Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học môn đạo đức cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.5 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
TT

Nội dung

1

MỞ ĐẦU

Trang

- Lý do chọn đề tài

2

- Mục đích nghiên cứu

3

- Đối tượng nghiên cứu

3

- Phương pháp nghiên cứu

3

2

NỘI DUNG


4

2.1. Cơ sở lý luận.

4

2.2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

5

2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện

7

2.4. Hiệu quả

18

3

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

20

3.1. Kết luận

20

3.2. Kiến nghị


20

1


PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết: Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ
đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kĩ thuật, xây dựng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
nâng cao đời sống tinh thần, vật chất của nhân dân. Cùng với sự đổi mới của đất
nước, sự nghiệp giáo dục và đào tạo cũng từng bước đổi mới về Nội dung Phương pháp dạy học nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện nguồn nhân
lực: Có đủ phẩm chất đạo đức, trí thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và trình độ khoa học
kĩ thuật để phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá phù hợp với truyền thống và
tình hình thực tiễn của đất nước, tiếp cận với trình độ giáo dục phổ thông của
các nước phát triển trong khu vực và trên toàn thế giới.
Cùng với các môn học khác, Đạo đức là một trong những môn học quan
trọng bắt buộc trong trường Tiểu học. Môn Đạo đức đã giúp cho học sinh có
những hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù
hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà
trường, cộng đồng, môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện các chuẩn
mực đó. Từng bước hình thành kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân
và những người xung quanh theo chuẩn mực đã học, lựa chọn và thực hiện các
hành vi ứng xử phù hợp chuẩn mực trong các quan hệ và tình huống đơn giản,
cụ thể của cuộc sống. Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương
tôn trọng con người, yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt, không đồng tình với cái ác,
cái sai, cái xấu.
Như Bác Hồ đã nói: “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó,
có tài mà không có đức là người vô dụng”. Trong thời gian gần đây, bên cạnh
những người tốt, những người có những hành vi ứng xử văn minh, lịch sự thì

còn có một bộ phận không nhỏ những người thiếu văn hóa, có lối sống vi phạm
đạo đức, vi phạm pháp luật không những gây hậu quả xấu tới bản thân họ mà
còn làm ảnh hưởng không tốt tới nhiều người khác và trong số đó còn có cả các
em học sinh - những mầm non tương lai của đất nước.
Từ các mục tiêu trên, vị trí quan trọng của môn Đạo đức, nhiệm vụ quan
trọng nhất đặt ra cho chúng ta - những người làm công tác giảng dạy là phải học
tập và nắm vững được mục tiêu môn học, nội dung đổi mới chương trình và
phương pháp dạy học mới để giúp học sinh có những chuẩn mực hành vi đạo
đức đúng ngay từ nhỏ, tạo thói quen tốt cho các em. Bản thân tôi đã tìm tòi,
nghiên cứu và vận dụng vào giảng dạy hàng ngày giúp các em học sinh có thêm
kĩ năng sống, ngày một ngoan ngoãn, lễ phép hơn. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn
chọn đề tài “Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học môn Đạo đức
cho học sinh lớp 2.”

2


II. Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra những giải pháp, biện pháp tối ưu nhất giúp bản thân dạy tốt hơn
môn Đạo đức lớp 2. Giúp cho các em học sinh hình thành thói quen, phát triển
những chuẩn mực hành vi đạo đức trong cuộc sống hàng ngày. Hoàn thiện dần
kĩ năng sống, biết yêu cái thiện, cái tốt; ghét cái ác, cái xấu, hướng tới một cuộc
sống tươi đẹp.
III. Đối tượng nghiên cứu:
+ Nội dung, phương pháp dạy môn Đạo đức Lớp 2.
+ Học sinh lớp 2A Trường Tiểu học Liên Lộc năm học 2014 - 2015
+ Học sinh lớp 2A Trường Tiểu học Liên Lộc năm học 2015 - 2016
IV. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp đọc tài liệu nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
+ Phương pháp Phân tích-tổng hợp.

+ Phương pháp Điều tra nghiên cứu.
+ Phương pháp Thống kê số liệu.
+ Phương pháp Quan sát.
+ Phương pháp Thực nghiệm.

3


PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:

1. Vị trí của môn Đạo đức trong trường Tiểu học
Ở Tiểu học nói chung, lớp 2 nói riêng, mỗi môn học đều góp phần vào
việc hình thành cơ sở ban đầu nhân cách cho trẻ nhỏ, đặc biệt là môn Đạo đức
có vị trí rất quan trọng trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học.
Giáo dục Đạo đức cho học sinh tiểu học học một cách có hệ thống theo một
chương trình khá chặt chẽ giúp các em hình thành được ý thức đạo đức (tri thức
và niềm tin đạo đức) ở mức độ sơ giản, định hướng cho các em rèn luyện một
cách tự giác những thói quen hành vi đạo đức tương ứng.
Môn Đạo đức nhằm giúp học sinh có nhiều hiểu biết ban đầu về một số
chuẩn mực hành vi đạo đức phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các
em với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng, với đất nước và ý nghĩa của
việc thực hiện các chuẩn mực đó. Môn Đạo đức từng bước hình thành thái độ tự
trọng, tự tin, yêu thương, tôn trọng con người, yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt,
không đồng tình với cái ác, cái xấu, cái sai. Như Bác Hồ đã dạy:
“Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Chính vì vậy, môn Đạo đức có vị trí hết sức quan trọng trong trường Tiểu học:
- Là con đường cơ bản và quan trọng nhất trong việc thực hiện giáo dục
đạo đức, tiêu chí hàng đầu góp phần hình thành và phát triển nhân cách của học

sinh.
- Là cơ sở để các môn học khác tích hợp nội dung giáo dục đạo đức cho
học sinh.
- Là tiền đề để học sinh tiếp tục học môn Giáo dục công dân ở trường
Trung học cơ sở. Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt
nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn Đạo đức
hình thành hành vi đạo đức đúng, những nhận thức về thế giới xung quanh nhằm
phát triển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy và bồi dưỡng tình cảm đạo đức
tốt đẹp của con người.
2. Mục đích, nhiệm vụ dạy học Đạo đức:
Dạy học Đạo đức ở Tiểu học nhằm mục đích góp phần hình thành ở học
sinh những hành vi và thói quen đạo đức, từ đó góp phần hình thành ở các em cơ
sở ban đầu nhưng rất quan trọng của nhân cách người công dân, người lao động
có khả năng hòa nhập tích cực vào cuộc sống của cộng đồng xã hội.
Để thực hiện được mục đích này, dạy học Đạo đức ở Tiểu học phải hoàn
thành các nhiệm vụ bồi dưỡng cho các em ý thức sơ đẳng và định hướng giá trị
đạo đức về các chuẩn mực hành vi đạo đức đã được quy định; hình thành ở các
4


em những xúc cảm, tình cảm đạo đức tốt đẹp; định hướng và rèn luyện cho các
em những hành vi và thói quen hành vi đạo đức phù hợp với những chuẩn mực
hành vi đó.
II..THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.

Năm học 2014 - 2015 và năm học 2015 - 2016, tôi đều được được phân
công dạy khối lớp 2, trường Tiểu học Liên Lộc, trong quá trình giảng dạy bản
thân tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:
1. Thuận lợi - khó khăn:
a, Thuận lợi:

* Về phía học sinh:
- Ở mẫu giáo 5 tuổi, trẻ đã được cung cấp những chuẩn mực đạo đức ở
mức độ sơ giản như khi đi phải xin phép, khi về phải chào hỏi. Bước vào lớp
Một các em được tiếp tục học cách cư xử nhưng ở mức độ cao hơn ở Mẫu giáo
như là chào hỏi và xin phép như thế nào cho đúng và phù hợp.
- Học sinh lớp 2 rất thích học môn Đạo đức. Đây là môn học gắn với thực
tế, có thể sử dụng nhiều ví dụ thực tế để liên hệ trong học tập. Các em rất thích
các hoạt động của môn học như đóng vai, trò chơi, kể chuyện, múa hát, quan sát
tranh, ...
- Học sinh phần lớn được sống trong sự quan tâm hết mực của gia đình,
có mối quan hệ họ hàng thân thiết, gắn bó. Các em đều là những học sinh ngoan
ngoãn, kính thầy yêu bạn.
* Về phía giáo viên:
- Trong những năm học vừa qua tổ nhóm chuyên môn có được sự quan
tâm, chỉ đạo sâu sát của Ban giám hiệu, Chuyên môn nhà trường, và đặc biệt là
có sự quan tâm, chỉ đạo của Phòng Giáo dục để dạy tốt môn Đạo đức trong nhà
trường.
- Phương tiện dạy học chủ yếu trong giờ đạo đức là vở bài tập đạo đức,
với nội dung nhẹ nhàng, giúp giáo viên truyền thụ bài cũng như học sinh tiếp
nhận một cách dễ dàng hơn.
b, Khó khăn:
* Về phía học sinh:
- Tâm lý học sinh Tiểu học thích "bắt chước" nên hành vi đạo đức các em
có thể thu nhận qua việc giao tiếp, qua tranh ảnh, sách báo, truyện, đài, phim
kịch, ... nhưng các em chưa biết phân biệt để lựa chọn hành vi đạo đức phù hợp
cho mình nên dẫn đến việc bắt chước cả cái xấu, trái với chuẩn mực hành vi đạo
đức một cách vô thức. Chính vì vậy những chuẩn mực hành vi đạo đức giáo dục
trẻ phải được cung cấp và uốn nắn ngay từ những lớp đầu cấp, nhất là lớp 2.
- Đặc biệt học sinh không biết áp dụng kiến thức đã học vào thực tế.
Chẳng hạn học sinh lớp 2 vừa được học bài “Chăm chỉ học tập” nhưng trong

giờ học lại không chú ý nghe giảng, không thuộc bài. Học sinh vừa được học bài
“ Giữ trật tự vệ sinh nơi công cộng” nhưng lại rất mất trật tự trong giờ học hoặc
vứt rác bừa bãi ở sân trường.
5


* Về phương tiện đồ dùng dạy học: Vở bài tập đạo đức có rất nhiều tranh
ảnh nhưng tất cả đều là tranh vẽ, màu sắc còn đơn điệu, chủ yếu sử dụng màu
xanh, màu đen nên học sinh khó nhận biết, hình thành kiến thức.
Ví dụ: Bài 14: Bảo vệ loài vật có ích trang 51, tranh vẽ các con vật còn
đơn điệu, chưa đẹp, màu sắc chưa hấp dẫn, học sinh ở từng vùng, miền khó có
thể nhận biết được các con vật, ...
* Về phía giáo viên:
- Một số giáo viên chưa coi trọng môn Đạo đức, coi đây là môn phụ nên
trong quá trình giảng dạy chưa nghiên cứu kĩ mục tiêu, nội dung bài học để lựa
chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp. Việc thực hiện các
giờ học trên lớp chưa đảm bảo, thường cắt xén thời gian dạy học của bộ môn.
- Ở tiết Đạo đức có sử dụng nhiều hoạt động nên một số giáo viên chưa
nhiệt tình và thường ngại tổ chức các hoạt động như sắm vai, trò chơi, thảo luận,
... vì sợ mất thời gian. Do vậy dẫn đến học sinh phải đóng vai trò thụ động, hoặc
áp đặt khi lĩnh hội kiến thức, dẫn đến hiệu quả của tiết Đạo đức chưa cao.
- Một số giáo viên không coi trọng thiết bị dạy học, ngại sử dụng đồ dùng
dạy học. Giáo viên thao tác đồ dùng chưa linh hoạt, còn lúng túng hoặc chưa
nắm chắc ý đồ của sách giáo khoa để sử dụng đồ dùng một cách hiệu quả dẫn
đến học sinh chưa thích thú với tiết học.
2/ Kết quả của thực trang trên:
Năm học 2014 – 2015 tôi được phân công dạy lớp 2A. Sĩ số học sinh 29
em, trong đó: Học sinh nam: 19 em, Học sinh nữ: 10 em. Với đặc điểm học sinh
nam nhiều, các em lại rất hiếu động nên nền nếp học tập, cách nói năng cư xử
của các em cần phải uốn nắn rất nhiều. 6 học sinh có bố mẹ đi làm ăn xa, ở nhà

với ông bà và bác vì vậy việc soạn sách vở hàng ngày chưa đầy đủ, bảo quản
sách vở chưa tốt, ... dẫn đến kết quả học tập các môn học nói chung và môn Đạo
đức nói riêng của các em chưa cao.
Cụ thể kết thúc học kì I năm học 2014 - 2015 môn Đạo đức đạt kết quả
như sau:
Sĩ số
29

Hoàn thành
SL
%
21
72,4

Chưa hoàn thành
SL
%
8
27,6

Với kết quả trên cho thấy chất lượng môn Đạo đức chưa cao, còn 27,6%
học sinh chưa hoàn thành nội dung môn học. Đây chính là vấn đề mà mỗi giáo
viên trực tiếp giảng dạy phải trăn trở làm sao cho chất lượng môn Đạo đức lớp
mình dạy đạt kết quả cao.
Xuất phát từ tình hình thực tế và kết quả học tập của học sinh, bản thân tôi
đã có những suy nghĩ và tìm ra các biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 2 học tốt
môn Đạo đức.

6



III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:

Từ thực trạng trên, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra những giải pháp và cách
tổ chức thực hiện như sau:
*Giải pháp 1: Giáo viên cần nhận thức rõ về việc đổi mới nội dung
chương trình, đổi mới về phương pháp và cách đánh giá môn đạo đức lớp 2
1) Nhận thức về đổi mới cấu trúc nội dung.
Nắm được cấu trúc chương trình với tính đồng tâm phát triển hơn, nội
dung các chuẩn mực hành vi mang tính mở rộng hơn. Học sinh chỉ có vở bài tập
đạo đức không có sách in đạo đức. Tên bài học phù hợp và rõ nghĩa, đầy đủ hơn.
Chương trình cũ:

Học tập đúng giờ giấc.

Chương trình mới: Học tập sinh hoạt đúng giờ.
Chương trình cũ: Yêu thương loài vật.
Chương trình mới: Bảo vệ loài vật có ích.
+ Về thời lượng có 28 tiết dạy 14 bài. Có:
- 1 tiết thực hành kĩ năng giữa học kì I.
- 1 tiết thực hành kĩ năng cuối học kì I.
- 1 tiết thực hành kĩ năng giữa học kì II.
- 1 tiết thực hành kĩ năng cuối học kì II.
- Có 3 tiết dành cho địa phương, dạy những vấn đề về đạo đức cần quan
tâm của trường, của địa phương (Quyền trẻ em; An toàn giao thông; Tìm hiểu
những di tích lịch sử, công trình văn hóa, cảnh đẹp của quê hương; ...)
- Nội dung chương trình phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của
các em với bản thân, gia đình, cộng đồng và môi trường tự nhiên. Chương trình
mới có bổ sung thêm một số chuẩn mực hành vi:
Ví dụ: + Giữ trật tự vệ sinh nơi công cộng; Biết nói lời yêu cầu, đề nghị;

Lịch sự khi gọi điện và nhận điện thoại; Lịch sự khi đến nhà người khác; Giúp
đỡ người khuyết tật, ...
- Nội dung môn Đạo đức lớp 2 theo chương trình mới là dạy học sinh
những hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội trong tình
huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống hàng ngày. Nội dung chương trình mới
không chỉ giáo dục bổn phận trách nhiệm của học sinh đối với gia đình, nhà
trường, xã hội, môi trường tự nhiên mà còn giáo dục học sinh có trách nhiệm đối
với chính bản thân, biết quý trọng bản thân, biết tự chăm sóc bản thân, có trách
nhiệm về các hành vi, việc làm của mình.
- Nếu như chương trình môn Đạo đức trước đây chỉ quan tâm đến việc
trang bị kiến thức thì chương trình mới quan tâm đến 3 mặt: Trang bị kiến thức;
7


bồi dưỡng tình cảm, thái độ; Đặc biệt quan tâm đến việc hình thành kĩ năng và
hành vi đạo đức cho học sinh.
- Nội dung chương trình đạo đức lớp 2 mới gần gũi với cuộc sống thực
của học sinh. Các tranh, ảnh, truyện, tình huống, tấm gương,... để dạy học môn
Đạo đức lớp 2 được lấy từ chính cuộc sống thực tiễn, với các mối quan hệ gần
gũi, quen thuộc hàng ngày của các em.
* Như vậy trong chương trình Đạo đức lớp 2 mới, nội dung và hình thức
được mở rộng phong phú hơn, yêu cầu nhẹ nhàng hơn, học sinh không phải học
thuộc lòng bài học gò bó như trước mà điều quan trọng là học sinh biết thể hiện
thái độ, hành vi phù hợp trong các tình huống của cuộc sống hàng ngày.
2) Nhận thức về đổi mới Sách giáo khoa.
Nội dung chương trình mới ở giai đoạn I (từ lớp 1 đến lớp 3), chưa có
sách giáo khoa mà chỉ có vở Bài tập Đạo đức. Trình bày ở khổ giấy to hơn, rõ
ràng hơn, nội dung cũng được mở rộng, đầy đủ hơn, phần lý thuyết được giảm
nhẹ. ...
3) Nhận thức về đổi mới cách đánh giá.

Thay cho việc đánh giá bằng điểm số, đánh giá bằng nhận xét theo Thông
tư 32/2009, thì nay việc đánh giá, xếp loại theo thông tư 30/2014/ TT- BGDĐT
ngày 28 tháng 8 năm 2014, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 10 năm
2014, đánh giá kết quả học tập môn Đạo đức lớp 2 bằng nhận xét, dựa vào các
mặt sau:
- Kiến thức, thái độ, hành vi, ứng xử của học sinh ở nhà, ở trường, cộng
đồng xã hội.
- Đánh giá hành vi của học sinh phải kết hợp giữa đánh giá của học sinh
với đánh giá của tập thể học sinh, của giáo viên, của cha mẹ học sinh và của
cộng đồng nơi ở.
Việc đánh giá theo thông tư 30 giúp giáo viên điều chỉnh, đổi mới phương
pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, hoạt động trải nghiệm ngay trong
quá trình và kết thúc mỗi giai đoạn dạy học, giáo dục, kịp thời phát hiện những
cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích lệ và phát hiện những khó
khăn chưa thể tự vượt qua của học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ. Mặt khác giúp
học sinh có khả năng tự đánh giá, tham gia đánh giá, tự học, tự điều chỉnh cách
học, giao tiếp, hợp tác, có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ.
Đánh giá quá trình học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của học sinh theo
chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học. Đánh giá sự hình thành và phát triển một số
năng lực, phẩm chất của học sinh.
4) Nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học.
- Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy: Đối với phương pháp dạy học
mới hiện nay dựa trên cơ sở kế thừa phát huy tính ưu việt của phương pháp
8


truyền thống, loại bỏ những phương pháp lạc hậu không còn phù hợp. Thay thế,
bổ sung vào đó là những phương pháp mới phù hợp với đối tượng học sinh và
tính ưu việt cao hơn, phát huy tối đa tính tích cực chủ động, tự giác tìm tòi sáng
tạo của học sinh: Phương pháp động não, phương pháp đóng vai, phương pháp

trò chơi, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp kể chuyện, phương pháp
đàm thoại. Đặc biệt nổi bật trong phương pháp dạy học mới là phương pháp tổ
chức hoạt động trò chơi, thảo luận theo nhóm, ... Đây là các phương pháp mới
tác động tích cực đến tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, nhằm thu hút sự chú ý gây
hứng thú, ham muốn hoạt động học tập cho các em. Với các phương pháp này
học sinh thích thú học tập hơn, tinh thần thoải mái hơn, giờ học sôi nổi hơn, làm
cho tất cả mọi đối tượng học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập.
Từ đó các em sẽ chủ động tìm tòi phát huy tìm ra kiến thức mới.
- Dạy học đạo đức theo hướng đổi mới là phương pháp khuyến khích sử
dụng những tình huống, bức tranh, băng hình, tiểu phẩm, những trò chơi, những
câu chuyện mở để dưới sự điều khiển hướng dẫn của giáo viên học sinh liệt kê
ra các giải pháp có thể có, tự đánh giá giải pháp đó, so sánh để tìm ra giải pháp
tối ưu nhất. Chống lại thói quen học tập thụ động.
Tóm lại: Mỗi phương pháp và hình thức dạy học đạo đức đều có mặt
mạnh và mặt yếu. Nó phù hợp với các loại bài riêng, từng khâu riêng của từng
tiết dạy. Vì vậy giáo viên không nên quá lạm dụng hoặc phủ định hoàn toàn một
phương pháp và hình thức dạy học nào. Điều quan trọng là căn cứ vào hoàn
cảnh cụ thể của lớp, của trường mà lựa chọn sử dụng kết hợp các phương pháp
và hình thức dạy học hợp lý.
*Giải pháp 2: Giáo viên nắm vững quy trình dạy một tiết Đạo đức lớp 2 và
một số yêu cầu về dạy Đạo đức theo hướng đổi mới::
1. Quy trình một tiết dạy Đạo đức:
Tiết 1:
1) Kiểm tra bài cũ (2 - 3')
- Giáo viên nêu câu hỏi để kiểm tra kiến thức của bài học trước.
2) Bài mới (27 - 28'):
a) Gới thiệu bài - khởi động (2 - 3')
- Hình thức: Giáo viên nêu mục tiêu tiết học hoặc tổ chức các trò chơi, bài
hát có liên quan đến chủ đề bài học.
- Mục đích: Khơi gợi hứng thú học tập, xây dựng động cơ học tập đúng

đắn, có mục đích.
- Yêu cầu: Phải dẫn dắt khéo léo, làm xuất hiện những tình huống có vấn
đề, kích thích tính tò mò ham hiểu biết của học sinh.
b, Tổ chức các hoạt động dạy học (24 - 26')
Hoạt động 1: Giới thiệu mẫu hành vi.
* Mục tiêu: Học sinh được quan sát mẫu hành vi chuẩn từ một truyện kể,
hoặc một tiểu phẩm, một việc làm, học sinh nhận biết được đó là hành vi đúng.
* Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng các phương pháp:
9


- Đóng vai
- Kể chuyện
- Quan sát
- Thảo luận
- Đàm thoại.
Hoạt động 2: Luyện tập theo mẫu hành vi
* Mục tiêu: Học sinh vận dụng kiến thức đã rút ra từ hoạt động 1, luyện
tập theo mẫu hành vi đúng, đồng thời xử lý những tình huống đạo đức theo yêu
cầu của bài học.
* Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng các phương pháp:
- Ứng xử tình huống
- Tập luyện theo mẫu hành vi
- Tổ chức trò chơi.
- Đóng vai
- Thảo luận
- Hỏi đáp
Hoạt động 3: Liên hệ.
* Mục tiêu: Học sinh biết tự xem xét. Đối chiếu các hành vi chuẩn mực
đạo đức đã học với bản thân mình và các bạn trong lớp xem bản thân học sinh

đã thực hiện được các hành vi đạo đức đúng đắn chưa, nếu chưa thực hiện được
các em biết tự mình sửa chữa để ứng xử trong cuộc sống.
* Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng các phương pháp.
- Đàm thoài
- Điều tra
- Đánh giá, tự đánh giá
- Nêu gương.
- Khuyến khích khen thưởng.
- Phê bình trách phạt.
3) Củng cố - dặn dò (3 - 5'): Có thể chọn 2 trong 3 hình thức sau:
- Giáo viên nêu 1 - 2 câu hỏi để kiểm tra kiến thức đã nắm được qua giờ học.
- Kể cho các em nghe câu chuyện theo gương tốt người tốt việc tốt có liên quan
đến bài học.
- Học sinh hát bài hát theo chủ đề vừa học.
- Giáo viên nhận xét tiết học.
Tiết 2
1) Kiểm tra bài cũ (2 - 3')
- Giáo viên nêu câu hỏi để kiểm tra kiến thức của tiết 1.
2) Bài mới (27 - 28')
a) Giới thiệu bài (1 - 2'): Tương tự như tiết 1
b) Tổ chức các hoạt động dạy học (26 - 27').
Hoạt động 1: Khai thác vận dụng vốn hiểu biết của mình để thực hành luyện tập
củng cố kiến thức
+ Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng các phương pháp.
10


- Quan sát tranh
- Thảo luận
- Đàm thoại

- Ứng xử tình huống
- Động não.
Hoạt động 2: Thực hành vận dụng và củng cố nâng cao kiến thức được học ở
tiết 1.
* Mục tiêu: vận dụng kiến thức đã rút ra từ hoạt động 1. Các em tiếp tục
xử lý các tình huống đạo đức theo yêu cầu bài học.
* Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng các phương pháp:
+ Đóng vai
+ Tổ chức trò chơi.
+ Thảo luận
+ Hỏi đáp
+ Ứng xử tình huống.
Hoạt động 3: Liên hệ: Tương tự như tiết 1.
3) Củng cố - dặn dò (3 - 5'): Tương tự như tiết 1.
* Chú ý: Sau mỗi hoạt động giáo viên cần chốt kiến thức kỹ năng trọng
tâm đã cung cấp cho học sinh. Giáo viên xây dựng và sắp xếp nội dung các hoạt
động một cách hợp lý để không gây nhàm chán cho học sinh mà vẫn đạt được
mục tiêu bài học.
Trên đây là quy trình dạy đạo đức, tôi đã thực hiện trong quá trình giảng
dạy môn Đạo đức. Tuỳ theo nội dung kiến thức của từng bài mà giáo viên phân
bố thời gian và nội dung các hoạt động cho phù hợp.
2. Một số yêu cầu về dạy Đạo đức theo hướng đổi mới:
- Dạy học đạo đức được tiếp cận theo hướng đi từ quyền đến trách nhiệm,
bổn phận của học sinh. Cách tiếp cận đó sẽ giúp cho việc dạy-học môn Đạo đức
trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn, tránh được tính chất nặng nề, áp đặt trước
đây.
- Dạy-học môn đạo đức chỉ đạt được hiệu quả khi học sinh hứng thú và
tích cực, chủ động và tham gia vào quá trình dạy-học.
- Các hoạt động dạy-học môn đạo đức ở lớp 2 rất phong phú đa dạng, bao
gồm các hình thức: Xử lý, phân tích tình huống; kể chuyện; đóng vai, liên hệ, tự

liên hệ, điều tra thực tiễn; lập kế hoạch hành động của học sinh; quan sát, phân
tích tiểu phẩm; múa, hát, đọc thơ, vẽ tranh, triển lãm, chơi các trò chơi có liên
quan đến chủ đề bài học...
- Dạy-học môn Đạo đức phải gắn bó chặt chẽ với cuộc sống thực của học
sinh. Các truyện kể, tình huống, tấm gương sử dụng để dạy-học môn Đạo đức
phải lấy chất liệu từ cuộc sống thực của học sinh. Đồng thời, giáo viên phải
hướng dẫn học sinh phân tích, đánh giá hành vi của bản thân và những người
xung quanh theo các chuẩn mực hành vi đã học. Hướng dẫn học sinh điều tra,
tìm hiểu, phân tích, đánh giá các sự kiện trong đời sống đạo đức của lớp học,

11


nhà trường và địa phương. Điều đó sẽ giúp cho bài học Đạo đức thêm phong
phú, gần gũi, sống động đối với các em.
- Phương pháp và hình thức tổ chức dạy - học Đạo đức ở lớp 2 rất phong
phú, đa dạng, bao gồm cả các phương pháp truyền thống như kể chuyện, đàm
thoại, nêu gương, sử dụng đồ dùng trực quan, ... và các phương pháp hiện đại
như đóng vai, thảo luận nhóm, tổ chức trò chơi, điều tra thực tiễn, giải quyết vấn
đề, động não, ...; Bao gồm cả hình thức: Học theo lớp, theo nhóm và cá nhân;
hình thức học ở lớp, ngoài sân trường, tham quan các di tích lịch sử, văn hoá các
địa điểm ngoài trường có liên quan đến nội dung học tập.
Mỗi phương pháp và hình thức dạy học môn Đạo đức đều có mặt mạnh và
hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài riêng, từng khâu riêng của tiết dạy. Vì
vậy không nên quá lạm dụng hoặc phủ định hoàn toàn một phương pháp hoặc
hình thức dạy - học nào. Điều quan trọng là cần căn cứ vào nội dung, tính chất
từng bài; căn cứ vào trình độ học sinh và căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh, cụ thể
của từng đối tượng học sinh mà lựa chọn, sử dụng kết hợp các phương pháp và
hình thức dạy học một cách hợp lý, đúng mức.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc giáo dục đạo đức cho học sinh

không phải là vấn đề đơn giản. Nó đòi hỏi người thầy phải có những phương
pháp giáo dục phù hợp, giúp đỡ phát triển nhân cách một cách hoàn thiện, tránh
cho học sinh tiếp xúc với những hành vi tiêu cực, làm sao để cho các em có
được lối sống thích nghi với thời đại. Song cũng cần phải cho học sinh thấy
được những nét đẹp, những truyền thống cao quý của dân tộc và hình thành cho
học sinh một phong cách sống lành mạnh. Vậy làm cách nào để học sinh nắm
bắt được kiến thức của môn Đạo đức một cách tích cực, chủ động mà không bị
áp đặt gò bó. Để nâng cao hiệu quả giờ dạy tốt Đạo đức lớp 2 đòi hỏi người thầy
phải biết lựa chọn sử dụng các phương pháp trong một tiết dạy nói chung và một
tiết Đạo đức nói riêng là rất cần thiết. Sự kết hợp hài hoà các phương pháp dạy
học, lấy phương pháp này bổ trợ cho phương pháp kia trong giảng dạy được coi
như một nghệ thuật mà người thầy cần đạt tới.
*Giải pháp 3: Sử dụng phương pháp dạy học phù hợp với nội dung bài học.
Trong chương trình Đạo đức lớp 2 nói riêng và các lớp 1, 3, 4, 5 nói
chung được xây dựng theo chủ đề học tập khác nhau. Mỗi chủ đề là các bài Đạo
đức khác nhau nhưng bài nào cũng được phân làm 2 tiết, mỗi tiết ứng với các
phương pháp đặc trưng khác nhau. Qua quá trình nghiên cứu học hỏi, thực tế
giảng dạy tôi nhận thấy có các nhóm phương pháp chính sau:
* Nhóm phương pháp hình thành ý thức bao gồm: Kể chuyện; Quan sát;
Đàm thoại; Thảo luận và phân tích tình huống.
Kể chuyện là phương pháp dùng lời kể kết hợp với sử dụng điệu bộ, cử
chỉ hoặc tranh minh hoạ, con rối, ... để thuật lại nội dung một chuyện nào đó.
Trong giờ Đạo đức, đó là các truyện kể về cách ứng xử của nhân vật trong một
tình huống có vấn đề vê đạo đức. Phương pháp kể chuyện rất phù hợp với học
sinh lớp 2, giúp cho bài học Đạo đức đến với trẻ một cách tự nhiên, nhẹ nhàng,
12


sống động, cùng với phương pháp kể chuyện thì Thảo luận nhóm là phương
pháp sử dụng rộng rãi. Còn Đàm thoại là phương pháp tổ chức trò chuyện giữa

thầy - trò hoặc trò - trò về một chủ đề đạo đức trên một hệ thống câu hỏi nhằm
hướng dẫn học sinh đi đến chuẩn mực đạo đức các em cần nắm và thực hiện.
Phương pháp đàm thoại giúp học sinh phát huy vốn kinh nghiệm đạo đức đã có;
chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm của thầy, của bạn, tiếp thu bài học một cách tích
cực, chủ động; tránh được xu hướng thuyết lý khô khan, áp đặt, nặng nề.
Cùng với phương pháp kể chuyện đàm thoại, phương pháp Thảo luận
phân tích tình huống nhằm giúp học sinh tham gia một cách chủ động, tích cực
vào quá trình học tập tạo điều kiện cho các em có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý
kiến, hay để giải quyết một vấn đề đạo đức nào đó.
* Nhóm phương pháp luyện tập, rèn luyện hành vi thói quen và cách
ứng xử bao gồm: Luyện tập thực hành; ứng xử tình huống; động não; Tổ chức
trò chơi; Đóng vai.
Luyện tập thực hành là phương pháp giáo viên tổ chức cho học sinh thực
hành luyện tập theo mẫu hành vi đã xác định ở tiết 1. Đồng thời để củng cố lại
kiến thức đã học. Các em thực hành luyện tập làm các bài tập giải quyết tình
huống trong vở bài tập đạo đức. Cùng với phương pháp luyện tập thực hành là
phương pháp đóng vai.
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng
xử và bày tỏ thái độ trong tình huống cụ thể. Đóng vai gây chú ý và hứng thú
cho các em. Qua đó tạo điều kiện nảy sinh óc sáng tạo của học sinh đồng thời
khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo
đức. Qua đóng vai có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc
làm của các vai diễn.
Còn phương pháp Tổ chức trò chơi là phương pháp giúp học sinh phát
hiện và chiếm lĩnh những nội dung học tập thông qua việc chơi một trò chơi nào
đó. Qua trò chơi các em không những được phát triển về các mặt trí tuệ, thể
chất, thẩm mỹ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất hành vi đạo đức. Chính
vì vậy trò chơi được sử dụng trong tiết đạo đức như là một phương pháp dạy học
quan trọng để giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh.
Nội dung trò chơi sẽ minh hoạ một cách sinh động cho các mẫu hành vi

đạo đức. Nhờ vậy, những mẫu hành vi này sẽ tạo được những biểu tượng rõ rệt ở
học sinh, giúp các em ghi rõ ràng và lâu bền.
Qua trò chơi, học sinh được tập luyện những kỹ năng, những thao tác
hành vi đạo đức, hình thành được ở học sinh niềm tin về những chuẩn mực hành
vi đã học, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống.
- Qua trò chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng biết lựa chọn cho
mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống.
- Bằng trò chơi, việc luyện tập thực hành về các hành vi đạo đức được tiến
hành một cách nhẹ nhàng sinh động, không gây khô khan nhàm chán. Học sinh
được lôi cuốn vào quá trình luyện tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh
thần trách nhiệm đồng thời giải toả được mệt mỏi căng thẳng.
13


Cùng với phương pháp luyện tập thực hành, phương pháp đóng vai, tổ
chức trò chơi, thì Động não là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời
gian ngắn nẩy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.
Ví dụ: Ở bài 11: "Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại: - Tiết 1.
+ Hoạt động 1: Giáo viên sử dụng phương pháp đóng vai, động não.
+ Hoạt động 2: Sử dụng phương pháp tập luyện thực hành.
Tóm lại: Trong các phương pháp trên, không có phương pháp nào là vạn
năng, mỗi phương pháp đều có ưu điểm riêng biệt, song nó sẽ không có hiệu quả
khi người dạy không biết sử dụng đúng lúc, đúng mục đích trong một tiết dạy.
Hơn nữa tuỳ thuộc vào tiết 1 hay tiết 2 của một bài đạo đức mà người giáo viên
sử dụng phương pháp cho phù hợp. Tiết học có đạt được kết quả cao hay không
nhờ khả năng kết hợp hài hoà nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học với nhau,
lấy phương pháp này bổ trợ cho phương pháp kia.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 11 "Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại" (Tiết dạy minh hoạ
- Tiết 1).Với bài học này tôi đã sử dụng các phương pháp dạy học như: Phương
pháp quan sát, phương pháp đóng vai, phương pháp thảo luận nhóm, phương

pháp đàm thoại. Cụ thể:
*Hoạt động 1: Quan sát mẫu hành vi.
+ Bước 1: Cho học sinh đóng vai diễn lại kịch bản có mẫu hành vi đã
chuẩn bị.
+ Bước 2: Yêu cầu học sinh đàm thoại để nhận xét về cuộc nói chuyện
điện thoại vừa nghe.
*Hoạt động 2: Thảo luận nhóm:
+ Bước 1: Học sinh được thảo luận ghi việc nên làm và không nên làm
khi gọi điện thoại.
+ Bước 2: Học sinh trình bày nội dung được thảo luận.
*Hoạt động 3: Liên hệ thực tế:
Trong hoạt động này học sinh được luyện tập theo mẫu hành vi chuẩn.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 2 "Biết nhận lỗi và sửa lỗi".
Tôi đã sử dụng các phương pháp như:
Kể chuyện, nêu gương, thảo luận nhóm, động não, tập luyện theo mẫu
hành vi, đóng vai, tổ chức trò chơi.
*Hoạt động 1: Kể chuyện: Cái bình hoa. Giáo viên kể chuyện Cái bình
hoa với kết thúc để mở. Sau đó chia nhóm, giao việc để các nhóm thảo luận và
trả lời câu hỏi phân tích truyện, xác định ý nghĩa của hành vi nhận và sửa lỗi.
*Hoạt động 2: Thảo luận nhóm
Giáo viên tiếp tục giao việc cho các nhóm thảo luận và trả lời câu hỏi
phân tích truyện xác định ý nghĩa của hành vi nhận và sửa lỗi.
*Hoạt động 3: Bày tỏ ý kiến
Giáo viên tiếp tục giao việc cho các nhóm thảo luận và bày tỏ ý kiến, thái
độ của mình về những hành vi đúng, sai.
Ở tiết 2 - Trong hoạt động 1 học sinh được đóng vai theo tình huống, học
sinh lựa chọn và thực hành hành vi nhận và sửa lỗi, Hoạt động 2 giáo viên tổ
14



chức cho học sinh chơi trò chơi “Ghép đôi”, qua trò chơi học sinh biết cách ứng
xử các tình huống nhận và sửa lỗi.
*Giải pháp 4: Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học.
Để thực hiện đổi mới phương pháp, việc sử dụng đồ dùng dạy học là rất
quan trọng với tất cả các môn học. Đồ dùng dạy học có tầm quan trọng trong sự
thành công của một tiết dạy. Vì vậy trước mỗi tiết dạy người giáo viên cần phải
chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng phục vụ cho tiết dạy của mình. Mỗi khi thiết kế bài
học giáo viên cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung tính chất, hình thức của bài học
để lựa chọn thiết bị dạy học cho phù hợp, dễ sử dụng.
Hiện nay trang thiết bị và đồ dùng dạy học môn Đạo đức chỉ có tranh ảnh
nên giáo viên cần sử dụng các tranh ảnh trong Vở bài tập Đạo đức cho học sinh
quan sát một cách triệt để. Ngoài ra giáo viên có thể sử dụng các đồ dùng tự làm
hoặc phải sưu tầm thêm, chuẩn bị trước mỗi tiết học những đồ dùng cần thiết
cho từng hoạt động của từng bài.
Ví dụ: Khi dạy bài 7 "Giữ gìn trường lớp sạch đẹp", giáo viên cần sử
dụng những đồ dùng như:
+ Một ít bánh kẹo, một hộp giấy (cho hoạt động 1 - Tiết 1).
+ Bộ tranh phóng to (gồm 5 tranh) (cho hoạt động 2 - Tiết 1).
+ Một số dụng cụ như sọt rác, chổi, phấn (cho hoạt động 1 - Tiết 2).
+ Phiếu ghi câu hỏi (cho hoạt động 3 - Tiết 2).
Khi dạy bài 11 "Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại" giáo viên cần chuẩn
bị một số đồ dùng như: Bộ đồ chơi điện thoại hoặc là điện thoại thật loại để bàn.
Sử dụng trong tiểu phẩm ở hoạt động 1 - Tiết 1 và hoạt động 3 tiết 1.
Ngoài ra, khi sử dụng máy chiếu, giáo viên chỉ xem đây là thay cho việc
chuẩn bị đồ dùng làm tay, chứ không lạm dụng.
*Giải pháp 5: Dạy đạo đức cho học sinh thông qua các môn học khác
Dạy môn Đạo đức qua các môn học khác là hình thức giáo dục rất quan
trọng. Dạy đạo đức cho học sinh không chỉ bó hẹp ở một môn học Đạo đức mà
có thể nói rằng dạy đạo đức ở mọi lúc, mọi nơi và trong tất cả các môn học.
Trong môn Tiếng việt học sinh được học các bài tập đọc với chủ điểm của

từng tuần, từng tháng, học sinh biết những tấm gương tốt biết nhận lỗi và sửa lỗi
như nhân vật Tuấn trong bài Bím tóc đuôi sam; biết nhường nhịn, giúp đỡ bạn
như nhân vật Mai trong bài Chiếc bút mực; biết kính trọng thầy cô giáo, biết
công ơn của cha mẹ qua các bài Tập đọc: Người thầy cũ, Người mẹ hiền, Bàn
tay dịu dàng, Mẹ; Biết đoàn kết, yêu thương quan tâm lẫn nhau qua các bài Tập
đọc: Câu chuyện bó đũa, Hai anh em. Biết yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất
nước qua các bài Tập đọc: Chuyện bốn mùa, Bóp nát quả cam; ... khi học đạo
đức các em có thể liên hệ đến.
Ở môn Tự nhiên và Xã hội, học sinh được học bài Một số loài vật sống
trên cạn, bài Một số loài vật sống dưới nước và nêu được ích lợi của chúng. Khi

15


học đạo đức bài 14: “Bảo vệ loài vật có ích” học sinh sẽ liên hệ đến một cách dễ
dàng hơn.
*Giải pháp 6: Dựa vào các hoạt động ngoại khoá để xây dựng cho học sinh
các kiến thức chuẩn mực, và hành vi đạo đức tốt.
Thông qua các tổ chức Đoàn Đội, các buổi sinh hoạt Đội, sinh hoạt Sao
nhi đồng, thông qua phong trào "Đọc và làm theo báo Đội" Thông qua các buổi
chào cờ, dạy cho các em những tấm gương tốt ở trường, ở lớp, đồng thời cũng
phê bình những em chưa thật sự cố gắng. Từ đó kích thích tinh thần phấn đấu
vươn lên trong học tập, lao động, rèn luyện đạo đức của các em. Với phong trào:
"Tết vì bạn nghèo", giáo dục cho các em tinh thần tương thân tương ái, ý thức
hướng thiện, làm những việc có ích, biết được truyền thống “Thương người như
thể thương thân”; “Lá lành đùm lá rách”. Ngoài ra các cuộc thi như: "Hội khoẻ
Phù Đổng” chào mừng ngày 22/12, Hội diễn văn nghệ chào mừng Ngày Nhà
giáo Việt Nam 20/11. Giáo dục cho học sinh tinh thần: "Uống nước nhớ nguồn",
"Tôn sư trọng đạo".
*Giải pháp 7: Kết hợp với các môi trường giáo dục để giáo dục đạo

đức cho học sinh.
Để nâng cao hiệu quả môn Đạo đức, giáo viên luôn kết hợp chặt chẽ với
các lực lượng giáo dục. Cùng với các nhà trường, gia đình cũng góp phần quan
trọng trong hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh. Vì thế, bản thân tôi đã có
sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, cộng đồng. Bằng các hình thức tổ
chức: Họp phụ huynh, trao đổi thông tin qua sổ liên lạc, gọi điện thoại, thường
xuyên thăm hỏi, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Từ đó có kế
hoạch giúp đỡ những em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Kết hợp với phụ
huynh học sinh, thông qua các hoạt động ở nhà, ở trường để kiểm tra đánh giá
các hành vi đạo đức của các em. Cũng bằng hình thức này, giáo viên trao đổi
cùng phụ huynh giúp đỡ những học sinh chưa tiếp cận được với hành vi đúng
đắn, uốn nắn để hướng các em theo kịp cùng bạn bè và có những mối quan hệ
ứng xử trong cuộc sống.
*Giải pháp 8: Giáo viên tích cực bồi dưỡng chuyên môn, thực hiện
đổi mới phương pháp dạy môn đạo đức.
Cùng với việc trang bị về kiến thức cho học sinh thì việc cung cấp những
chuẩn mực đạo đức cho học sinh là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Vì vậy
mỗi giáo viên cần có nhận thức đúng đắn về mục tiêu của môn học đạo đức và
cách đánh giá học sinh. Nhận thức được điều đó, giáo viên cần tích cực tự bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, thực hiện nghiêm túc việc đổi mới phương pháp
dạy học và cần nắm chắc cách đánh giá học sinh theo hướng định tính song cần
đặc biệt chú ý đánh giá một cách khách quan, công bằng, tránh hiện tượng đánh
giá chung chung cào bằng, xem nhẹ.
Tổ chức sinh hoạt chuyên môn đều đặn và nêu rõ tầm quan trọng của môn
Đạo đức trong các môn học ở Tiểu học. Dự giờ, thăm lớp, trao đổi rút kinh
nghiệm với đồng nghiệp để bồi dưỡng chuyên môn về phương pháp dạy học
môn Đạo đức đạt hiệu quả.
16



Bản thân tôi luôn học hỏi, vận dụng các giải pháp nêu trên thông qua các
bài dạy.
*Ví dụ: Bài 6: “Quan tâm giúp đỡ bạn”(tiết 1)
Tôi đã phối hợp và sử dụng các phương pháp dạy học:
*Hoạt động 1: Giáo viên kể chuyện, học sinh trả lời câu hỏi.
1) Bạn Hợp và các bạn lớp 2A đã làm gì khi Cường bị ngã ?
2) Em có suy nghĩ gì về việc làm của các bạn ?
Với câu hỏi 2, học sinh có thể trả lời nhiều cách. Giáo viên chấp nhận tất
cả ý kiến của học sinh, không chê, không nhận định đúng sai. Cuối giờ tôi đã
nhấn mạnh kết luận này là kết quả tham gia chung của tất cả học sinh (kết luận
đúng).
*Hoạt động 2: Học sinh quan sát tranh và thảo luận nhóm đôi.
Học sinh chỉ ra được bức tranh có nội dung thể hiện hành vi quan tâm
giúp đỡ bạn và giải thích tại sao.
Học sinh tự suy nghĩ thảo luận. Sau một thời gian quy định giáo viên gọi
từng nhóm lên trình bày ý tưởng thảo luận của nhóm mình. Nhiều nhóm được
lên trình bày để các em tự tin, phấn khởi.
*Hoạt động 3: Học sinh làm việc cá nhân.
Tôi đã cho học sinh làm việc cá nhân dưới hình thức trình bày ý kiến của
riêng mỗi học sinh bằng vở bài tập với yêu cầu:
Đánh dấu + vào ô trống trước ý kiến mà em tán thành cần quan tâm và
giúp đỡ bạn vì...
+ Hoạt động 4:

Trò chơi: Đoán chữ

Giáo viên hướng dẫn và tổ chức trò chơi để học sinh nói được nội dung
câu thơ về chủ đề Tình bạn. Cho biết tiếng đầu và tiếng cuối. Tổ chức 3 đội chơi
có thưởng để học sinh đoán lần lượt các tiếng tiếp theo trong câu thơ và từ đó rút
ra nội dung của bài học:

“Bạn bè như thể anh em
Quan tâm giúp đỡ càng thêm thân tình”.
Các em thấy mình cần có trách nhiệm quan tâm giúp đỡ bạn và mong
muốn được quan tâm giúp đỡ bạn.
Sau mỗi hoạt động, giáo viên cần chốt lại kiến thức và liên hệ giáo dục
nhẹ nhàng đối với học sinh lớp mình, trường mình để học sinh có kĩ năng sống
tốt hơn.
Qua tiết học tôi thấy học sinh nắm được nội dung bài, các em rất hứng thú
học tập.
17


* Bài 8: Giữ trật tự vệ sinh nơi công cộng
Khi sử dụng máy trình chiếu, tôi đã chọn, đưa hình ảnh những việc làm
giữ trật tự vệ sinh nơi công cộng: Xếp hàng vào lăng viếng Bác, bạn nhỏ bỏ rác
vào thùng nơi công viên, các bạn nhỏ ngồi học nghiêm túc,... Đồng thời đưa cả
những hình ảnh về những việc làm chưa đúng như: Chạy nhảy nô đùa trong
phòng bệnh, đá bóng trên đường, vứt rác trên bãi biển,... Từ đó học sinh bày tỏ
thái độ và rút ra hành vi đúng.
* Tuỳ từng nội dung, tính chất của từng bài mà giáo viên có thể lựa chọn
các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học khác nhau.
Ví dụ:
- Loại bài có thể bắt đầu từ tổ chức trò chơi:
Bài 14: Bảo vệ loài vật có ích.
- Loại bài có thể bắt đầu tổ chức cho học sinh đóng vai:
Bài 6: Quan tâm giúp đỡ bạn.
Bài 10: Biết nói lời yêu cầu, đề nghị.
Bài 11: Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại.
Bài 12: Lịch sự khi đến nhà người khác.
- Loại bài có thể bắt đầu từ việc thảo luận phân tích tình huống:

Bài 2: Biết nhận lỗi và sửa lỗi.
Bài 5: Chăm chỉ học tập.
Bài 9: Trả lại của rơi.
- Loại bài bắt đầu từ câu chuyện, bài thơ như:
Bài 2: Biết nhận lỗi và sửa lỗi.
Bài 4: Chăm làm việc nhà.
Bài 6: Quan tâm giúp đỡ bạn.
Bài 10: Biết nói lời yêu cầu, đề nghị.
IV. HIỆU QUẢ:

Qua quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy và tổ chức thực hành vận
dụng“Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy học môn Đạo đức cho
học sinh lớp 2.” tôi đã thu được những kết quả như sau:
- Chất lượng giảng dạy và chất lượng học tập môn Đạo đức đạt kết quả rõ rệt.
- Giáo viên nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong quá trình giáo dục đạo
đức cho học sinh.
- Giáo viên đã tích cực học tập bồi dưỡng, vững vàng hơn về chuyên môn,
nắm chắc quy trình, phương pháp giảng dạy.
18


- Trong tiết học, tôi nhận thấy các em học tập rất tích cực, chủ động tìm tòi và
sáng tạo hơn trong việc lĩnh hội kiến thức, kết quả thực hành được nâng lên rõ
rệt. Các em đã biết vận dụng những điều đã học vào trong cuộc sống hàng ngày
khi giao tiếp, cư xử với thầy cô, bạn bè, cha mẹ, anh chị em và với mọi người.
Các em đã mạnh dạn hơn, tự tin hơn khi thể hiện trước đám đông.
- Không khí lớp học sôi nổi, hào hứng, học sinh thích thú với môn học Đạo
đức.
Kết quả cụ thể cuối năm học 2014-2015 và kết quả cuối học kì I năm học
2015-2016 đạt được như sau:

Năm học

Lớp dạy

Sĩ số

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

2014-2015

2A

29

29

100%

0

\

2015-2016

2B

23


23

100%

0

\

Nhìn vào kết quả học tập của lớp 2A cuối năm học 2014-2015 và lớp 2B
cuối học kì I năm học 2015-2016 cho thấy chất lượng môn Đạo đức được nâng
lên rõ rệt. So với kết quả học kì I, năm học 2014-2015, lớp 2A có 8 em chưa
hoàn thành nội dung môn học chiếm tới 27,6%. Cuối năm học 2014-2015 lớp
2A có 100% học sinh hoàn thành nội dung môn học trong đó có nhiều em hoàn
thành tốt nội dung môn học, không còn học sinh chưa hoàn thành nội dung môn
học. Năm học 2015-2016, tôi tiếp tục áp dụng các biện pháp nêu trên vào giảng
dạy môn Đạo đức lớp 2B, kết quả của học kỳ I của lớp 2B có 23/23 em hoàn
thành nội dung môn học đạt 100%. Với kết quả đạt được, ta nhận thấy môn Đạo
đức đã tăng lên rõ rệt.
Kết quả trên cho thấy, việc sử dụng các biện pháp đã nêu đem lại kết quả
đáng kể trong giảng dạy môn Đạo đức. Tôi tin tưởng rằng, với biện pháp nêu
trên sẽ cho hiệu quả giảng dạy môn Đạo đức ngày một nâng cao.

19


PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua việc nhận thức, vận dụng và thực hiện, bản thân tôi thiết nghĩ, để dạy
tốt môn đạo đức, người giáo viên cần:
- Tham gia đầy đủ các chuyên đề do Nhà trường, Phòng Giáo dục tổ chức.

- Khi thiết kế bài học phải xác định đúng các mục tiêu, đảm bảo đủ 3 yêu
cầu quy định. Quan tâm tới việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
- Đảm bảo dạy đúng thời khoá biểu, không cắt xén chương trình, không
bớt xén thời gian.
- Bản thân luôn tự bồi dưỡng kiến thức, năng lực chuyên môn để truyền
tải nội dung bài tới học sinh một cách dễ hiểu, dễ nhớ, nhẹ nhàng mà sâu sắc.
- Luôn nhận thức đúng đắn về môn học, kiên trì chịu khó đầu tư trí tuệ,
tìm tòi học hỏi, nhiệt tình tâm huyết với nghề, với trẻ để đem lại kết quả cao.
- Tạo điều kiện tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động học tập, kết
hợp việc dạy hành vi đạo đức ở mọi lúc, mọi nơi, trong các môn học sao cho các
em đều được trực tiếp tham gia, được bày tỏ ý kiến của mình trước tập thể, để
các em mạnh dạn hơn, chủ động tham gia hoạt động nhiều hơn.
- Vận dụng linh hoạt và sáng tạo các phương pháp dạy học.
- Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học.
- Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, kết hợp các lực lượng trong môi
trường giáo dục.
- Luôn quan tâm, theo dõi hành vi đạo đức của học sinh, kịp thời khen
ngợi, động viên, khích lệ để các em phát huy và học tập tốt.
- Thầy thực sự là một tấm gương sáng và chuẩn mực đạo đức, để học sinh
học tập và noi theo. Luôn chú ý tới cử chỉ, lời nói và cách ăn mặc của mình để
học sinh bắt chước làm theo.
2. Kiến nghị:
Với thời gian và sự đầu tư nghiên cứu còn hạn chế, tôi chỉ đi sâu nghiên
cứu về sự thay đổi nội dung, chương trình để tìm ra các giải pháp thực hiện các
phương pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Đạo đức lớp 2. Trong quá trình
thực hiện, tôi mạnh dạn đưa ra một số ý kiến sau:
+ Đối với giáo viên: Tích cực học hỏi, tìm tòi nghiên cứu tài liệu, thao
giảng, dự giờ, tranh thủ ý kiến góp ý của đồng nghiệp, hoàn thiện bài dạy ngày
một đạt kết quả cao hơn.
+ Đối với các bậc phụ huynh học sinh: Cần có những quan điểm nhận

thức đúng về vị trí, mục tiêu, nhiệm vụ của môn Đạo đức trong Trường tiểu học.
20


Phối kết hợp chặt chẽ với Nhà trường và xã hội để giáo dục, uốn nắn các em kịp
thời.
+ Đối với Nhà trường: Trang bị mua sắm, bổ sung đồ dùng, thiết bị (máy
chiếu, băng đĩa,...) phục vụ cho dạy học môn Đạo đức đầy đủ, phong phú hơn.
Ban giám hiệu tăng cường dự giờ để góp ý, xây dựng giờ dạy cho mỗi giáo viên.
Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân tôi đã trải nghiệm và đúc
rút trong quá trình giảng dạy. Bước đầu đã có những chuyển biến và hiệu quả
thiết thực. Hi vọng những kinh nghiệm này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc “nâng
cao chất lượng dạy học môn Đạo đức cho học sinh lớp 2”. Mặc dù đã có nhiều
cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng đề tài không tránh khỏi những khiếm
khuyết. Tôi kính mong được sự chỉ dẫn, góp ý chân thành của các đồng nghiệp,
của Hội đồng Khoa học các cấp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hậu Lộc, ngày 15 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Nguyệt

21




×