm không chắc chắn.
Bảng số liệu tình trạng học sinh cá biệt vào đầu năm học của lớp 4A
Phân loại mức độ cá biệt
Số lượng

Tiếp thu bài
chậm

Không tập trunghứng thú học tập

Hay quậy phá

Tự ti

6em

6

6

4

3

III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Biện pháp 1: Tìm hiểu cụ thể từng học sinh cá biệt



- Các em thường mắc lỗi do gặp phải những khó khăn nhất định, như: do
khiếm khuyết một chức năng nào đó đem lại cận thị, khó nghe, yếu sức, khó
đọc, nói ngọng, khó viết, khả năng tiếp thu chậm…, cũng có thể do những khó
khăn về hồn cảnh gia đình (nhà nghèo, gia đình xung đột, đơn độc, …), những
tổn thương do bị đánh đập, lạm dụng. Cụ thể các gia đình kinh tế khó khăn(Vân,
Anh Tuấn, Hùng), cha mẹ khơng hịa thuận hay xung đột (Hồn, Kiên), bị lãng
tai, phát âm khó(Thái). Con học hành thế nào cũng khơng hay, phó mặc việc học
của con em cho nhà trường. Khi được thông báo của giáo viên cũng chỉ nhờ thầy
cơ dạy dỗ là xong. Vì vậy nó tác động nhiều đến tâm lí của các em.
Do vậy, việc tìm hiểu những trở ngại trong học tập và những khó khăn về hồn
cảnh gia đình, về tâm lí của trẻ để chia sẻ và giúp các em tháo gỡ. Vậy làm thế
nào để biết căn nguyên của những thái độ và hành vi lệch chuẩn ở trẻ? Khắc
phục những khó khăn đó như thế nào? Thường gặp tình trạng trong lớp 4A:
+ Thiếu khả năng tập trung: hiếu động thái quá, khó chú ý tập trung vào một
việc cụ thể, vụng về. Giáo viên cần thân thiện, nhẫn nại, biết nhận ra những mặt
mạnh, công nhận sự cố gắng của học sinh để các em có thể đạt được kết quả
trong cơng việc.
+ Có khó khăn về mặt tâm lí: Có những thay đổi khác lạ trong thái độ, cách cư
xử, trở nên lãnh đạm, khơng chan hồ, khơng muốn chơi đùa, hay khóc hoặc
hung hăng, cáu kỉnh, bắt nạt bạn khác, xúc phạm người khác. Không quan tâm,
hứng thú việc học hành, học sa sút thậm chí bỏ học. Thiếu tự tin và không tin
cậy người khác. Cố tìm cách thu hút sự chú ý của người khác bằng cách làm trò
cười trong lớp hoặc lấy trộm đồ của người khác. Giáo viên cần quan sát tìm ra
nhu cầu tình cảm khơng được đáp ứng của trẻ. Nói chuyện với gia đình về vấn
đề này. Tình yêu thương, sự che chở, động viên, khen ngợi của thầy cô và gia
đình sẽ giúp trẻ phát triển những suy nghĩ về bản thân. Xây dựng tinh thần tập
thể lớp. Tôn trọng, lắng nghe ý kiến và khuyến khích sự tiến bộ của học sinh.
Tạo điều kiện cho các em tham gia vào các hoạt động của lớp: ca hát, diễn kịch,

vẽ tranh, kể chuyện, thảo luận,…
Biện pháp2. Xây dựng kế hoạch giáo dục, rèn luyện học sinh cá biệt
Để giáo dục, rèn luyện có hiệu quả việc đầu tiên là phải nghiên cứu về học
sinh cá biệt. Xây dựng kế hoạch giáo dục học sinh cá biệt theo từng tuần, tháng,
chủ điểm và căn cứ vào thực tế của sự biến đổi cụ thể của từng học sinh. Tham
gia sinh hoạt chuyên môn về chuyên đề bàn về công tác giáo dục học sinh gặp
khó khăn trong học tập.
Sau khi đã tìm hiểu học sinh cá biệt, biết em đó thuộc loại “cá biệt” nào.
Người GV phải tìm hiểu nguyên nhân nào làm cho học sinh của mình trở thành
học sinh cá biệt như vậy. Đây là một công việc khơng hề đơn giản nó địi hỏi rất
nhiều cơng phu và hơn hết là cần đến sự quan tâm chia sẻ rất lớn của người thầy
giáo. Người giáo viên chủ nhiệm phải điều tra tỉ mỉ, nhiều lần, gặp gỡ nhiều
người để tìm ra nguyên nhân sâu xa bên trong và có biện pháp hữu hiệu nhất để


giáo dục. Việc giáo dục học sinh cá biệt có thể mỗi người có một cách khác
nhau. Theo tơi việc giáo dục học sinh cá biệt có thành cơng hay khơng thì phụ
thuộc vào người thầy, người thầy phải là người có “tâm”. Tơi muốn nói ở đây
khơng chỉ là sự u thương vơ bờ đối với học trị như một người con, người em
ruột thịt của mình mà cịn là tâm huyết tha thiết yêu nghề, tập trung cho từng
hành động nhỏ nhất của mình từ lời ăn tiếng nói, ăn mặc, hành động, chăm chút
cho từng tiết dạy, từng cử chỉ của mình vì trong mắt các em người thầy là “thần
tượng”.
Giáo dục từng bước, chậm rãi từ những công việc nhỏ. Chẳng hạn khuyên
các em phải thức sớm một chút để khơng phải đi học muộn, mình học chưa tốt
thì nên chịu khó, siêng làm bài tập hơn các bạn. Nếu làm bài chỗ nào khơng hiểu
thì có thể hỏi thầy cơ, bạn bè để được hướng dẫn. Giáo viên không nên giáo dục
ào ạt chưa hỏi han lý do gì hết mà đã la mắng học sinh cho dù học sinh đó vi
phạm, như vậy sẽ mất hiệu quả giáo dục. Bởi vì đấy là những học sinh cá biệt,
khơng ham hoạt động, khơng thích làm việc, đối với bản thân học sinh tìm cách

đối phó qua chuyện. Khi học không chịu lắng nghe, khi làm bài thì tìm cách ngó
nghiêng, khơng nhìn được thì mày mị thế cho qua.
Về cách xưng hơ, khơng gọi các em là học sinh cá biệt, đặc biệt là trước lớp,
trước mặt người khác. Các em chỉ là những “học sinh chưa ngoan”, những “học
sinh có hồn cảnh đặc biệt”. Chúng ta gọi các em là “học sinh cá biệt” (cá biệt
tức là khác biệt chưa tốt) vậy vơ hình chung chúng ta đã cố tách học sinh đó ra
khỏi lớp, cơ lập các em trước lớp, vì HS lớp 4 các em ý thức, cái tôi đã cao hơn.
Nhiệm vụ của chúng ta là giáo dục các em học sinh “chưa ngoan” này trở thành
học sinh ngoan… Rõ ràng: “Nếu bạn nhìn ai đó với ánh mắt u thương, bạn sẽ
khơng nhìn thấy những nét xấu xa mà bạn sẽ chỉ nhìn thấy tồn những nét đẹp
mà thơi”.
Tin tưởng giao công việc tập thể phù hợp với khả năng của các em. Đây là
việc làm mang tính hai mặt, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên
giám sát, kiểm tra và động viên kịp thời khi học sinh đạt được thành tích dù là
nhỏ nhất. Cho học sinh cơ hội “Tìm được sức mạnh cả trong chính sự khiếm
khuyết của mình”.
Giáo viên cần phải khéo léo, linh hoạt trong mỗi trường hợp cụ thể, biết tập
hợp và sử dụng sức mạnh của các yếu tố giáo dục nhằm rèn luyện cho học sinh
cá biệt. Giáo viên cần tuyệt đối tránh tư tưởng định kiến cách cư xử thiếu sư
phạm đối với học sinh.
Sau đây là một ví dụ về kế hoạch giáo dục của một học sinh cá biệt tháng 9:
1- Học sinh: Lương Anh Tuấn
Đặc điểm cá biệt: Hoạt bát, sôi nổi, nhưng tiếp thu chậm, it khi tập trung chú ý.
Hay nói chuyện, trêu chọc, mỉa mai bạn, dễ nổi nóng
Biện pháp giáo dục:
- Tìm hiểu tâm lí: Do hoạt bát, sơi nổi nên giáo viên chú trọng giao nhiệm vụ
cho em phù hợp như là người điều khiển các hoạt động tập thể, vui chơi… động
viên khuyến khích kịp thời.



- Giúp đỡ em hiểu bài bằng nhiều hình thức: thầy giúp em, bạn giúp em.
- Những việc em làm nếu chưa đúng, giúp em hiểu được vấn đề đó nên hay
không nên.
- Trao đổi với gia đinh để cùng giao lưu, trao đổi với em để biết sở thích con
mình, chỉ cho em thấy những điều khơng nên. Ghi nhận sự tiến bộ của học sinh.
2- Học sinh Lô Thanh Hồn
Đặc điểm cá biệt :Tính tình trầm, dễ nổi nóng, trong giờ học khơng tập trung
lười học.
Biện pháp giáo dục:
- Tìm hiểu tâm lí: Do tính trầm, ít nói nhưng lại dễ nổi nóng nên giáo viên nhẹ
nhàng, động viên, khuyến khích kịp thời.
- Giúp đỡ em hiểu bài bằng nhiều hình thức, chú ý gọi bài và chọn chỗ ngồi phù
hợp gần giáo viên dễ kiểm soát trong giờ học
- Trao đổi với gia đình để cùng giao lưu, trao đổi với em để biêt điểm hạn chế sở
thích con mình, chỉ cho em thấy những điều khơng nên và kiểm tra thường
xuyên việc học của em. Ghi nhận sự tiến bộ của học sinh.
Biện pháp 3: Giáo dục học sinh thông qua hoạt động học tập
1. Dạy học theo nhóm đối tượng
Để giúp đỡ học sinh chưa hồn thành học tập tốt hơn thì giáo viên cần phải
dạy học theo nhóm đối tượng. Theo đó, giáo viên đứng lớp sẽ phải phân loại lớp
học thành các nhóm đối tượng học sinh để có phương pháp hướng dẫn, giao bài
tập và kiểm tra phù hợp, trong tiết dạy phải chia nhóm theo từng đối tượng, có
từng dạng câu hỏi phù hợp cho từng nhóm đối tượng và quan tâm nhiều hơn các
em chưa hoàn thành. Nên để các em có cơ hội thảo luận, được phát biểu, được
thể hiện ý kiến mình, trước bạn bè và trước lớp. Và khi phân nhóm theo đối
tượng với yêu cầu phù hợp thì các em thường ngày học chưa hồn thành không
dám thảo luận nay sẽ tự làm bài, tự thực hành các kĩ năng, kĩ xảo từ đó giúp các
em hoạt động tích cực hơn, ham học hơn.
Phân loại, dạy phân loại theo đối tượng trong cùng một lớp có nhiều đối
tượng khác nhau có thể làm cho GV có thể vất vả hơn vì vừa dạy cho đối tượng

học sinh hoàn thành tốt, hoàn thành vừa phải dành thời gian nhiều để ren các em
chưa hoàn thành. Ở những tiết dạy tăng buổi. Thông thường tôi chia bảng làm 2
phần: một phần ra bài tập dành cho HS hoàn thành trở lên trong đó có câu hỏi
dành cho học sinh tiếp thu tốt, phần bảng cịn lại, tơi ra các bài tập dành cho học
sinh chưa hoàn thành, nhũng bài tập này ở dạng bài dễ nhất theo chuẩn KT và
KN. Sau khi chữa bài, trước hết tôi dành phần chữa cho HS chưa hoàn thành
trước, nhắc lại những kiến thức cơ bản các em cần nắm chắc, sau đó mới chuyển
sang chữa cho học sinh các đối tượng khác. Dạy phân học đối tượng như thế
này, tôi sẽ nắm bắt được sự tiến bộ của học sinh chưa hoàn thành ngay trong
từng tiết học.


Trong q trình dạy, tơi khơng dạy theo dạng ra hệ thống bài tập rồi chữa bài,
mà dạy học dinh theo dạng bài.
Ví dụ: Dạy Tốn dạng bài luyện tập chung, từng buổi học tơi chỉ HD học sinh
chưa hồn thành cách đổi đơn vị đo độ dài, khối lượng hoặc diện tích…cách đổi
như thế nào, sau đó tơi cho học sinh chủ yếu làm từng bài tập dưới hình thức
bằng giấy nháp, để dễ kiểm soát được học sinh, làm thành thục nhiều lần như
vậy, các em sẽ nắm chắc được dạng toán, sẽ phân biệt được cách đổi từ đơn vị
lớn đến bé hoặc ngược lại, cách đổi các đơn vị đo. Khi đã nắm chắc dạng toán
này , lúc đó tơi mới cho học sinh làm vào giấy kiểm tra mà GV đã chuẩn bị để
xem các em nắm KT đến mức độ nào. Tuần sau tôi mới chuyển sang dạng khác.
2. Giảm độ khó của câu hỏi phù hợp với học sinh chưa hoàn thành
- Trong lớp học những em chưa hoàn thành thường hay rụt rè, nhút nhát. Trong
giờ học không dám giơ tay phát biểu bài. Trong tiết học chỉ có khoảng 4 đến 5
em hoàn thành tốt thường xuyên giơ tay phát biểu cịn lại đều thụ động ngồi im.
Đó là vì những câu hỏi giáo viên đưa ra quá khó, dạng phải suy luận nhiều khiến
các em không biết đáp án của mình đúng sai nên khơng dám trả lời. Từ đó các
em thành thói quen khơng giơ tay xây dựng bài nữa, đâm ra chán học và trở
thành học sinh chưa hồn thành. Do đó u cầu giáo viên nên quan tâm đến các

em chưa hồn thành hay nhút nhát, khơng dám xung phong lên bảng. Giáo viên
phải tìm được câu hỏi dễ để gọi các em trả lời và sau đó cho cả lớp tuyên dương
để động viên các em. Phải biết đặt câu hỏi theo từng đối tượng, đối với học sinh
chưa hồn thành tránh tình trạng câu hỏi quá khó, các em khó xác định đúng,
sai, suy luận nhiều. Làm cho các em ngập ngừng không mạnh dạn phát biểu.
Yêu cầu giáo viên trong một giờ học nên đổi một số câu hỏi trong sách thành
những câu hỏi dạng trắc nghiệm, hay câu hỏi có gợi ý để các em chưa hoàn
thành dễ dàng trả lời.
- Ngoài ra đối với học sinh chưa hoàn thành giáo viên nên đưa ra những câu
hỏi dạng tái hiện lại kiến thức. Đó là những câu hỏi gồm những kiến thức đã học
rồi học sinh chỉ nhớ lại và trả lời. VD: Trong khi tìm hiểu bài mới có những lúc
cần có kiến thức cũ để tìm ra kiến thức mới thì giáo viên nên để học sinh chưa
hoàn thành nhắc lại kiến thức này… trong học tập thì giáo viên nên hỏi những
câu hỏi mà phần trả lời có sẵn trên sách giáo khoa. VD: như tìm từ, tìm câu
văn…trong mơn tập đọc. Trong mơn tốn thì : Bài tốn cho biết gì? Hỏi gì?...
Đối với học sinh cá biệt, việc lơi là trong học tập, không chú ý học tập, hay nói
chuyện, làm việc riêng, khơng chịu nghe lời. Thơng qua tiết học cũng cần chú ý
cao độ dối với đối tượng này. Hướng dẫn cụ thể cho số các em này hiểu được
bài bằng cách chia nhỏ gợi mở, kích thích động viên sự tích cực của học sinh.
Dành thời gian riêng hướng dẫn phụ đạo cho những học sinh này, làm sao để
cho học sinh tiếp cận được bài học.
Giáo viên biết hỏi “gợi mở” mang tính phát động, nhất định sẽ nhận được câu
trả lời từ trò. Những câu trả lời đó có thể đúng hoặc chưa đúng, có thể khơng có
căn cứ. Chúng ta gợi dần, định hướng dần để các em biết dựa vào đâu để trả lời


mỗi khi làm việc. Giáo viên biết “cuốn” học sinh vào trò chơi học tập, sẽ “lấp”
thời gian “trống”, trò khơng “nhàn cư” để nghịch, tranh thủ nói chuyện … ngay
trong tiết học.
Biện pháp 4: Giáo viên biết chia sẻ, lắng nghe học sinh

Giáo viên gặp riêng học sinh cá biệt bằng tình cảm chân thành của mình, giáo
viên bình tĩnh, nhẹ nhàng, tế nhị, phân tích có lý, có tình cho học sinh thấy được
ưu điểm để phát huy, thấy mức độ nguy hại của khuyết điểm để sữa chữa.
GV chủ nhiệm phải ln có tình cảm u thương, niềm tin động viên học sinh
bởi “Chỉ có tấm lịng mới đánh thức được tấm lịng”.
Chính việc giáo viên nên thường xuyên trò chuyện, quan tâm, gần gũi, nhắc
nhở, động viên học sinh học tập, có thái độ thân thiện với học sinh sẽ tạo cho
học sinh nhìn mình là cảm thấy gần gũi, chứ khơng phải gặp mình là sợ la, sợ bị
mắng. Như vậy học sinh sẽ có tâm lý tìm mọi cách để đối phó với sự việc nhiệm
vụ của mình. Ta phải làm sao tạo cho học sinh có cảm giác là giáo viên như là
một người bạn thân, bạn tâm tình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của mình, khi mình
vui, buồn đều có thể chia sẻ với thầy cơ, khích lệ mình khi mình khó khăn trong
gia đình, bế tắc trong học tập. Hầu hết học sinh cá biệt không ý thức được nhiệm
vụ học tập của mình, khơng ý thức được vai trị của việc học tập. Vì vậy các em
khơng có thói quen tự giác, việc đi học với các em chỉ là để vừa lịng cha mẹ,
thầy cơ, để được găp bạn, để không phải làm việc nhà… các em chỉ học cho có
học, chứ khơng biết học để làm gì, học có tác dụng như thế nào đến cuộc sống
của mình sau này, vì vậy người giáo viên phải chỉ ra cho các em thấy tác dụng
của việc học bằng những ví dụ cụ thể những tấm gương rất gần gũi với các em
của sự thành công và thất bại trong cuộc sống do sự học mang lại (Nguyễn Ngọc
Kí, Cao Bá Quát, Trần Bảo Đồng…)
Trò chuyện để nắm bắt tâm tư nguyện vọng của từng học sinh, tìm ra nguôn
gốc nảy sinh ra khuyết điểm của học sinh. Từ đó giáo viên vạch kế hoạch giáo
dục học sinh và thực hiện. Để thực hiện được thành công, giáo viên cần có
những việc làm cụ thể để cho học sinh thấy cái này thì nên làm, cái kia khơng
nên làm. Ví dụ như: Gv có thể cắt tóc cho em, sửa cái tà áo, cái khăn quàng đỏ
cho em…
Những công việc này tuy đơn giản nhưng nó tạo nên sự gần gũi với học trò.
Khi chiếm được niềm tin của trị, giáo viên hướng cho trị thực hiện hoạt động
tích cực một cách linh hoạt gợi mở. Lúc nào thì nghiêm nghị nhắc nhở, lúc nào

thi gần gũi, lúc nào thì động viên kịp thời, lúc nào thì phê bình nhẹ nhàng súc
tích, ngắn gọn, có lúc thì phải liên hệ tới việc em đang làm với một tấm gương
hay một điển hình tiến bộ. Rồi tạo cho các em thấy được mục đích của mình
đang làm là như thế nào cho đúng. Kết hợp với việc thực hiện nội quy của lớp.
Giáo viên thường gặp khó khăn, để học sinh có thói quen khoả lấp việc làm
chưa tốt của các em. Nhiều lần như thế, các em trở thành thói quen. Để hồn


thành cơng việc giáo dục học trị, giáo viên cần có phương pháp giáo dục, bền
bỉ, kiên nhẫn. Khơng làm một vài lần rồi nghỉ thì việc đó khơng đạt được.
Giáo viên thức tỉnh học sinh bằng những câu chuyện đạo đức. Cho các em
một điểm tựa niềm tin. Đối xử với các em bằng sự bao dung của người cha, sự
nhân từ của người mẹ, sự cảm thông của người anh người chị và sự thân thiết
của người bạn. “Trong tất cả sự chia sẻ thì sự chia sẻ tinh thần là quý giá nhất”.
Biện pháp 5: Giáo dục học sinh thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp
- Tạo môi trường làm sao cho những học sinh trong học tập mong muốn được
tham gia tích cực. Thường thì những học sinh cá biệt lại hay có sự tự ti, khơng
giám hoạt động, hay có những học sinh có thói quen nghịch ngợm trong giờ sinh
hoạt,... Vậy làm thế nào để những học sinh này ham thích hoạt động. Giúp học
sinh hiểu thêm được tác dụng, ý nghĩa của từng hoạt động cũng góp phần vào
việc tạo thành thói quen thích hoạt động của các em.
- Để các em yêu thích hoạt động Đội, giáo viên phối hợp tổ chức các hoạt động
bổ ích. Chẳng hạn, trong hoạt động tập thể, múa hát tập thể, giáo viên đến bên
một số học sinh cá biệt đó có thể thân thiện cùng các em, cùng hòa vào điệu múa
của các em, để các em tự tin hơn và thích thú hơn bởi thầy cũng tham gia. Giờ ra
chơi, các em này hay nghịch, hay tìm cách phá mạnh, làm mạnh một cái gì đó. Ở
đây khơng phải là giáo viên giao nhiệm vụ cho các em là xong, bởi như thế thì
các em cũng bỏ đi mà thơi. Giáo viên cũng có thể chủ động tổ chức cho các em
chơi và tham gia chơi cùng các em, lôi cuốn các em vào cuộc chơi. Nhiều lần
như thế các em bắt đầu có sự thích thú trong khi chơi và góp phần tạo nên sự

ham thích hoạt động của các em.
- Đối với đội cờ đỏ: Kiểm tra, đôn đốc những bạn chưa thực hiện nội quy của
trường, của lớp. Nắm được các khuyết điểm vi phạm của các em kịp thời có biện
pháp uốn nắn, khắc phục những hành vi chưa tốt. Từ đó, thầy có thể định hướng
cho các em phân tích những khuyết điểm, tự khắc phục sửa lỗi. Mỗi việc làm
cần có sự thay đổi linh hoạt, phối hợp nhiều hình thức, tránh rập khn lặp nhiều
lần gây tạo cho học sinh thói quen khơng tốt.
- Tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động nhân đạo để học sinh tham gia, xây dựng
mơi trường lành mạnh, tích cực, để các em có cơ hội tự thể hiện mình. Những
học sinh cá biệt, tự ti sẽ mạnh dạn, tích cực hơn trong học tập và rèn luyện, như
hoạt động qun góp ủng hộ vì bạn nghèo, ủng hộ các bạn vùng bị bão lụt thiên
tai; hoạt động cơng ích như: chăm sóc bồn hoa, làm kế hoạch nhỏ, chăm sóc
nghĩa trang liệt sĩ ...
- Tổ chức cho tập thể lớp quan tâm tận tình giúp đỡ, như các bạn đến nhà động
viên giúp đỡ bạn, động viên cùng bạn chơi, trao đổi nội dung bài học (để các em
thấy được sự quan tâm của bạn bè xung quanh) dưới mọi hình thức như: thăm
hỏi, đơi bạn, nhóm bạn cùng tiến. “Sức mạnh mãnh liệt nhất, phi thường nhất
trên thế gian này chính là sức mạnh của tình u và sự cảm thông ".


Hình ảnh “đơi bạn” giúp bạn học trong giờ tự học

Hình ảnh các bạn đến nhà giúp đỡ Hồn học tập
Biện pháp 6: Giúp các em tránh các hành động khơng an tồn
Thường thì trong số học sinh cá biệt hay có những cá biệt về lời nói, hành
động, cử chỉ hay gây sự, đánh nhau, quậy phá. Vậy việc giúp các em tránh được
hành động mất an toàn là cần thiết. Giáo viên tổ chức cho những học sinh nắm
được quy ước lớp học và biết được vì sao lại phải thực hiện nội quy lớp học.



- Khi học sinh xảy ra sự việc, giáo viên cần kiên nhẫn phân tích mở để các em
thấy được việc này khơng nên làm, vì sao khơng nên làm. Sự việc không phải
một lần hay vài lần là thành cơng mà cần sự kiên trì, gần gũi ln bên em. Đẩy
lùi những tiêu cực, làm tăng ý thức tích cực trong học sinh. Nhiều lần như thế
cũng dần hình thành được những kĩ năng tích cực cho các em.
- Biết cách giải quyết và hướng dẫn học sinh giải quyết các xung đột cá nhân,
xung đật trong nhóm, trong tập thể lớp. Tạo khơng gian an tồn để giải quyết các
vấn đề: giúp học sinh cảm thấy an toàn khi bàn bạc và tìm cách giải quyết về
những xung đột, những vấn đề nảy sinh trong lớp học. Khi bạo lực hoặc những
tình huống xung đột nảy sinh trong lớp học, không nên phán xét ngay ai đúng, ai
sai. Cần cân nhắc xem có thể dàn xếp bằng thương lượng như thế nào. Khi các
em suy nghĩ trở lại, thuyết phục hai bên cùng gặp gỡ giải quyết xung đột. Có thể
giải quyết xung đột qua các bước sau:
- Tạo cơ hội cho học sinh hiểu và có cách ứng xử tôn trọng và giúp đỡ người
khác. Giáo viên đưa ra những tình huống chứa đựng nội dung về sự tôn trọng và
giúp đỡ lẫn nhau trong lớp học hoặc ngoài cuộc sống. Học sinh sắm vai, thực
hành ứng xử các tình huống. Từ đó, giúp các em hiểu và có thái độ tơn trọng
mọi người, biết giúp đỡ nhau trong cuộc sống.

Hình ảnh các em trao đổi về nội quy của lớp
Biện pháp 7: Tăng cường phối hợp với phụ huynh
Ở địa phương chúng tơi, trình độ dân trí cịn thấp, nhiều phụ huynh chưa
thật sự tìm hiểu về kiến thức giáo dục con em mình. Hơn nữa, nhiều gia đình có
hồn cảnh éo le, con cái để thuận theo tự nhiên, được thế nào hay thế đó. Chưa
kể một số gia đình khác, con để cho ơng bà già, bố mẹ làm ăn xa.
Chẳng hạn, trường hợp học sinh Kiên không chăm lo việc học hành, hay có
hành vi múa máy, đánh các em nhỏ; giáo viên nhắc nhở chỉ bảo mãi vẫn không
thay đổi là bao, tơi suy nghĩ, sẽ có ngun nhân nào đó mà chưa tìm ra được.



Theo dõi học sinh có trong cặp những quyển truyện tranh có nội dung phim
chưởng. Tơi hỏi em về nguồn gốc những quyển truyện tranh để tìm hiểu nguyên
nhân. Thì ra em này luôn xem phim chưởng đánh nhau, tôi trao đổi và mượn cho
em một số cuốn truyện tranh lành mạnh để em đọc lúc rảnh rỗi.
Để giáo dục học sinh gặp khó khăn trong học tập là vấn đề khó địi hỏi sự
kiên trì tỉ mỉ và sự hợp tác của nhiều người, trong đó sự cần thiết là phải phối
hợp với cha mẹ học sinh - người trực tiếp nuôi nấng các em. Để làm tốt điều
này, trước hết giáo viên phải làm tốt công tác tuyên truyền để các bậc phụ huynh
nhận thức đầy đủ về các biên pháp giáo dục học sinh. Trong buổi họp phụ huynh
đầu năm, tôi xây dựng kế hoạch giáo dục học sinh cá biệt thông qua trước phụ
huynh cùng thống nhất phương pháp để thực hiện. Tuy nhiên trong quá trình
thực hiện, tơi đã rất chú ý đến việc tổ chức tuyên truyền đến bậc phụ huynh bằng
nhiều hình thức. Giáo viên cần vạch ra kế hoạch cụ thể qua các lần họp phụ
huynh hoặc qua các cuộc trao đổi trò chuyện với phụ huynh, tuyên truyền vận
động phụ huynh tham gia vào việc giáo dục con em.
Có thể trao đổi qua việc đến thăm gia đình học sinh. Thường học sinh cá biệt
thì lại có phụ huynh cá biệt; một là không quan tâm đến việc học của con em,
hoặc không dám đối diện với sự thật về những sai phạm của con mình...thường
những phụ huynh này ít tham gia vào các cuộc họp chung kể cả những lúc có
giấy mời riêng cùng khơng đến. Đối với đối tượng này giáo viên cần nhiệt tình
hơn, có thể đến thăm gia đình để tìm hiểu điều kiện sinh hoạt của gia đình và
nắm được tình hình của các em ở nhà, thường những đối tượng này họ ngại nói
những điều sai của con em họ vì thế tơi tổng hợp những điểm tốt mà các em có
được dù đó chỉ là một việc không đáng kể để khen ngợi các em, sau đó tơi lồng
một vài khuyết điểm của các em; tránh nêu hồn tồn hoặc một loạt khuyết điểm
thì phụ huynh sẽ có sự mặc cảm, hoặc nảy sinh sự tiêu cực, bng xi, ngại nói
ra những điều mà ta cần tìm hiểu, trao đổi.
Vào đầu năm học, giáo viên chuẩn bị sổ liên lạc. Sau mỗi tháng, giáo viên
trao đổi những vấn đề về từng học trò trên tinh thần tích cực và nhận định đúng
về học trị. Phụ huynh trao đổi lại những vấn đề tiếp thu, những khó khăn, những

đề xuất qua số liên lạc. Trao đổi trực tiếp với phụ huynh, thông qua số liên lạc,
trao đổi thông qua điện thoại để giúp phụ huynh có biện pháp kịp thời động viên
khuyến khích giáo dục con em mình. Thường xuyên thăm hỏi, trao đổi trực tiếp
với gia đình tìm hiểu về những đặc điểm, tính cách của các em. Các thành viên
trong gia đình tham gia vào q trình giáo dục trẻ một cách tích cực, trẻ sẽ có
thái độ và hành vi tích cực trong vui chơi, học tập cũng như trong các hoạt động
khác. Và những gia đình thường xuyên nhận được các thơng điệp tích cực từ
phía giáo viên thường sẽ quan tâm tới vấn đề của học sinh ở trường hơn. Do đó
sự nỗ lực phối hợp giữa gia đình và nhà trường, để giáo viên và cha mẹ có thể
chia sẻ những trách nhiệm, trao đổi về trẻ nhằm tạo ra một mối liên hệ thường
xuyên sẽ tốt hơn cho học sinh rất nhiều.


Cha mẹ có thể tìm nhóm bạn chơi cho con (nhóm bạn chơi ở lớp, ở trường;
nhóm bạn chơi ở nhà – bạn hàng xóm, bạn của bố mẹ…). Cha mẹ nên khuyến
khích sự cố gắng của con, sẵn sàng trả lời các câu hỏi của con và dành thời gian
thảo luận với con những hoạt động đã tham gia ở trường, lớp. Chúng ta có thể
khuyến khích con hồn thành bổn phận của mình ở trường lớp và hướng dẫn trẻ
những kinh nghiệm khác nhằm làm tăng sự tự tin và các sở thích của trẻ. Tham
gia vào các hoạt động ngoại khóa của con nếu có thể. Cha mẹ càng tham gia
nhiều vào các hoạt động của con thì sẽ càng gần gũi để hiểu điểm mạnh, điểm
yếu của con, từ đó có biện pháp thích hợp giúp con ln tự tin, hịa đồng với bạn
bè, thầy cơ và mọi người.
Gia đình, cha mẹ học sinh có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc góp phần
làm cho việc giáo dục nói chung, phong trào thi đua này nói riêng đạt được kết
quả tốt. Cha mẹ học sinh cần:
- Xây dựng môi trường thân thiện trong từng gia đình, trong đó mọi thành
viên đều u thương và tơn trọng lẫn nhau; người lớn cần gương mẫu về cách
sống, làm việc, nói năng và hành vi ứng xử; nên dành thời gian ít nhất 15 - 30
phút mỗi ngày để trò chuyện, lắng nghe chia sẻ các ý kiến và nguyện vọng chính

đáng của con em mình.
- Bố trí một chỗ ổn định, đủ sáng để các em học bài. Thu xếp việc nhà để
hàng ngày các em có thể học bài vào thời gian cố định, không bị ảnh hưởng bởi
sinh hoạt của gia đình (xem tivi, tiếp khách, …).
- Hàng ngày nên dành thời gian thích hợp để kiểm tra việc học bài, làm bài
tập ở nhà nhưng tránh gây áp lực cho con em mình. Xem sổ liên lạc, định kỳ liên
hệ với giáo viên chủ nhiệm để nắm được tình hình học tập và hỗ trợ kịp thời
việc học tập, rèn luyện của con em mình.
- Phân cơng và hướng dẫn con em mình đảm nhận một số việc thích hợp
trong gia đình (nấu cơm, rửa chén bát, chăm sóc ơng bà, …), qua đó rèn luyện ý
thức tự lập và kĩ năng sống.
- Phụ huynh lên kế hoạch quan tâm trò chuyện cùng con em. Tuỳ theo đặc
điểm cơng việc của gia đình, sắp xếp thời gian buổi trưa, tối lúc nào phù hợp,
hỏi về tình hình học tập của con em, tìm hiểu về mong muốn và định hướng của
con em mình.
Biện pháp 8: Tổ chức thi đua, động viên khen thưởng
- Thầy cô và các bạn trong lớp luôn dõi theo bước đi của các em. Bên cạnh việc
phân tích nhắc nhở các em sửa chữa những khiếm khuyết. Giáo viên luôn ghi
nhận những việc làm tốt, sự tiến bộ của học sinh. Bằng nhiều hình thức khác
nhau: Khen trực tiếp học sinh, khen trước lớp, cuối một giai đoạn, có thể là giữa
kì, cuối kì hay sau một đợt thi đua. Giáo viên tổ chức bình bầu, khen thưởng các
em những món q mà các em thích. Những món q tuy nhỏ nhưng cũ là


nguồn động viênng kịp thời khích lệ các em. Đó cũng là cách ghi nhận sự tiến
bộ của các em.
- Cảm giác được thừa nhận và khen thưởng trong một tập thể (ở bất kì hình
thức nào, như: lớp học, tổ, đội, hoặc gia đình, cộng đồng có thể có những ảnh
hưởng mạnh mẽ đến thái độ và cách xử sự của chúng ta. Cảm giác ấy khiến ta
nâng cao ý thức giá trị về bản thân, tăng thêm lòng tự tôn; giúp học sinh tự tin

với bản thân và khuyến khích các em nhìn nhận những mặt tích cực của bạn
khác.
- Mọi trẻ em đều rất thích thú và có nhu cầu được khen thưởng, khuyến khích,
động viên. Trẻ sẽ có cách xử sự tích cực, những hành vi tốt của các em được
củng cố và phát huy bằng những khuyến khích, động viên tích cực.
Việc động viên khuyến khích tích cực được thực hiện bằng nhiều hình thức,
như: một nụ cười, một lời khen ngợi, sự công nhận trước bạn bè, sự biểu dương
trước lớp học hay một phần thưởng;…. Chế độ khen thưởng tích cực sẽ đạt hiệu
quả cao khi gắn với quyền lợi đặc biệt, đầy ý nghĩa, dành cho những học sinh có
những cách cư xử tốt. Ngược lại, những quyền lợi đó sẽ bị tước bỏ khi học sinh
đó có cách cư xử xấu. Sử ủng hộ, động viên tích cực đặc biệt quan trọng đối với
học sinh có nhiều khó khăn, lúng túng trong lớp học. Vì thế, giáo viên cần động
viên, khuyến khích các em có thái độ hay hành vi tích cực, không bỏ qua cơ hội
khen trước lớp khi học sinh thể hiện tinh thần hợp tác, tiến bộ.
VI . KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Trên đây là những biện pháp mà tơi đã đúc rút vận dụng để gi dục, rèn
luyện cho học sinh cá biệt trong thời gian qua. Với sự nổ lực vươn lên không
ngừng của bản thân mà các em học sinh cá biệt lớp tôi đã đạt được kết quả rất
khả quan. Sau khi tiến hành các cuộc thực nghiệm được Chuyên môn nhà
trường công nhận, thu được kết quả về số lượng học sinh cá biệt ở mức độ
tích cực hoạt động như sau:
- Các em thực hiện tốt nội quy trường lớp, khơng cịn em nào bị nhắc nhở hay bị
hạ bậc thi đua trong các buổi sinh hoạt lớp.
- Các em trong giờ học tập trung chú ý, khơng nói chuyện riêng trong giờ học,
khơng cịn tình trạng trêu chọc, mỉa mai bạn; khi gặp những tình huống khó
khăn bất lợi các em biết kìm chế khơng nổi nóng hung với bạn như trước.
- Các em đã biết chia sẻ cũng nhóm bạn, tham gia sinh hoạt sôi nổi, vui vẻ cởi
mở hơn.
- Cả 6 em đều hoàn thành nhiệm vụ học tập. Đặc biệt có em Anh Tuấn và Vân
kết quả học tập rất tiến bộ được các bạn trong lớp bình xét đề nghị và được Hiệu

trưởng khen thưởng ở học kì I: “ Có nhiều tiến bộ trong học tập và rèn luyện”.


Số lượng

Hứng thú trong học
tập

Hứng thú ít
trong học tập

Khơng hứng thú
trong học tập

6 em

5 em

1em

0

Kết quả cho thấy việc giáo dục rèn luyện học sinh cá biệt của lớp 4A có hiệu
quả cao. Từ đó, chất lượng giáo dục được nâng cao rõ rệt. Thực hiện tốt chỉ tiêu
đăng kí giáo dục toàn diện với nhà trường.
C. KẾT LUẬN- ĐỀ XUẤT
1. Kêt luận
Qua q trình thực hiện tơi rút ra được một số kinh nghiệm như sau:
- Giáo dục tích cực sẽ đem đến cho các em nhiều điều tốt đẹp như: Các em có
nhiều cơ hội chia sẻ, bày tỏ, được mọi người quan tâm, tôn trọng và lắng nghe ý

kiến; tích cực chủ động hơn trong học tập và rèn luyện; tự tin trước mọi người;
khả năng của trẻ được phát huy.
- Về lâu dài, tạo được môi trường sống hồ bình, sống vì mọi người, thấy được
an tồn, được tơn trọng lẫn nhau, giải quyết được các xung đột hay mâu thuẫn
thông qua thương lượng.
- Chúng tôi nhận thấy việc giáo dục tích cực học sinh trong đó có giáo dục học
sinh cá biệt trong mơi trường thân thiện cần tiến hành đồng bộ từ các cấp quản
lí; từ những giáo viên chủ nhiệm thì học trị sẽ được vận hành trong mội trường
giáo dục tích cực thân thiện. Từ đó trẻ thích học tập, ham hoạt động; dần hình
thành kĩ năng sơng cho học sinh. Chúng ta sẽ thành công và đạt hiệu quả cao
trong công tác giáo dục. Hình thành những con người có nhân cách mới, ứng xử
tiến bộ với môi trường sống, với xã hội.
2. Đề xuất
- Đối với GV chủ nhiệm phải thật sự tâm huyết, trăn trở, yêu thương học sinh
cần có nghệ thuật riêng trong giáo dục, rèn luyện học sinh nói chung và học
sinh cá biệt nói riêng.
- Đối với cha mẹ học sinh: Cần quan tâm, động viên hơn nữa tới việc tự học,
tự rèn ở nhà của các em. Tạo điều kiện tốt nhất cả về vật chất, tinh thần, môi
trường giáo dục để các em được phát triển tồn diện. Ln báo với với giáo
viên những sai sót ở gia đình để cùng giáo viên có biện pháp uốn nắn, giáo
dục.
- Đối với nhà trường: Cần tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn, các chuyên
đề để phổ biến các kinh nghiệm có chất lượng trong công tác giáo dục, rèn
luyện học sinh cá biệt để giáo viên trong nhà trường học hỏi và vận dụng vào
thực tiễn cơng tác chủ nhiệm lớp để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện của nhà trường.


Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi về công tác chủ nhiệm
lớp trong thời gian qua. Chắc chắn rằng đề tài này cịn có những thiếu sót nhất

định, kính mong các cấp quản lý cùng bạn bè đồng nghiệp góp ý chân thành
giúp cho cơng tác chủ nhiệm của tôi ngày càng thành công hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của Hiệu trưởng

Như Thanh, ngày 26 tháng 3 năm 2016
CAM KẾT KHÔNG COPY, SAO CHÉP

Mai Huy Cương




×