Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn lịch sử lớp 4 trường TH lam sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.49 KB, 15 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong sự nghiệp giáo dục, phân môn Lịch sử ở trường phổ thông đã góp
phần không nhỏ trong việc giáo dục lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước và
trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với sự phát triển của nước nhà. Chính vì vậy mà
sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“ Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam ” 1
Đúng vậy, học lịch sử để biết được cội nguồn của dân tộc, sự hình thành
và phát triển đất nước, quá trình đấu tranh đánh duổi giặc ngoại xâm, công cuộc
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, sự đấu tranh hy sinh anh dũng của ông cha ta. Từ
đó để giáo dục tình yêu con người, yêu quê hương đất nước cho mọi thế hệ
tương lai của đất nước. Đối với học sinh tiểu học thì điều ấy càng quan trọng
hơn, mặc dù mới chỉ là giúp các em có một số kiến thức cơ bản, thiết thực về
các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, tương đối có hệ thống theo dòng thời gian
lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới nay thôi nhưng đủ để giáo dục
các em có kiến thức cơ bản về lịch sử nước nhà. Các em sẽ có kĩ năng thu thập,
tìm kiếm tư liệu lịch sử ở các nguồn khác nhau và hơn thế nữa là thái độ tình
cảm yêu quê hương đất nước, các em sẽ được xây dựng bồi đắp trở thành con
người có ích cho xã hội.
Tuy nhiên phân môn Lịch sử là một môn học khó, nó gắn liền với những
sự kiện, nhân vật, mốc thời gian trong quá khứ, không thể tái hiện, không thể
“trực quan sinh động”, cũng không thể trực tiếp quan sát được. Lịch sử được
phản ánh qua các nguồn sử liệu, vấn đề đặt ra là làm sao để các em nhận thức
được lịch sử một cách chính xác, chân thực như nó đã tồn tại. Chính vì vậy mà
đa số phần học sinh đều ngại, không yêu thích môn học lịch sử, đôi khi còn xem
nhẹ, coi đó là môn phụ. Nhiều khi vì bắt buộc phải học thì các em học đối phó,
nhớ một cách máy móc các sự kiện lịch sử, nội dung cần ghi nhớ nhưng chỉ sau
một thời gian ngắn lại quên. Gần 20 năm trực tiếp giảng dạy ở lớp 4-5, gắn bó
với phân môn lịch sử, tôi luôn trăn trở với câu hỏi làm sao để tất cả các em yêu
thích Lịch sử? làm sao để phụ huynh quan tâm, coi trọng phân môn Lịch sử như


môn Toán, Tiếng việt? Bản thân mình cần tìm ra những biện pháp gì để tạo hứng
thú cho học sinh ở mỗi giờ học? Xuất phát từ những lý do cơ bản trên, tôi đã
nghiên cứu, học hỏi và rút ra được kinh nghiệm trong dạy học phân môn Lịch sử
ở năm học 2018-2019 này. Đó cũng chính là những nội dung tôi sẽ trình bày
trong sáng kiến:“Một số giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân
môn phân Lịch sử lớp 4 ở Trường Tiểu học Lam Sơn.”Kính mong đồng
nghiệp tham khảo và góp ý.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Góp phần tìm ra Một số giải pháp giúp học sinh học tốt phân môn Lịch sử lớp
4 ở Trường Tiểu học Lam Sơn
- Giúp HS có hứng thú và yêu thích môn học.
- Giúp học sinh nắm được những kiến thức, kĩ năng cần thiết của môn học.
1

Ghi chú:

1

Được trích từ những câu nói nổi tiếng của Bác Hồ

1


1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Một số giải pháp giúp học sinh học tốt phân môn Lịch sử lớp 4 ở Trường Tiểu
học Lam Sơn.
- HS lớp 4A1, HS lớp 4A2 Trường Tiểu học Lam Sơn năm học 2018-2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
Nghiên cứu các tài liệu giảng dạy, tài liệu tham khảo về môn Lịch sử lớp

4; Sách giáo khoa môn Lịch sử & Địa lý lớp 4; Mạng Internet...
1.4.2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
Qua quá trình giảng dạy trên lớp, qua các tiết thao giảng dự giờ, các buổi
sinh hoạt chuyên môn ở tổ, ....
1.4.3. Phương pháp thống kê xử lý số liệu
Qua khảo sát kết quả giảng dạy trước thực nghiệm, kết quả giảng dạy sau
thực nghiệm. Từ đó so sánh, đối chiếu hai phương pháp và rút ra kết luận (Trước
thực nghiệm - sau thực nghiệm)
2. Nội dung sáng kiến
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Như chúng ta đã biết, phân môn Lịch sử là môn học mới ở Tiểu học. Bước
vào lớp 4, các em mới được làm quen mỗi tiết/tuần. Qua 35 tiết học, học sinh
cần nắm được các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu của lịch sử dân tộc qua 8
giai đoạn lịch sử sau:
1. Buổi đầu dựng nước và giữ nước (Khoảng 700 năm TCN đến năm 179). Gồm
2 bài.
2. Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập (Từ năm 179 TCN đến năm
938). Gồm 4 bài, trong đó có 1 bài ôn tập.
3. Buổi đầu độc lập. (Từ năm 938 đến năm 1009). Gồm 2 bài.
4. Nước Đại Việt thời Lý. (Từ năm 1009 đến năm 1226). Gồm 3 bài.
5. Nước Đại Việt thời Trần. (Từ năm 1226 đến năm 1400). Gồm 4 bài.
6. Nước Đại Việt buổi đầu thời Hậu Lê (Thế kỉ XV). Gồm 5 bài, trong đó có 1
bài ôn tập.
7. Nước Đại Việt thế kỉ XVI – XVII. Gồm 6 bài.
8. Buổi đầu thời Nguyễn. (Từ năm 1802 đến năm 1858). Gồm 3 bài, trong đó có
1 bài tổng kết.
Như vậy, ta thấy rằng chương trình Lịch sử lớp 4 giúp học sinh có những
kiến thức cơ bản, thiết thực về những sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, phản
ánh những vấn đế về sự phát triển các giai đoạn lịch sử, những thành tựu trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta khoảng 700 năm trước Công

Nguyên đến buổi đầu thời Nguyễn năm 1858. Mỗi bài học là một sự kiện, hiện
tượng hay nhân vật lịch sử tiêu biểu của một giai đoạn lịch sử nhất định phù hợp
với mức độ nhận thức của học sinh. Tuy nhiên, là một môn học mới, còn lạ lẫm
với học sinh. Vậy chúng ta làm thế nào để giúp các em học tốt môn học này?
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
a) Thuận lợi
Trường Tiểu học Lam Sơn là trường chuẩn Quốc gia mức độ 1, đang tiếp
tục hoàn thiện các tiêu chí để công nhận trường chuẩn Quốc gia mức độ 2 vào
2


cuối năm học 2018-2019. Nên về cơ bản cơ sở vật chất nhà trường khang trang
đảm bảo nhu cầu dạy và học. Đội ngũ giáo viên có chuyên môn vững vàng,
nhiệt tình, tận tụy với học sinh. Học sinh có đầy đủ SGK, vở ghi và đồ dùng học
tập theo yêu cầu. Được sự quan tâm của gia đình và tạo điều kiện tham gia học
tập. Các em chăm ngoan, hiếu học, có ý thức cao trong học tập.
b. Khó khăn
- Nhà trường đã có thư viện nhưng chưa có cán bộ chuyên trách. Tài liệu tham
khảo, SGK, SGV đầy đủ nhưng thiết bị dạy học tối thiểu còn thiếu. Cụ thể là
trường có 15 lớp nhưng chỉ có 2 máy chiếu. Do vậy còn nhiều bất cập khi ứng
dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
- Giáo viên mặc dù được đào tạo cơ bản, có ý thức học tập nâng cao nghiệp vụ,
chuyên môn song chỉ chú trọng đến dạy Toán, Tiếng Việt, coi nhẹ phân môn
Lịch sử, chưa dành thời gian cho việc nghiên cứu và giảng dạy trên lớp. Nên
thường sử dụng các kỹ thuật, phương pháp dạy học truyền thống (thầy đọc - trò
chép), sự đầu tư giảng dạy bằng máy chiếu, sử dụng phương tiện, đồ dùng trực
quan còn hạn chế. Mỗi tiết dạy chỉ dừng lại ở việc truyền tải đủ nội dung của
chương trình sách khoa hay chuẩn kiến thức kĩ năng. Giáo viên chưa có sự liên
hệ, mở rộng hay hệ thống lại các sự kiện lịch sử, mối liên quan của các sự kiện
đó. Dạy học lịch sử là phải cho các em thấy rõ những “bài học” từ quá khứ có

mối liên hệ đến hiện tại và cả tương lai. Vừa dạy vừa phải hệ thống lại kiến thức
đã học của những bài trước hay kiến thức cả một giai đoạn thì học sinh mới
hiểu, nhớ và khắc sâu. Bên cạnh đó, một số giáo viên còn sử dụng các phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học đơn điệu, chưa phát huy được tính tích cực chủ
động cho học sinh, chưa khơi dậy sự hứng thú, yêu thích môn học làm cho học
sinh trở nên ngại học lịch sử, cho đó là một môn học thuộc lòng với một núi kiến
thức sự kiện, số liệu, nhân vật, nguyên nhân, diễn biến, kết quả ….của các giai
đoạn, thời kì nên nhiều học sinh thấy nản, không muốn học Lịch sử. Các em
cảm thấy thiếu hứng thú và tiếp thu một cách thụ động.
- Có giáo viên đã sưu tầm được nhiều tư liệu, đồ dùng phục vụ tiết dạy nhưng
còn lúng túng khi sử dụng như hướng dẫn cho HS thực hành trên bản đồ, lược
đồ, tranh ảnh, hình ảnh, hoặc chưa sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các phương tiện
dạy học. Chưa chú ý nhiều đến cách dùng sơ đồ để tóm tắt hay khai quát nội
dung bài học để khắc sâu kiến thức cho học sinh. Phần hình thành kiến thức còn
khô khan, máy móc. Phần ứng dụng cộng nghệ thông tin vào giảng dạy còn hạn
chế. Nếu biết ứng dụng công thông tin ta có để biến bài dạy thành một buổi trình
chiếu những bộ phim lịch sử, hay biến một hoạt động dạy học thành một trò
chơi học tập vô cùng hấp dẫn, … qua đó tạo hứng thú học tập cho các em mà
chúng ta vẫn đạt được mục tiêu tiết học.
- Một số giáo viên còn hạn chế kĩ năng kể chuyện hay tường thuật trận đánh làm
giảm sự hứng thú của các em với giờ học.
- Phân môn Lịch sử là môn học hoàn toàn mới lạ, khá trìu tượng đối với các em.
Mặc dù mới chỉ là bước đầu có kiến thức về các sự kiện, số liệu, nhân vật,
nguyên nhân, diễn biến, kết quả từ khoảng 700 năm trước Công Nguyên đến
buổi đầu thời Nguyễn năm 1858 những cũng đủ để thấy đó là kho kiến thức
khổng lồ mà các em cần phải nhớ, phải biết. Chính vì vậy đối với những học
3


sinh có khả năng tiếp thu chậm hơn, các em sẽ ngại, sẽ nản, không yêu thích lịch

sử. Có những học sinh có trí nhớ tốt thì nhớ rất nhanh nhưng đó mới chỉ dừng lại
ở học vẹt, nhớ một cách máy móc chứ chưa hiểu rõ cốt lõi của vấn đề.
- Về phía học sinh: Nhiều em ngại đọc sách, ngại tìm hiểu… dẫn đến tâm lý
không thích học Lịch sử.
* Kết quả của thực trạng trên: Trong năm học 2018 - 2019, tôi được nhà
trường phân công giảng dạy lớp 4A1 với tổng số học sinh là 29 học sinh. Trong
5 tuần đầu giảng dạy tôi tập trung đánh giá thường xuyên từng học sinh lớp tôi
chủ nhiệm (cùng phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp 4A2 để có kết quả đánh
giá thường xuyên) đồng thời tiến hành một bài khảo sát nhỏ vào tuần thứ 5 đối
với cả hai lớp 4A1, 4A2 như sau:
PHIẾU KHẢO SÁT
Em hãy cho biết ý kiến của mình bằng cách khoanh vào chữ cái đặt trước
ý kiến đó?
Câu 1: Học lịch sử giúp em biết gì?
A. Các sự kiện, nhân vật lịch sử qua các thời kì.
B. Quá trình dựng nước và giữ nước của ông cha ta.
C. Cả hai ý trên.
Câu 2: Em cảm thấy thế nào khi học lịch sử?
A.Thấy bình thường
B.Thấy hứng thú, yêu thích giờ học lịch sủ.
C.Thấy không yêu thích, không hứng thú với mỗi giờ học Lịch sử
Câu 3: Nếu trong mỗi giờ học lịch sử có những hoạt động sau, em thích những
hoạt động nào?
A. Thầy cô giáo tổ chức cho các hoạt động cá nhân, đọc thầm SGK, trả lời câu
hỏi.
B. Thầy cô giáo tổ chức cho các em hoạt động thảo luận nhóm để tự tìm hiểu
bài.
C. Được nghe giáo thầy cô giáo hay bạn bè kể cho nghe những câu chuyện lịch
sử.
D. Thầy cô tổ chức cho quan sá tranh ảnh, lược đồ để tìm hiểu bài.

E. Thầy cô tổ chức các trò chơi học tập.
G. Học lịch sử theo hình trình chiếu (ứng dụng công nghệ thông tin).
H. Thầy cô cho xem những đoạn phim tư liệu về lịch sử.
* Kết quả thực trạng:
Chất lượng giáo dục môn học
Số học sinh
Số học sinh
Chưa
không yêu
Hoàn
hứng thú, yêu
Tốt
hoàn
thích, chưa
thành
thích giờ Lịch
TSHS
thành
hứng thú giờ
sử
học lịch sử
SL TL SL TL SL TL
4A1: 29HS 4 13,8 23 74,3 2
6,9
4
13,8
25
82,2
15,
4A2: 26 HS 2

7,7 20 76,9 4
2
7,7
24
92,3
4
Qua quan sát thực tế và kết quả khảo sát, tôi nhận thấy chất lượng giáo
dục môn học chưa chưa cao. Số em hứng thú, yêu thích môn học còn ít; số em
4


hoàn thành tốt còn hạn chế. Trước thực trạng này càng thôi thúc tôi cần tìm ra
một số giải pháp để dạy tốt phân môn Lịch sử này.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1.Giải pháp nghiên cứu, chuẩn bị bài dạy giúp học sinh yêu thích và học
tốt phân môn Lịch sử.
Mỗi giáo viên trong nhà trường mặc dù được đào tạo cơ bản, có trình độ
chuyên môn vững vàng, có ý thức học tập nâng cao nghiệp vụ song chỉ chú
trọng đến dạy hai môn Toán, Tiếng Việt, coi nhẹ phân môn Lịch sử nên chưa
dành thời gian cho việc nghiên cứu và giảng dạy trên lớp.Thường sử dụng các
kỹ thuật, phương pháp dạy học truyền thống (thầy đọc - trò chép), sự đầu tư
giảng dạy bằng máy chiếu, sử dụng phương tiện, đồ dùng trực quan còn hạn chế.
Như vậy chính chúng ta đã làm giảm đi sự tầm quan trọng của môn học, giảm đi
sự phát huy tính tích chủ động của mỗi học sinh; các em thấy giờ học trở nên
nhàm chán, không có hứng thú mà chỉ biết tiếp thu kiến thức một cách thụ động,
tẻ nhạt. Chính vì vậy, tôi nghĩ chúng ta cần phải có ý thức, trách nhiệm cao trong
mỗi giờ dạy dù đó là Toán hay Lịch sử, là Tiếng Việt hay Kĩ thuật. Môn nào
cũng cần phải chuẩn bị, đầu tư chu đáo về phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học nhằm đạt được mục tiêu tiết dạy nhưng phát huy được tính tực chủ động của
học sinh. Mỗi tiết dạy chúng ta cần trăn trở dạy như thế nào? Tự đặt câu hỏi xem

đây là bài học gì (hình thành kiến thức mới hay ôn tập, luyện tập, thực hành…);
Chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt được những gì? Cách giới thiệu bài học này
như thế nào? (vào bài học trực tiếp hay gián tiếp? Làm thế nào để vào bài học tự
nhiên nhất?...); Có sử dụng tình huống có vấn đề để giới thiệu bài học này hay
không? (Tình huống như thế nào? Dự kiến cách giải quyết vấn đề ra sao?...);
Việc sử dụng phương pháp và phương tiện dạy học như thế nào cho đạt hiệu quả
cao? Nội dung bài học chia ra những đơn vị kiến thức nào? Dự kiến tổ chức
những hoạt động dạy học nào tương ứng? Giáo viên sẽ sử dụng những câu hỏi
để thúc đẩy khả năng tư duy sáng tạo của học sinh như thế nào? Từ đó dẫn tới
câu hỏi về: Hình thức tổ chức lớp học nào là hợp lý? Cần chú ý những kĩ thuật
dạy học nào được vận dụng ở đây? Lời nói, hành động, thao tác cụ thể của giáo
viên là gì? Giáo viên trình bày bảng những nội dung nào? Dự kiến tích hợp nội
dung giáo dục liên quan nào là phù hợp? Nếu đưa bài dạy này thành tiết dạy ứng
dụng công nghệ thông tin thì hiệu quả sẽ ra sao? Học sinh thấy hứng thú hay
nhàm chán hơn? Nếu chúng ta tự hỏi, tự trả lời được những câu hỏi đó chúng đã
thành công trong công tác nghiên cứu, chuẩn bị bài dạy giúp học sinh yêu thích
và học tốt phân môn Lịch sử.
2.3.2. Giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn Lịch sử thông
qua ứng dụng công nghệ thông tin.
Như chúng ta đã biết, việc ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học
không những tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của mà còn góp phần làm cho giờ
học trở nên sinh động, hiệu quả, kích thích được tính tích cực, sáng tạo của học
sinh. Đối với những tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin học sẽ được trực
quan, dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Vậy làm thế nào để chúng ta có thể ứng dụng công
nghệ thông vào giảng dạy Lịch sử một cách hiệu quả, tích cực?
5


Việc thứ nhất: GV phải chủ động tích cực tự học, tự bồi dưỡng để biết ứng dụng
CNTT vào giảng dạy. Tự học thông qua đồng nghiệp; tự học thông qua Internet,

thông qua các trang YouTube về hướng dẫn cách soạn giáo án điện tử; tự học
thông qua sinh hoạt chuyên môn; tham gia các lớp bồi dưỡng về trình độ tin học
cho giáo viên. Nếu mỗi giáo viên có thể nắm được các bước cơ bản về soạn thảo
văn bản, kẻ biểu bảng, tạo hiệu ứng, tạo trò chơi, chèn các video hay âm thanh
vào các silide…. thì có thể sử dụng phần mềm trình chiếu powerpoint dạy học
mang lại hiệu quả. GV có thể lên mạng Internet vào các đường link sau để tự
học:
Ví dụ1: Chúng ta có thể học những kiến thức cơ bản (dù là chưa biết gì về
powerpoint).
Ta

thể
vào
học

đường
lik
sau: />Ví dụ2: Chúng muốn học cách tạo hiệu ứng cho văn bản hay hình ảnh, cách chèn
video, âm thanh vào powerpoint ta có thể học qua đường lik
/>Vi dụ3: Nếu chúng ta muốn cắt một video thành nhiều đoạn ngắn theo ý muốn
chúng thể oline video cutter theo đường lik />ei=vlmzXNKYFZH7wQPWi47wDQ&q=cắt+video+online+nhanh&oq=cắt&gs
_l=psy-ab.1.0.35i39j0j0i67j0l7.1793.2640..5058...3.0..1.107.57
Việc thứ hai: Nghiên cứu chương trình, cấu trúc, đặc điểm phân môn Lịch sử
lớp 4 để từ đó xác định được những bài dạy nào có thể ứng dụng công nghệ
thông tin giúp học yêu thích và học tốt phân môn Lịch sử.
Trong chương trình Lịch sử lớp 4, gồm 8 giai đoạn lịch sử với tổng số: 29
bài. Mỗi bài dạy đều gắn mỗi sự kiện, nhân vật, mốc thời gian cụ thể,... Mặt
khác với mỗi nội dung bài học trong sách giáo khoa chủ yếu là kênh chữ (kênh
hình ít, tranh ảnh đen trắng, mờ...) nên nếu chúng ta ứng dụng công nghệ thông
tin vào giảng dạy kết hợp khai thác các tư liệu lịch sử vào trình chiếu thì giờ học

trở nên sinh động, hấp dẫn đối với học sinh. Sau đây là hệ thống các bài có thể
ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, mang lại hiệu quả giáo dục cao:
Chủ đề
Buổi đầu dựng nước và giữ
nước (Từ khoảng năm 700
TCN đến năm 179 TCN)

Những bài ứng dụng CNTT mang lại hiệu
quả.
Bài 1: Nước Văn Lang
Bài 2: Nước Âu Lạc

Bài 3: Nước ta dưới ách đô hộ của các triều
đại phong kiến phương Bắc.
Hơn một nghìn năm đấu tranh
Bài 4: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng
giành lại độc lập (Từ năm
Bài 5: Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền
179TCN đến năm 938)
lãnh đạo (Năm 938)
Bài 6: Ôn tập
Bài 7: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân
Buổi đầu độc lập (Từ năm 938
Bài 8: Cuộc kháng chiến chống quân Tống
đến 1009)
xâm lược lần thứ nhất (năm 981)
Nước Đại Việt thời Lý (Từ năm Bài 9: Nhà Lý dời đô ra Thăng Long
6



Bài 10: Chùa thời Lý
1009 đến năm 1226)
Bài 11: Cuộc kháng chiến chống quân Tống
xâm lược lần thứ hai (1075-1077)
Bài 12: Nhà Trần thành lập
Bài 13: Nhà Trần và việc đắp đê
Nước Đại Việt thời Trần (Từ
Bài 14: Cuộc kháng chiến chống quân xâm
năm 1226 đến 1400)
lược Mông-Nguyên
Bài 15: Nước ta cuối thời Trần
Bài 16: Chiến thắng Chi Lăng
Bài 17: Nhà Hậu Lê và việc tổ chức quản lí
Nước Đại Việt buổi đầu thời
đất nước.
Hậu Lê (Thế kỉ XV)
Bài 18: Trường học thời Hậu Lê
Bài 19: Văn học và Khoa học thời Hậu Lê.
Bài 21: Trịnh – Nguyễn phân tranh
Bài 22: Cuộc khẩn hoang ở đàng trong
Bài 23: Thành thị ở thế kỉ XVI-XVII
Bài 24: Nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Thăng
Nước Đại Việt thế kỉ XVILong (Năm 1786)
XVIII
Bài 25: Quang Trung đại phá quân Thanh
(Năm 1789)
Bài 26: Những chính sách về kinh tế và văn
hóa của vua Quang Trung
Buổi đầu thời Nguyễn (Từ năm Bài 27: Nhà Nguyễn thành lập
1802 đến năm 1858)

Bài 28: Kinh thành Huế.
Việc thứ ba: GV tiến hành ứng dụng công nghệ thông tin vào từng bài dạy để
gây hứng thú, tạo sự yêu thích giúp HS học tốt từng bài học. Vậy cách ứng dụng
như thế nào?
Ví dụ 1: Bài 5: Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (Năm 938).
Mục tiêu cần đạt được của tiết dạy là: Kể ngắn gọn trận Bạch Đằng năm 938:
+ Đôi nét về người lãnh đạo trận Bạch Đằng: Ngô quyền quê ở xã Đường Lâm,
con rể của Dương Đình Nghệ.
+ Nguyên nhân trận Bạch Đằng: Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ và
cầu cứu nhà Nam Hán. Ngô Quyền bắt giết Kiều Công Tiễn và chuẩn bị đón
đánh quân Nam Hán.
+ Những nét chính về diễn biến của trận Bạch Đằng: Ngô Quyền chỉ huy quân
ta lợi dụng thuỷ triều lên xuống trên sông Bạch Đằng, nhử giặc vào bãi cọc và
tiêu diệt địch
+ Ý nghĩa của trận Bạch Đằng đối với lịch sử dân tộc: Chiến thắng Bạch Đằng
kết thúc thời kỳ nước ta bị phong kiến Phương Bắc đô hộ, mở ra thời kỳ độc lập
lâu dài cho dân tộc.  2
1

Ghi chú:

 2 Được trích từ Sách Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học lớp 4

Với mục tiêu trên, để gây được hứng thú cho HS với giờ học, tôi trình
chiếu tranh sau để HS quan sát, nêu được nội dung tranh.
(Hình 1: Trận Bạch Đằng năm 938 )

 3
7



Từ đó để dẫn dắt giới thiệu: “ Đây chính là cảnh “Trận Bạch Đằng năm 938”,
do Ngô Quyền lãnh đạo. Đây là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử chống
giặc ngoại xâm của nước ta hơn 1000 năm trước. Vậy tại sao lại có trận đánh
này? Diễn biến kết quả và ý nghĩa của trận đánh này như thế nào? Để biết được
điều đó cô cùng các em tìm hiểu bài học ngày hôm nay:Chiến thắng Bạch
Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo”.
* Đối với phần 1: Tìm hiểu đôi nét về Ngô Quyền: Sau khi tổ chức cho học sinh
tìm hiểu Đôi nét về Ngô Quyền, tôi có thể trình chiếu tranh ảnh về quê hương
của ông để HS được trực quan, sinh động hơn.

 4

1

Ghi chú:

 3

(Cổng làng ở xã Đường Lâm – quê hương Ngô Quyền)
Được trích từ Tr22, SGK LS&ĐL4; 4 lấy từ mạng Interet

 

*Đối với phần 2: Tìm hiểu về Trận Bạch Đằng
+ Sau khi tổ chức cho HS thảo luận nhóm tìm ra “Nguyên nhân vì sao có trận
Bạch Đằng” GV có thể trực quan, khắc sâu kiến thức cho HS bằng cách trình
chiếu 2 phút đầu đoạn phim tư liệu về Trận chiến Bạch Đằng năm 938 của Ngô
Quyền theo đường link Việc
tổ chức cho các em xem phim không nhưng thu hút được sự tập trung chăm chú

của các em mà nó còn giúp em mau hiểu và nhớ bài.

 5

(Ảnh chụp từ đoạn phim Trận chiến Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền)

+ Ở phần tìm hiểu về kế đánh giặc của Ngô Quyền, sau khi HS tìm hiểu, trình
bày, GV có thể chốt lại kiến thức bằng cách trình chiếu sơ đồ kiến thức sau. Qua
sơ đồ trình chiếu theo các hiệu ứng, học sinh sẽ khái quát được kiến thức một
cách trực quan nhất.
Lợi dụng lúc thuỷ triều lên, xuống
Kế
đánh
giặc
của
Cắm cọc gỗ đầu nhọn xuống
Ngô
nơi hiểm yếu ở sông Bạch Đằng
Quyền
trên
sông
Quân ta mai phục ở hai bên bờ
Bạch
sông
Đằng
+ GV ứng dụng công nghệ thông tin cho học sinh xem một đoạn video để học
sinh được hiểu rõ hơn hiện tượng thủy triều.
+ Phần diễn biến trận Bạch Đằng, sau khi giáo viên tổ chức cho học sinh thảo
luận nêu những nét chính của diễn biến trận Bạch Đằng. Giáo viên mở rộng,
khắc sâu cho học sinh xem 4 phút còn lại của đoạn phim tư liệu về Trận chiến

Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền
theo đường link
Đoạn phim giúp HS được
trực quan, khắc sâu về diễn biến của Trận Bạch Đằng.
1

Ghi chú:

 5

Được chup màn hình từ đường lik />
8


 6
(Ảnh chụp từ đoạn phim Trận chiến Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền)

*Đối với phần 3: Ý nghĩa Trận Bạch Đằng.
Sau khi học sinh chủ động tìm được ý nghĩa của Trận Bạch Đằng, GV
có thể liên hệ thực tế để giáo dục HS tinh thần yêu nước, lòng biết ơn Ngô
Quyền thông qua các hình ảnh sau:

 7

Tượng Ngô Quyền)

(Lăng Ngô Quyền ở Đường Lâm (sông Bach Đằng)

(Đường Ngô Quyền)


Ví dụ 2: Bài 7: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Mục tiêu cần đạt được của
tiết dạy là: - HS nắm được những nét chính về sự kiện Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12
sứ quân: Sau khi Ngô Quyền mất, đất nước rơi vào cảnh loạn lạc, các thế lực
cát cứ địa phương nổi dậy chia cắt đất nước; Đinh Bộ Lĩnh đã tập hợp nhân
dân dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước.
- HS nắm được đôi nét về Đinh Bộ Lĩnh: Đinh Bộ Lĩnh quê ở vùng Hoa Lư,
Ninh Bình, là một người cương nghị, mưu cao và có chí khí lớn, ông có công
dẹp loạn 12 sứ quân.Với mục tiêu trên, tôi chia nội dung bài này thành 3 đơn vị
kiến thức: 1-Tình hình đất nước sau khi Ngô Quyền mất; 2- Đinh Bộ Lĩnh dẹp
loạn 12 sứ quân.
*Đối với phần 1: Tình hình nước ta sau khi Ngô Quyền mất.
-Sau khi GV tổ chức cho HS làm việc với sách giáo khoa thảo luận nhóm để biết
được tình hình nước ta sau khi Ngô Quyền mất, GV trình chiếu lược đồ Loạn 12
sứ quân, giới thiệu: “Trên khắp miền Bắc nước ta trở vào đến Thanh Hóa là 12
sứ quân chiếm đóng, chúng đánh chém lẫn nhau, chia nước ta 12 vùng. Cột cờ
kí hiệu vị trí thủ phủ của các sứ quân, dòng chữ màu đen là tên địa danh các sứ
quân chiếm cứ. Còn các chữ trong ngoặc đơn là tên các tướng của sứ quân”

 6

Được chup màn hình từ đường lik />mạng Internet

 7 lấy

 8

(Lược đồ: Loạn 12 Sứ quân)

*Đối với phần 2: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 Sứ quân
Sau khi giáo viên tổ chức cho HS tìm hiểu SGK, thảo luận nêu được đôi

nét về Đinh Bộ Lĩnh: Đinh Bộ Lĩnh quê ở vùng Hoa Lư, Ninh Bình, là một
người cương nghị, mưu cao, GV xuất hiện xuất hiện lược đồ hành chính Việt
Nam, yêu cầu lên bảng vị trí của tỉnh Ninh Binh quê hương của Đinh Bộ Lĩnh,
sau đó trình chiều một số tranh ảnh giới thiệu về cảnh Hoa Lư ngày nay để tạo
hứng thú và mở rộng hiểu biết cho học sinh.

 9

 8 ,  9 lấy từ mạng Internet
10

(Lược đồ hành chính Việt Nam)

(Cảnh Hoa Lư ngày nay)

Với câu hỏi Đinh Bộ Lĩnh là người như thế nào? HS có thể dựa vào kênh chữ
trong sách khoa để trả lời. Tuy nhiên để giờ học sinh động, tạo được hứng thú
học tập cho các em, GV tổ chức trình chiếu cho HS xem một đoạn phim tư liệu

9


nói về thời niên thiếu của Đinh Bộ Lĩnh để học sinh hiểu rõ được ngay từ bé
Đinh Bộ Lĩnh đã là người có khí chất làm vua.

11

(Ảnh chụp từ đoạn phim Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân phần 1 )

Qua đoạn phim HS trực quan một sinh động, các em thấy dễ hiểu, dễ nhớ

và yêu thích thời niên thiếu của Đinh Bộ Lĩnh. Đến phần dẹp loạn 12 Sứ quân,
để các em được hiểu rõ hơn gv có thể cho các em đoạn phim tư liệu: Đinh Bộ
Lĩnh
dẹp
loạn
12
sứ
quân
phần
1

đường
link
/>
10 , 11 lấy từ mạng Internet

12
(Ảnh chụp từ đoạn phim Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân phần 1 )

Hoặc để giáo dục học sinh ghi nhớ công ơn của Đinh Bộ Lĩnh, GV có thể trình
chiếu một số tranh, ảnh sau để lồng ghép giáo dục:
(Núi Mã Yên - Nơi vua Đinh)
Tiên Hoàng yên nghỉ
(Ngôi trường mang tên Đinh
Tiên Hoàng)

(Lăng mộ Đinh Tiên Hoàng)

(Con đường mang tên Đinh Tiên Hoàng)


(Tượng Đinh Tiên Hoàng)

(Lê hội Hoa Lư)

Ví dụ 3: Bài 12: Nhà Trần thành lập
-Sau khi học sinh thảo luận tìm hiểu được hoàn cảnh nước ta cuối thời Lý và nhà

12 cắt từ video đường lik />Trần đã thay thế nhà Lý như thế nào? Để học hiểu rõ về việc nhà Trần ra đời là
nhờ công của Trần Thủ Độ. Vậy Trần Thủ Độ là ai? Ông là người như thế nào?
GV trình chiếu ảnh chân dung về ông để giới thiệu thêm về Trần Thủ Độ cho
học sinh hiểu.

13

(Chân dung Trần Thủ Độ)

-Hoặc sau khi tìm hiểu xong phần “Hoàn cảnh ra đời của nhà Trần” GV có thể
lên mạng Intenr tải đoạn phim nói về hoàn cảnh nước ta cuối thời thời Lý, hoàn
cản ra đời của nhà Trần (đường link />v=MlAQOUcl4uQ.) Qua đoạn phim các HS sẽ được trực quan sinh động hiểu và
nắm bài được tốt hơn.

14

(Ảnh chụp từ đoạn phim Nhà Trần thành lập phần 2 )

Qua các ví dụ trên, chúng ta thấy việc ứng dụng CNTT vào từng bài dạy
sẽ gây hứng thú, tạo sự yêu thích giúp HS học tốt từng bài học. Nhưng chúng ta
cũng không nên quá lạm dụng mà hãy coi đó là công cụ, là phương tiện hỗ trợ
trình chiếu tranh ảnh, lược đồ, phim tư liệu làm cho giờ học trở nên sinh động,
hứng thú với học sinh. Còn việc sử phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù

hợp từng đối tượng HS để phát huy tính tích cực, chủ động mới là quan trọng
hàng đầu.
10


Việc thứ tư: Để ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy lịch sử, ngoài
kênh hình, kênh chữ có trong sách giáo khoa thì giáo viên phải biết khai thác
mạng Intenet để lấy tranh ảnh, phim tư liệu phù hợp để trình chiếu giúp học sinh
lĩnh hội kiến thức, kĩ năng một cách hiệu quả nhất.

 

13 khai thác từ
v=MlAQOUcl4uQ

mạng

Internet;

14 cắt

từ

video

đường

link

/>

Ví dụ 1: Khi dạy bài 1: Nước Văn Lang; để củng cố, khắc sâu và mở rộng kiến
thức lịch sử cho học sinh, giáo viên có thể cho học sinh xem một đoạn phim tài
liệu nói về sự ra đời của nước Văn Lang. Đoạn phim này được tải theo đường
link />
15

(Hình ảnh chụp từ video: Nước văn Lang link />
Ví dụ 2: Khi dạy bài 2: Nước Âu Lạc, để củng cố tiết học, GV tổ chức cho học
sinh xem một đoạn phim An Dương Vương và nước Âu Lạc (phần 1) với đường
link (đoạn phim này được
giáo viên chèn vào slide trình chiếu), Qua đoạn phim này học sinh càng được
củng cố, khắc sâu kiến thức về sự ra đời của nước Âu lạc và quá trình xây dựng,
tồn tại của nước Âu lạc.

16

(Ảnh chụp từ vi deo lik />
Ví dụ 3: Khi dạy bài 8: Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ
nhất (Năm 981) GV cũng có thể tham khảo bộ phim tư liệu: Vua Lê Đại Hành
và kháng chiến chống quân Tống. GV có thể sử dụng trình chiếu trong quá trình
tìm hiểu bài hoặc củng cố bài (tùy thuộc sự linh hoạt trong dạy học của mỗi giáo
viên, đường link />
15 cắt

từ video đường lik /> />
16 cắt

từ video đường lik

17


(Ảnh chụp từ vi deo lik />
Chỉ qua một số ví dụ trên cũng đã đủ chứng minh ta thấy mạng Internet là
“một kho thiết bị dạy học” khổng lồ. Vấn đề là chúng ta có biết khai thác và biết
sử dụng nó hay không? Nếu chúng ta trả lời được những câu hỏi đó thì tôi tin
rằng mỗi giờ học lịch sử là một giờ học đầy thú vị và hấp dẫn. Đồng thời chúng
ta hãy đăng ký là thành viên thư viện viloet hay tạo websitete cá nhân trên violet
để tham khảo, trao đổi các tài liệu với đồng nghiệp.
2.3.3. Giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn Lịch sử thông
qua cách nắm vững các giai đoạn lịch sử.
Nếu dạy lịch sử mà ta dạy theo cách cuốn chiếu, hết bài này chuyển sang
bài khác mà không có sự liên kết, sâu chuỗi các sự kiện lịch sử trong mỗi giai
đoạn thì học sinh học sẽ không nhớ, không hiểu gì? Đặc biệt khi bước vào mỗi
một giai đoạn lịch sử mới, giáo viên cần nêu vấn đế hoặc tổ chức cho học sinh
tìm hiểu đó là giai đoạn lịch sử nào? Giai đoạn lich sử ấy bắt đầu từ năm nào?
Kết thúc năm nào? Kéo dài trong bao nhiêu năm? Trong giai đoạn lịch sử ấy
chúng ta cần nắm được những sự kiện, nhân vật, mốc lịch sử nào? Qua thực tế
11


giảng dạy của bản thân cũng như qua giảng dạy một số tiết lịch sử ở trường bạn
(kì thi giáo viên giỏi huyện), khi kiểm tra bài cũ các em thường không nhớ tên
giai đoạn lịch sử đang học. Chính vì vậy tôi thiết nghĩ, khi bước vào một giai
đoạn lịch sử mới giáo viên phải tổ chức cho học sinh tìm sơ qua về một số sự
kiện tiêu biểu của giai đoạn ấy. Đặc biệt trong quá trình dạy những bài lịch sử
trong một giai đoạn, giáo viên luôn luôn hệ thống lại kiến thức theo dòng thời
gian để học hiểu nắm vững những sự kiện lịch sử đã học.
Vi dụ1: Khi dạy bài 7: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân.
Trước khi vào học bài mới, GV xuất hiện trục thời gian, yêu cầu HS dựa
vào trục thời để nêu tên hai giai đoạn lịch sử đầu tiên trong lịch sử nước ta?

Khoảng năm 700 Năm 179 công nguyên
Năm 938
Năm 1009
Từ đó dẫn dắt để giới thiệu về giai đoạn lịch sử tiếp theo? (HS nêu tên giai đoạn

17 cắt từ video đường lik />kèm năm; cho biết giai đoạn lịch sử này gắn liền với những triều đại nào) rồi từ
đó giáo viên mới dẫn dắt giới thiệu bài học.
Vi dụ2: Khi dạy bài 12: Nhà Trần thành lập
Đây là một bài đầu tiên của một giai đoạn mới, để học sinh có kiến thức
một cách hệ thống, khi kiểm tra bài cũ, giáo viên có thể hỏi:
? Các em đang học giai đoạn lịch sử nào? (Nước Đại Việt thời Lý, từ năm 1009
đến năm 1226)
? Qua các bài đã học về giai đoạn lịch sử này, các em biết gì về Nhà Lý?
Câu hỏi trên là một câu hỏi mở, HS có thể thi đua để phát biểu về những
sự kiện, nhận vật tiêu biểu ở giai đoạn lịch sử này.
Khi giáo viên muốn giới thiệu về giai đoạn lịch sử “Nước Đại Việt thời
Trần (từ năm 1226 đến 1400)” thì giáo viên cũng không nên giới thiệu ngay. Bởi
phần đầu tiên của bài Nhà Trần thành lập đang còn liên quan đến cuối triều Lý.
Do đó, GV tổ chức cho HS tìm hiểu được hoàn cảnh nước ta cuối thế kỉ XII và
sự ra đời của nhà Trần. Từ đó GV mới dẫn dắt để giới thiệu giai đoạn lịch sử
Nước “Đại Việt thời Trần từ năm 1226 đến 1400”
2.3.4. Giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn Lịch sử thông
qua cách tổ chức trò chơi.
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần phải biết linh hoạt trong việc sử
dụng các phương pháp, hình thức dạy học một cách đa dạng phong phú để gây
hứng thú, phát huy được vai trò trung tâm của học sinh. Trong muôn vàn cách
thì việc lồng ghép việc tổ chức các trò chơi trong tiết học hay giờ ngoại khóa
mang lại hiệu quả giáo dục vô cùng to lớn. Có rất nhiều các trò chơi học tập có
thể áp dụng trong các giờ học lịch sử, hay các giờ HĐNGLL mà mang lại hiệu
gủa giáo dục cao như “Rung chuông vàng”; “Nhà Sử học tài ba”; “Ai nhanh ai

đúng?”; “Đố vui”; “trò chơi ô chữ”’ “mảnh ghép bí mật”, .... Bản thân tôi thường
xuyên áp dụng trò chơi “Rung chuông vàng”; “Nhà Sử học tài ba:; “Ai nhanh ai
đúng?” trong giờ học Lịch sử hay tiết sinh hoạt lớp. Bởi về cơ bản cách tổ chức
3 trò chơi này về hình thức giống nhau (khác tên gọi); Cách chơi và sự chuẩn bị
đơn giản, không mất nhiều thời gian nhưng học sinh rất hứng thú, đặc biệt là học
12


sinh có thể tham gia đồng loạt. Hoặc thường xuyên tổ chức trò chơi “đố vui”,
qua các câu đố học sẽ nhớ được các nhân vật, sự kiện lịch sử tiêu biểu. Để làm
được điều đấy, sau một bài học, giáo viên phải biết xây dựng hệ thống câu hỏi
hay biết sưu tầm các câu đố để tổ chức trò chơi.
Ví dụ 1: Khi dạy xong bài: Nhà Trần thành lập, tôi xây dựng hệ thống câu hỏi
sau để tổ chức trò chơi Rung chuông vàng hay Nhà Sử học tài ba:
Câu 1 : Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho ai ?
A. Nhường ngôi cho Chồng là Trần Cảnh
B. Nhường ngôi cho Trần Thủ Độ
C. Nhường ngôi cho quân xâm lược Phương Bắc.
Câu 2 : Nhà Trần được thành lập năm nào ?
A. Đầu năm 1400.
B. Đầu năm 1226
C. Cuối năm 1076
Câu 3 : Nhà Trần đặt tên nước là :
A. Đại Việt
B. Đại Cồ Việt
C. Thăng Long
Câu 4: Dưới thời Trần kinh đô ở đâu?
A. Hoa Lư
B. Thăng Long
C. Cổ Loa

Câu 5: Nhà Trần quan tâm đến việc phát triển nông nghiệp và phòng thủ đất
nước như thế nào ?
A. Trai tráng khỏe mạnh được tuyển vào quân đội, thời bình thì ở nhà sản xuất,
lúc chiến tranh thì tham gia chiến đấu.
B. Nhà Trần lập thêm Hà Đê Sứ để trông coi việc đắp đê và bảo vệ đê điều;
khuyến nông sứ chăm lo, khuyến khích nông dân sản xuất; Đồn điền sứ tuyển
mộ người đi khần hoang.
C. Cả hai ý trên.

(Ảnh minh họa trò chơi : Nhà Sử học tài ba do tôi tổ chức)

Ví dụ 2: Sưu tầm nhiều câu đố vui về lịch sử để tổ chức các trò đố vui nhằm giới
thiệu hay cũng cố bài về nhân vật hay sự kiện lịch sử nào đó. Sau đây là một số
câu đố vui, tôi đã sưu tầm:
1. Vua nào mặt sắt đen sì?
2. Vua nào trong buổi hàn vi ở chùa?
3. Ngựa ai phun lửa đầy đồng?
4. Kiếm ai trả lại rùa vàng?
5. Còn ai đổi mặc hoàng bào?
6. Nữ lưu sánh với anh hào những ai?
7. Tướng Tàu chui ống chạy dài Bắc phương?
8. Rắc lông ngỗng, thiếp nghe chàng hại cha?
9. Anh hùng đại thắng Đống Đa?
10. Lũy Thầy ai đắp, ai xây?
11. Vua Bà lừng lẫy uy danh?
12. Ấu nhi tập trận, cỏ tranh làm cờ?
13. Vua nào nguyên-súy hội thơ?
14. Hùng-Vương quốc-tổ đền thờ ở đâu?
13



15. Đục chìm thuyền địch dưới sông Bạch-Đằng?
16. Lý triều nổi tiếng cao tăng?
17. Bình-Ngô ai soạn bản văn lưu truyền?
18. Ai sinh trăm trứng đồng bào?
19. Vua nào mở nghiệp nhà Trần?
20. Ngày nào kỷ niệm Đống Đa?
21. Đời nào có chức Lạc-Hầu?
22. Sớ dâng chém nịnh không thành, từ quan?
23. Ai mời bô lão dự bàn chiến chinh?
24. Ngày nào trẩy hội Đền Hùng?
25. Ngày nào sông Hát, nhị Trưng trẫm mình?
26. Núi nào ngự trị Sơn-Tinh?
27. Móng rùa thần tặng vua nào? 18
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau một thời gian áp dụng “ Một số giải pháp giúp học sinh yêu thích
và học tốt phân môn Lịch sử lớp 4 ở Trường Tiểu học Lam Sơn”, tôi nhận
thấy học sinh học bài rất sôi nổi, yêu thích, hứng thú với giờ học Lịch sử. GV
dạy học cũng cảm thấy thăng hoa hơn. Qua kết quả kiểm tra cuối kì I, nhận xét
đánh giá thường xuyên tính đến giữa học kì II, năm học 2018 - 2019 chất lượng
môn học của 2 lớp 4A1, 4A như sau:
Chất lượng giáo dục môn học
Số học sinh
Số học sinh
Chưa
không yêu
Hoàn
hứng thú, yêu
Tốt

hoàn
thích, chưa
thành
thích giờ Lịch
TSHS
thành
hứng thú giờ
Sử
học lịch sử
SL
TL
SL TL SL TL
4A1
29 100% 0
0
0
0
29
100%
0
0
(29HS)
4A2
53,
12 46,2 14
12
46,2
14
53,8
(26 HS)

8

18 đươc trích từ 100 câu đố Lịch Sử của Đào Hữu Dương
Qua kết quả đối chứng trên phần nào đã khẳng định hiệu được hiệu quả
của việc áp dụng các giải pháp trên vào quá trình giảng dạy môn phân Lịch sử
lớp 4 tại Trường Tiểu học Lam Sơn.
3. Kết luận, đề nghị.
3.1. Kết luận
Qua việc áp dụng “ Một số giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt
phân môn Lịch sử lớp 4 ở Trường Tiểu học Lam Sơn” tôi nhận thấy chất
lượng giảng dạy đạt hiệu quả cao. Học sinh thấy yêu thích và hứng thú với mỗi
giờ học Lịch sử. Các em rất tự tin với những hiểu biết của mình về Lịch sử nước
nhà từ khoảng 700 năm trước Công Nguyên đến buổi đầu thời Nguyễn năm
1858. Các em nhớ và trao đổi với nhau rất tự tin về các sự kiện, nhân vật, mốc
14


thời gian hay một giai đoạn lịch sử. Các tham gia các Kì giao lưu Trải nghiệm
cấp trường, cấp huyện luôn trả lời xuất sắc những câu hỏi về kiến thức lịch sử.
Có thể nói rằng, để đạt hiệu quả giáo dục cao đòi hỏi mỗi người giáo viên
cần phải thật sự yêu nghề, nhiệt tình nhưng phải sáng tạo trong dạy học.
3.2. Kiến nghị
Đề nghị BGH nhà trường tích cực tham mưu với cấp trên đầu tư kinh phí
mua sắm thêm trang thiết bị như máy chiếu, lắp cố định ở các phòng học nhằm
đáp ứng nhu cầu dạy và học để nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường; tổ
chức các sân chơi trí tuệ để giúp các em được trải nghiệm những kiến thức đã
được học tạo hứng thú, động lực học tập hơn cho các em.
Sau một thời gian tìm hiểu nghiên cứu tôi đã hoàn thành sáng kiến kinh
nghiệm với nội dung: “ Một số giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt
phân môn Lịch sử lớp 4 ở Trường Tiểu học Lam Sơn” và đã đạt được một số

kết quả nghiên cứu nhất định. Tuy nhiên do năng lực còn hạn chế, thời gian có
hạn, chắc chắn sáng kiến này còn nhiều vấn đề chưa giải quyết hết các nhiệm vụ
nghiên cứu. Tôi hi vọng rằng sẽ tiếp tục nghiên cứu và được sự đóng góp, bổ
sung của các đồng nghiệp và các cấp quản lý, để tôi tiếp tục nghiên cứu, đổi mới
và góp phần nâng cao hiệu quả dạy học trong những năm tiếp theo ở trường Tiểu
học.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hiệu trưởng

Nguyễn Đức Trọng

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 4 năm 2019
Tôi xin xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.
Người viết SKKN

Nguyễn Thị Yến

15



×