Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số biện pháp phụ đạo hiệu quả cho học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 5b trường tiểu học xuân lộc, huyện thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.74 KB, 15 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HIỆU QUẢ CHO HỌC SINH
CHƯA HOÀN THÀNH MÔN TOÁN LỚP 5B TRƯỜNG TIỂU
HỌC XUÂN LỘC HUYỆN THƯỜNG XUÂN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hiền
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Xuân Lộc
SKKN thuộc môn: Toán.

THANH HÓA, NĂM 2018


MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng vấn đề
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang
1
1
1
2
2
3
3
4
6
10
11
11
12


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết trường Tiểu học là nơi tạo nền móng vững chắc cho
quá trình học tập của mỗi con người. Vì vậy nhà trường Tiểu học phải không
ngừng nâng cao chất lượng dạy học nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục.
Trường Tiểu học Xuân Lộc là một trường thuộc vùng khó khăn của huyện
Thường Xuân. Trong đó 89,1% học sinh của nhà trường là người dân tộc thiểu
số. Đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, đa số học sinh không có hứng
thú khi học tập các môn tự nhiên đặc biệt là môn toán. Trong khi đó Toán học là
một môn học hết sức quan trọng trong chương trình Tiểu học. Đó là công cụ để

các em học tốt các môn học khác, ngoài ra các kiến thức, kỹ năng của môn toán
Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống hàng ngày. Nó góp phần rất quan
trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, suy luận, giải quyết vấn đề,
phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, sáng tạo, đồng thời nó góp phần
hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng cho các em như cần cù, cẩn
thận, có ý chí vượt khó, làm việc có kế hoạch và khoa học.
Môn Toán ở lớp 5 có nhiều nội dung mới và khó hơn những lớp dưới. Vì
vậy mỗi giáo viên cần phải có trách nhiệm dạy học sao cho học sinh của mình
tiếp thu được những kiến thức và kĩ năng mà chương trình giáo dục Tiểu học
quy định. Trên thực tế không phải mọi học sinh đều học tập dễ dàng như nhau,
có thể có những học sinh nắm kiến thức toán học rất nhanh mà không cần có sự
cố gắng đặc biệt, trong khi đó một số em khác lại không thể đạt được kết quả
như vậy mặc dù các em đã cố gắng rất nhiều. Đó chính là những em học sinh
chưa hoàn thành môn Toán. Vì thế việc dạy cho các em chưa hoàn thành toán
lên trình độ hoàn thành quả là một vấn đề không đơn giản. Giải quyết được vấn
đề này tức là góp một phần khắc phục tình trạng học sinh chưa hoàn thành ở
Tiểu học. Bằng kinh nghiệm của bản thân trong quá trình phụ đạo học sinh chưa
hoàn thành môn Toán, tôi xin đưa ra “Một số biện pháp phụ đạo hiệu quả cho
học sinh chưa hoàn thành môn toán ở lớp 5B trường Tiểu học Xuân Lộc
huyện Thường Xuân”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Đề tài này nhằm mục đích trao đổi cùng đồng nghiệp kinh nghiệm phụ
đạo toán cho học sinh lớp 5B.
- Thực hiện đề tài này nhằm rút ra được những bài học kinh nghiệm qua
thực tế giảng dạy của bản thân và của đồng nghiệp.
- Đồng thời là một số kinh nghiệm cho đồng nghiệp tham khảo, vận dụng
trong quá trình công tác và trong giảng dạy để đảm bảo việc đổi mới phương pháp
dạy học.
1



- Bên cạnh đó còn góp phần khắc phục những khó khăn cho một số giáo
viên khi dạy học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Trong đề tài này tôi tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản sau:
- Tìm hiểu các biện pháp phụ đạo môn toán cho học sinh lớp 5 để rút ra
những bài học kinh nghiệm, áp dụng hiệu quả trong quá trình giảng dạy môn
toán nói chung và phụ đạo môn toán nói riêng.
- Tìm hiểu nguyên nhân học sinh chưa hoàn thành môn học rồi phân học
sinh ra theo các nhóm.
- Lập kế hoạch bồi dưỡng:
Khi nắm được nguyên nhân dẫn đến việc chưa hoàn thành môn toán của
từng em tôi lập kế hoạch phụ đạo học sinh chưa hoàn thành.
- Kiểm tra đánh giá theo dõi sự tiến bộ của học sinh.
Cuối mỗi tuần tôi cho học sinh làm một bài kiểm tra để theo dõi kết quả
học tập của các em từ đó mà có biện pháp phù hợp kịp thời để điều chỉnh kế
hoạch phụ đạo học sinh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
a) Nhóm phương pháp nghiên cứu tài liệu:
- Đọc sách báo, tạp chí tìm hiểu tâm sinh lí học sinh và tìm hiểu nguyên
nhân dẫn đến học sinh chưa hoàn thành môn học.
- Hệ thống hóa lại kiến thức cơ bản của môn Toán trong chương trình Tiểu
học.
b) Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận điều tra:
- Kiểm tra, so sánh chất lượng tiếp thu bài của học sinh trong các tiết dạy.
- Tổng hợp điều tra và có so sánh về mức độ học sinh thích học, mức độ
học sinh hiểu bài trong các giờ học.
- Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới).
- Kiểm tra chất lượng sau giờ học.
c) Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

d) Phương pháp đàm thoại.

2


2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Qua nghiên cứu từ thực tiển và kinh nghiệm dạy học của giáo viên thời
gian qua. Chúng ta tạm thời định nghĩa học sinh chưa hoàn thành như sau: Học
sinh chưa hoàn thành là những học sinh bằng kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm
của bản thân mình, dưới sự hướng dẫn của giáo viên không tự giải quyết được
những mâu thuẫn trước mắt để tự chiếm lĩnh tri thức của bài học, hoặc bị hụt
hẫng, chậm chạp trong vận dụng các kiến thức kĩ năng cơ bản phải có ở học sinh
để giải quyết một bài tập hay một yêu cầu được đặt ra trong quá trình dạy và
học.
Đối với ngành giáo dục, sản phẩm cho ra phải là con người có đầy đủ
năng lực và phẩm chất đạo đức để đáp ứng với nhu cầu phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó rèn học sinh chưa hoàn thành là
một mặt rất quan trọng của sự nghiệp giáo dục toàn diện. Vì thế mục tiêu của
việc rèn học sinh chưa hoàn thành là một mặt của mục tiêu giáo dục nói chung
và giáo dục nhà trường nói riêng.
Phụ đạo học sinh chưa hoàn thành Toán tiểu học phải bám sát vào thực
trạng học tập, sinh hoạt của tập thể lớp. Đồng thời nắm chắc năng lực tiếp thu
của đối tượng, kiến thức hiện tại, nhận thức về quá trình học tập, sự quan tâm
của phụ huynh học sinh cũng như hoàn cảnh của gia đình các em trong diện
chưa hoàn thành Toán.
Biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành Toán tiểu học phải đảm bảo
tính khoa học, tính cụ thể. Biện pháp đưa ra phải phù hợp với đối tượng, năng
lực của học sinh chưa hoàn thành. Được các em tự ý thức quan tâm và có nhu
cầu động cơ thực hiện. Không nên đặt ra mục tiêu kết quả quá cao hoặc quá

thấp.
Biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành môn Toán tiểu học không
chỉ phục vụ cho việc bổ sung kiến thức cơ bản về môn Toán mà còn hình thành
được các kỹ năng cơ bản để học tập tốt bộ môn Toán. Như vậy ,vai trò của người
giáo viên là rất quan trọng trong mỗi tiết dạy ở lớp. Sự quan tâm giúp đỡ cụ thể
đối với các em cần thể hiện hết sức khéo tạo cho các em học tập một cách tự tin
trong lớp. Thông thường giáo viên trẻ thường rất hay chán nản và buồn phiền
đối với những lớp có những học sinh chưa hoàn thành điều đó tạo nên khoảng
cách giữa học sinh và giáo viên, không có sự thông cảm lẫn nhau.
Việc thực hiện biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành là việc rất
quan trọng hiện nay. Đặc biệt là trong quá trình thực hiện nghiêm túc công cuộc

3


đổi mới trong ngành giáo dục nói chung và ngành giáo dục Thường Xuân nói
riêng đang diễn ra rất mạnh mẽ và quyết liệt.
Học sinh chưa hoàn thành là vấn đề đau đầu từ các cấp lãnh đạo cho đến
giáo viên chủ nhiệm lớp, nhiều giáo viên mất ăn mất ngủ để tìm được những giải
pháp có thể giúp một học sinh chưa hoàn thành tiến bộ. Và cũng không có gì vui
hơn khi nhìn thấy học sinh mình học tập ngày càng tiến bộ.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
a) Thực trạng:
- Hiện nay số học sinh chưa hoàn thành chương trình lớp học không chỉ là
nỗi trăn trở của các thầy cô giáo, là sự quan tâm các cấp lãnh đạo mà còn là nỗi
lo lắng của các bậc phụ huynh. Trong thời gian gần đây, tỉ lệ học sinh lưu ban ở
các lớp, các trường là không đáng kể hoặc là không có nhưng thực tế thì không
phải học sinh chưa hoàn thành chương trình lớp học không còn mà tình trạng
này vẫn tồn tại ở các lớp, các trường.
- Như chúng ta đã biết việc học sinh chưa hoàn thành môn toán được biểu

hiện dưới nhiều hình thức. Qua thực tế giảng dạy cũng như trao đổi với đồng
nghiệp hầu hết các ý kiến đều cho rằng việc giảng dạy các kiến thức toán cơ bản
cho học sinh lớp 5 là một việc khó, nay để khắc phục tình trạng học sinh chưa
hoàn thành về môn toán trong cùng một lớp học nhiều trình độ lại càng khó hơn.
Vì sao vẫn còn nhiều học sinh chưa hoàn thành toán ở lớp 5 ta có thể chia làm
hai nguyên nhân:
b) Nguyên nhân khách quan:
Ở lớp 5 ngoài việc mở rộng vòng số là số thập phân các em còn phải hoàn
thiện và nâng cao thêm nhiều kiến thức mới. Với phần đại lượng các em phải
hoàn thiện các bảng đo: Khối lượng, độ dài, diện tích và học mới các đơn vị đo
thể tích. Phần hình học các em phải nắm được công thức tính chu vi, diện tích,
thể tích của hình tam giác, hình thang, hình tròn, hình hộp chữ nhật và hình lập
phương. Phần giải toán các em phải học thêm hai dạng toán giải về tỉ số phần
trăm và toán chuyển động. Ngoài các nội dung trên chương trình còn lồng ghép
nhiều dạng toán đã học ở lớp dưới để các em ôn lai toàn bộ chương trình toán
Tiểu học. Với một lượng kiến thức như vậy đối với học sinh có mức học hoàn
thành trở lên đã khó đối với những em học sinh chưa hoàn thành môn toán càng
khó hơn.
c) Nguyên nhân chủ quan:
Năm học này nhà trường đã được công nhận trường Tiểu học đạt chuẩn
Quốc gia mức độ 1 vì vậy việc nâng cao chất lượng đại trà, quan tâm chất lượng
4


mũi nhọn và giảm thiểu học sinh chưa hoàn thành là mục tiêu được đặt lên hàng
đầu trong kế hoạch giáo dục của nhà trường. Từ kế hoạch chung của nhà trường
tôi đã xây dựng kế hoạch riêng cho lớp mình chủ nhiệm. Sau khi nhận lớp tôi
tiến hành tìm hiểu và nhận thấy rằng tình trạng học sinh chưa hoàn thành ở lớp
tôi xuất phát từ các nguyên nhân sau:
+ Do đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học nhanh nhớ, chóng quên,

sau mấy tháng nghỉ hè, các em được tự do vui chơi, không ôn tập nên dẫn đến
kiến thức toán ở lớp dưới bị mai một, lãng quên.
+ Do một số gia đình thiếu quan tâm đến việc học tập của con cái, công
việc làm ăn bận rộn nên phụ huynh không có thời gian để nhắc nhở, xem xét
việc học của các em. Bởi 100 % số học sinh lớp 5B là con em gia đình nông
dân.
+ Bố mẹ đi làm ăn xa các em sống cùng ông bà hoặc sống nhờ nhà bà
con (có đến 12 em sống xa bố mẹ) nên việc quan tâm đến việc học tập của các
em bị hạn chế.
+ Hoàn cảnh kinh tế khó khăn, gia đình không hạnh phúc, không ai quan
tâm.
+ Do thời lượng học buổi 2 còn ít.
+ Bệnh tật, sức khỏe kém, giảm trí nhớ hoặc giảm sự chú ý của trẻ vào
bài học làm cho việc học bị gián đoạn, khiến cho trẻ bị hổng kiến thức..
Từ chỗ nắm được nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh chưa hoàn
thành môn học đặc biệt là môn toán, ngay từ đầu năm học 2017-2018 khi được
phân công chủ nhiệm lớp lớp 5B Trường Tiểu học Xuân Lộc tôi đã tiến hành
khảo sát chất lượng học sinh môn toán của lớp với mục đích đánh giá chính xác
hơn về thực trạng của lớp mình để từ đó tìm ra phương pháp giảng dạy đạt hiệu
quả cao.
d) Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài:
Kết quả khảo sát cụ thể như sau:
Số học sinh lớp là: 25 em (trong đó có 1 học sinh khuyết tật)
Số học sinh tham gia khảo sát là: 24 em
Tổng số
Chưa hoàn thành
Hoàn Thành
Hoàn thành tốt
học sinh
SL

TL
SL
TL
SL
TL
24 em
4
16,6%
19
79,3%
1
4,1%

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
5


2.3.1. Sử dụng và kết hợp, hợp lý các phương pháp dạy học phù hợp với
từng đối tượng học sinh:
- Ngay trong những tiết học Toán đầu năm tôi đã lập kế hoạch và tham
khảo với đồng nghiệp về việc sử dụng, kết hợp các phương pháp dạy học để
giúp các em tiến bộ hơn. Ngoài ra, tôi đã trực tiếp tới nhà học sinh, trao đổi với
phụ huynh, quan sát góc học tập, xem thời gian biểu của các em và góp ý bổ
sung. Ở nhà phụ huynh kèm thêm, ở lớp giáo viên theo dõi, kiểm tra, nhờ đó mà
các em tiến bộ rõ rệt nhất là phần đọc, viết số tự nhiên có nhiều chữ số.
Ví dụ: Khi hướng dẫn các em cách đọc số tự nhiên có nhiều chữ số các
em không đọc được như em Cầm Bá Tiên, em Lục Đăng Hoan khi đó tôi nhẹ
nhàng hướng dẫn kĩ cho các em cách đọc:
- Để đọc số tự nhiên có nhiều chữ số, người ta tách số đó thành từng lớp
kể từ phải sang trái, cứ ba số hợp thành một lớp, viết cách nhau khoảng một chữ

số, rồi đọc trong từng lớp.
Chẳng hạn đọc các số tự nhiên 2345 ; 23051 .
2345 viết tách là 2 34 5

Đọc là:

Đơn vị
Chục
Trăm
Nghìn
Hai nghìn ba trăm bốn mươi lăm.

23051 viết tách là

23 051

Đơn vị
Chục
Trăm
Nghìn
Chục nghìn
Đọc là:
Hai mươi ba nghìn không trăm năm mươi mốt.
Tập cho học sinh làm theo mẫu trên nhiêu lần, các em sẽ quen dần và việc
đọc số ngày càng thạo và nhanh.
2.3.2. Khuyến khích từng học sinh chủ động và tích cực hoạt động học
tập đem lại kết quả cao nhất cho từng học sinh:
6



- Đối với những em chưa hoàn thành môn Toán, tôi không khắt khe đòi
hỏi các em làm những bài tập quá sức, mà ra bài tập vừa sức, các em làm được
các em mới có niềm tin trong học tập, lúc đó tôi khen ngợi kịp thời và tăng bài
tập ở mức học sinh hoàn thành có thể làm được. Như vậy giao việc cho học sinh
từ dễ đến vừa sức.
Ví dụ: Khi dạy các em về tính diện tích hình tam giác giáo viên cần cho
học sinh chuẩn bị hai hình tam giác nhỏ bằng nhau (bằng giấy) và kéo để các em
cắt hình theo hướng dẫn của giáo viên:
- Lấy một trong hai hình tam giác bằng nhau.
- Vẽ một đường cao lên hình tam giác đó.
- Cắt theo đường cao, được hai mảnh tam giác ghi là 1 và 2
- Ghép hai mảnh 1 và 2 vào hình tam giác còn lại để thành một hình chữ
nhật ABCD. Sau đó giáo viên gợi ý để học sinh tự nhận ra: Diện tích hình chữ
nhật ABCD chính là diện tích của hai hình tam giác bằng nhau các em đã chuẩn
bị. Từ đó các em tự tìm ra được quy tắc và diện tích tính hình tam giác. Sau khi
các em nắm được bài, giáo viên ra bài tập cho các em từ dễ đến khó, chẳng hạn:
-Tính diện tích hình tam giác biết:
a) Độ dài đáy là 4m và chiều cao là 6m.
b) Độ dài đáy là 42,5m và chiều cao là 5,2m.
c) Độ dài đáy là 30,5dm và chiều cao là 1,2m.
Như vậy, qua áp dung sáng kiến trên chúng ta đã tổ chức cho các em chủ
động chiếm lĩnh kiến thức và sau đó chúng ta giao việc cho các em từ dễ đến
khó.
2.3.3. Khơi dậy tính tò mò và năng lực của từng học sinh qua các hoạt
động học tập nhằm khám phá để có được những hiểu biết theo bài học:
- Trong quá trình giảng dạy, ta cần có các đồ dùng trực quan đẹp, phù hợp
với nội dung bài để học sinh hứng thú học tập, cần liên hệ thực tế và mở rộng
kiến thức để các em áp dụng vào cuộc sống hằng ngày.
Ví dụ: Khi dạy về các bảng đơn vị đo độ dài, khối lượng, diện tích tôi sử
dụng các bảng cài trống cho các em được trực tiếp lên cài để hoàn thiện bảng.

2.3.4. Coi học sinh là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học:
- Trong quá trình dạy học, người giáo viên tổ chức, hướng dẫn và là trọng
tài khoa học. Mọi học sinh đều được hoạt động và phát triển.
- Giáo viên cần tránh nói nhiều và làm thay cho học sinh.
- Cần tổ chức cùng làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Ví dụ Khi dạy về Diện tích xung quang và diễn tích toàn phần của hình
lập phương thì giáo viên không nên áp đặt học sinh mà cần đưa mô hình trực
7


quan, giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát nhận xét rút ra kết luận: hình lập
phương là hình hộp chữ nhật đặc biệt (có 3 kích thước bằng nhau). Học sinh tự
rút ra kết luận về công thức tính diện tích xung quanh và diện tích toàn phần của
hình lập phương sau đó áp dụng công thức để làm bài tập.
2.3.5. Kết hợp với cha mẹ học sinh, tổ chức học ở nhà cho học sinh.
Qua các buổi họp phụ huynh học sinh, các buổi thăm nhà học sinh giáo
viên chủ nhiệm cùng cha mẹ các em trang trí lại góc học tập, lên thời gian biểu
cho các em học ở nhà, giáo dục cho các em tự giác học bài ở nhà.
Ví dụ: Chủ nhật tuần 7 tôi đã đến thăm gia đình em Lục Đăng Hoan (là
học sinh chưa hoàn thành Toán) sau khi trao đổi, bàn bạc với phụ huynh, tôi
cùng phụ huynh sắp xếp lại góc học tập cho các em, góc học tập là nơi có đủ
ánh sáng, không gần ti vi và nơi tiếp khách của bố mẹ, sau đó lên lịch cho các
em tự học ở nhà.
2.3.6. Thường xuyên kiểm tra kiến thức cũ, truy bài đầu giờ:
- Giáo viên đến lớp trước 15 phút để kiểm tra.
- Lớp trưởng, tổ trưởng truy bài đầu giờ. Giáo viên khen thưởng khuyến
khích tiến bộ của học sinh.
Ví dụ: Trước buổi học các em tự ôn bài, truy bài. Chẳng hạn hôm nay tiết
Toán học bài Phép cộng hai số thập phân thì trước buổi học đó các em truy bài,
tôi giao nhiệm vụ cho các tổ trưởng cho các bạn trong tổ ôn bài về cách cộng hai

số tự nhiên để khi học bài mới các em dễ dàng ghi nhớ cách cộng hai số thâp
phân và chỉ cần nắm thêm cách đặt dấu phẩy ở tổng có như vậy các em mới nhớ
bài nhanh, tiết dạy mới thành công.
2.3.7. Chia nhóm, phân công bạn học tốt kèm bạn học chưa tốt.
- “ Học thầy không tày học bạn”. Để các em học sinh gần gũi nhau và
giúp nhau cùng tiến bộ, xây dựng tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh, tôi chia
nhóm cho các em học tập ở lớp cũng như ở nhà. Ở lớp tôi sắp xếp cứ một em
học sinh tiếp thu bài nhanh nắm vững kiến thức kèm một em tiếp thu bài chậm.
Các em học tốt giúp bạn ôn bài thì thêm một lần được ghi nhớ kiến thức, bản
thân tôi cũng đỡ vất vả hơn trong việc kèm riêng cho từng em. Tôi còn tổ chức
thi đua giữa các nhóm giúp bạn. Nếu bạn nào tiến bộ tôi cho tuyên dương vào
thứ hai đầu tuần. Vì học sinh lớp tôi chủ yếu sinh sống ở 3 thôn Pà Cầu, Cộc và
Chiềng của xã Xuân Lộc nên ở nhà tôi sắp xếp các em gần nhà nhau thành một
nhóm và cử một học sinh làm nhóm trưởng. Nhóm trưởng có nhiệm vụ nhắc nhở
việc học bài, ôn bài ở nhà của các bạn và báo cáo với cô giáo chủ nhiệm vào đầu
mỗi buổi học. Không những thế, tôi còn yêu cầu các em nhóm trưởng kiểm tra
kĩ về cách học, cách trình bày bài làm, chữ viết …của các bạn. Tôi kiên trì sửa
8


thói quen xấu của các em như: chưa đọc kĩ đề bài trước khi làm bài tập, tính toán
cẩu thả, không làm nháp, trình bày tùy tiện, làm xong không chịu thử lại.
2.3.8. Dành thời gian, giảng giải kiến thức cũ mà học sinh chưa nắm
vững:
- Muốn tiếp thu kiến thức mới thì học sinh phải nắm vững kiến thức cũ.
Qua các buổi phụ đạo vào các buổi chiều giáo viên ôn tập và củng cố kiến thức
cũ cho các em về đọc, viết số tự nhiên, các phép tính với số tự nhiên, phân số, số
thập phân và giải toán có lời văn…
Ví dụ: khi phụ đạo cho các em về đọc, viết số thập phân:
Giáo viên hỏi học sinh: số thập phân gồm mấy phần? Là những phần nào?

Được sắp xếp ở vị trí thế nào?
Học sinh trả lời theo hiểu biết của các em.
Sau đó giáo viên nói cho học sinh rõ:
Phần nguyên cũng như số tự nhiên trước đây đã học: các chữ số được sắp
xếp từ phải sang trái, kể từ dấu phẩy là các chữ số hàng đơn vị, hàng chục, hàng
trăm, hàng nghìn…
Phần thập phân: kế từ dấu phẩy, các chữ số được sắp xếp từ trái sang phải
là các chữ số phần mười, phần trăm, phần nghìn…
Có số thập phân 123,456 thì:
- Phần nguyên gồm có: 1 trăm 2 chục 3 đơn vị.
- Phần thập phân gồm có: 4 phần mười, 5 phần trăm, 6 phần nghìn.
- Đọc là: Một trăm hai mươi ba phẩy bốn trăm linh sáu.
Cho học sinh đọc số thập phân, nêu phần nguyên, phần thập phân và giá
trị vị trí của mỗi chữ số ở từng hàng, rồi sau đó cho các em viết số thập phân.
- Khi thầy đọc: Một trăm hai mươi ba đơn vị, các em viết 123. Sau số này
các em đánh dấu phẩy. Khi thầy đọc tiếp 4 phần mười, các em viết số 4; 5 phần
trăm các em viết số 5; 6 phần nghìn các em viết số 6.
- Cuối cùng, ta được số thập phân 123,456.
- Sau đó cho học sinh nhắc lại cách đọc, viết số thập phân.
2.3.9. Tổ chức cho học sinh ôn tập, củng cố kiến thức từng chương qua
các trò chơi :
Giờ ra chơi hay những phút giải lao của các buổi lao động tôi thường gần
gũi chuyện trò cùng các em lồng vào đó những câu chuyện vui về toán học,
những câu đố đơn giản về phép nhân hay phép chia các em thi nhau trả lời thế là
thuộc được bảng nhân, bảng chia. Hình thức ôn tập này, giúp các em ôn tập,
củng cố kiến thức một cách nhẹ nhàng, hứng thú và hiệu quả. Đặc biệt để gây
hứng thú cho các em học tập tôi đã tổ chức cho các em học toán “ Vui – học,
9



Học – vui” qua các trò chơi sau: Trò chơi “ Hái hoa dân chủ”, Trò chơi “ Ai
nhanh, ai đúng” trò chơi “ Máy tính nhấp nháy”… Học toán qua các trò chơi,
học sinh tham gia sôi nổi, hào hứng và có sự tiến bộ rõ rệt.
Ví dụ: Trò chơi “ Hái hoa dân chủ” dùng để ôn tập cho học sinh sau mỗi
chương học. Hình thức ôn tập này, câu hỏi và bài tập là những kiến thức các em
đã học, học sinh lần lượt lên hái hoa (có ghi nội dung câu hỏi hoặc bài tập) học
sinh trả lời đúng nội dung câu hỏi, cả lớp và thầy cô vỗ tay khen ngợi. Hình thức
ôn tập này giúp các em ôn tập, củng cố kiến thức một cách nhẹ nhàng, hứng thú
và hiệu quả. Thời gian qua, lớp tôi đã tổ chức được 6 buổi ôn. Học sinh tham gia
sôi nổi, hào hứng.
2.4 Hiệu quả khi áp dụng đề tài
Qua thực tế giảng dạy các tiết học toán tôi nhận thấy: Ở những tiết học
đầu tiên học sinh chưa quen, chưa nắm được phương pháp, một số học sinh vẫn
còn làm sai tôi đã chọn những bài tập phù hợp với mức phát triển kỹ năng của
các em. Tổ chức tiết học sao cho mọi học sinh đều được tham gia một cách chủ
động, tự lực để đạt được kết quả cao nhất, từ đó gây hứng thú cho các em. Và
khi áp dụng các biện pháp trên chất lượng học tập môn toán của lớp tôi ngày
càng được nâng lên. Những học sinh chưa hoàn thành như em Lục Đăng Hoan,
em Cầm Bá Huân, em Cầm Bá Tiên…cũng có thể làm hết các bài tập theo
chuẩn kiến thức kĩ năng. Cũng nhờ vậy mà chất lượng học tập của lớp tôi ngày
càng được nâng lên số học sinh học chưa hoàn thành về môn toán không còn
nữa.
Đến nay học học sinh lớp tôi đã tìm ra kết quả bài toán nhanh hơn và
chính xác. Không khí học tập môn toán sôi nổi. Kết quả khảo sát tại thời điểm
hiện tại như sau:
Số học sinh lớp là: 25 em
Số học sinh tham gia khảo sát là: 24 em
Tổng số
Chưa hoàn thành
Hoàn Thành

Hoàn thành tốt
học sinh
SL
TL
SL
TL
SL
TL
24
0
0
16
66,7%
8
33,3%
Qua kết quả khảo sát cho thấy số học sinh chưa hoàn thành không còn
nữa, học sinh hoàn thành tốt tăng lên rõ rệt.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
a) Bài học kinh nghiệm:
10


Qua nghiên cứu và tìm hiểu một số biện pháp rèn luyện học sinh chưa
hoàn thành tại lớp 5B Trường Tiểu học Xuân Lộc năm học 2017-2018, bản thân
tôi rút ra bài học kinh nghiệm như sau :
- Trước tiên cần phải tiến hành tìm hiểu kịp thời phát hiện từng đối tượng
học sinh, đặc biệt là học sinh chưa hoàn thành để có biện pháp, phương pháp và
nội dung phụ đạo phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
- Tìm ra nguyên nhân cùng những biểu hiện của học sinh chưa hoàn

thành về môn toán.
- Lập kế hoạch và đề ra các biện pháp cụ thể rõ ràng; khi lên lớp phải
nghiên cứu kĩ mục tiêu bài dạy để đề ra phương pháp và hình thức dạy học thích
hợp, giúp các em hứng thú học tập và dễ tiếp thu nội dung bài.
- Vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với từng nhóm đối tượng
học sinh. Đặc biệt nếu học sinh hổng kiến thức từ lớp dưới thì giáo viên phải dạy
lại kiến thức đó vào các buổi chiều để lấp “lỗ hổng ” kiến thức cho học sinh.
- Tổ chức các giờ dạy học một cách linh hoạt, vận dụng các trò chơi học
tập để kích thích sự hứng thú của học sinh.
- Trong giảng dạy giáo viên phải nhẹ nhàng, kiên trì, chịu khó, biết động
viên kịp thời khi các em tiến bộ ( dù là một tràng vỗ tay của cả lớp hay lời khen
của cô) nhưng cũng cần kiên quyết lơ là đối với nhiệm vụ học tập.
- Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, xã hội.
- Khi thực hiện phụ đạo học sinh chưa hoàn thành cần tránh việc xúc
phạm đến nhân cách học sinh, cần phải kiên trì, thương yêu, gần gũi và giúp đỡ
các em.
b) Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
- Việc rèn học sinh chưa hoàn thành không phải là việc một sớm một
chiều mà cả một quá trình thống nhất, tích cực của cả thầy và trò, là hoạt động
đồng bộ của tất cả giáo viên các khối lớp.
- Việc rèn học sinh chưa hoàn thành ở tiểu học là điều cần thiết, tuy
nhiên mỗi giáo viên sẽ có phương pháp riêng của bản thân nhưng dù thế nào đi
nữa mối quan hệ tốt giữa giáo viên và học sinh, không khí tươi vui trong các giờ
học, việc hình thành thái độ học tập đúng đắn cho học sinh, động viên, khen
thưởng kịp thời… chính là những yếu tố quyết định dẫn đến sự thành công.
c) Khả năng ứng dụng, triển khai :
Tóm lại, để hoàn thành nhiệm vụ trọng trách người giáo viên chúng ta
phải quyết tâm khắc phục tháo gỡ những khó khăn vướng mắc. Đổi mới phương
pháp giảng dạy, xem các em là chủ thể của mọi hoạt động, làm sao để học sinh
chúng ta được học tập rèn luyện trong một bầu không khí vui tươi cởi mở, lành

11


mạnh, bước đầu kích thích sự hứng thú ham thích, tự tin, chủ động. Trường lớp
là mái ấm của các em được như thế thầy cô phải đầu tư thiết kế một phương
pháp để chuyển tải nội dung từng bài học. Một lần nữa bản thân giáo viên hãy tự
học, tự rèn, tự tin trên tinh thần đổi mới phương pháp giảng dạy mà chúng ta đều
đã được học hỏi, nghe thấy và áp dụng nhưng cũng phải linh hoạt, nhạy bén
thích nghi với điều kiện thực tế của trường, lớp mình phụ trách mình miễn sao
học sinh của chúng ta thật sự hứng thú học tập để đạt chất lượng và hiệu quả.
Sau khi áp dụng các biện pháp phụ đạo toán cho học sinh lớp 5B trường Tiểu
học Xuân Lộc huyện Thường Xuân chất lượng học tập môn toán của lớp tôi đã
được nâng lên rõ rệt. Tôi thiết nghĩ phương pháp này cũng sẽ phù hợp với những
trường vùng 135 như trường chúng tôi.
3.2. Kiến nghị
Đề nghị Ban giám hiệu và các đoàn thể thường xuyên hỗ trợ những em
có hoàn cảnh khó khăn thường là những em học sinh chưa hoàn thành, để các
em đạt kết quả tốt hơn ở cuối năm.
Ban giám hiệu nhà trường tăng cường công tác quản lí, yêu cầu giáo viên
các lớp đánh giá thực chất, nhằm tạo cho các em đủ điều kiện học lên lớp trên.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân đã tích lũy được trong quá
trình rèn luyện học sinh chưa hoàn thành, không tránh khỏi những sai sót. Mong
được sự góp ý của quý thầy cô cùng các bạn đồng nghiệp để sáng kiến hoàn
thiện hơn. Xin chân thành cám ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 05 tháng 03 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của

người khác.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Hiền

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
12


Họ và tên tác giả : Nguyễn Thị Hiền
Chức vụ và đơn vị công tác:Trường TH Xuân Lộc Thường Xuân – Thanh Hóa.

TT

Tên đề tài SKKN

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học đánh

giá xếp loại

Một số kinh nghiệm Hướng
1.

dẫn học sinh lớp 4 sử dụng
PP dùng sơ đồ đoạn thẳng để

Phòng
GD&ĐT

B

2009-2010

Phòng
GD&ĐT

B

2011-2012

Sở GD&ĐT

C

2011-2012

giải toán
Một số kinh nghiệm giúp học

2.

sinh lớp 4 giải toán có lời văn
liên quan đến tỉ số
Một số kinh nghiệm giúp học

3.

sinh lớp 4 giải toán có lời văn
liên quan đến tỉ số

---------------------------------------------------

13



×